Saturday, December 27, 2014

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q1) - Phẩm DANH TỰ CÔNG ĐỨC

Phẩm DANH TỰ CÔNG ĐỨC thứ sáu
Bấy giờ đức Như Lai lại bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Này Ca Diếp! Nay ông nên khéo thọ trì danh tự chương cú cùng công đức của kinh này. Nếu có ai được nghe tên kinh này, thời không còn phải sanh vào bốn đường ác. Vì kinh này là chỗ tu tập của vô lượng vô biên chư Phật. Nay Như Lai sẽ nói về chỗ được công đức."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Kinh này tên gì? Đại Bồ Tát phụng trì thế nào?"
Phật dạy: "Kinh này tên là Đại Bát Niết Bàn. Tất cả lời hoặc thượng, hoặc trung, hoặc hạ đều lành cả. Nghĩa vị thâm thúy, văn trong kinh cũng lành, tinh thuần đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh, bửu tạng kim cang đầy đủ không thiếu. Nay ông khéo nghe, Như Lai sẽ nói.
Này Ca Diếp! Nói là Đại đó gọi là Thường, như tám sông lớn đều chảy về biển cả. Kinh này hàng phục các kiết sử phiền não và các tánh ma, rồi cần phải ở nơi đại bát niết bàn mà buông bỏ thân mạng. Vì thế nên tên là Đại Bát Niết Bàn.
Lại như y sư có một bí phương, nhiếp cả các phương thuốc khác. Cũng vậy bao nhiêu môn diệu pháp thâm áo bí mật đều vào nơi "Đại Bát Niết Bàn". Vì thế nên gọi là "Đại Bát Niết Bàn".
Ví như nông phu, tháng mùa xuân gieo giống thường có hy vọng lúc đã gặt hái xong thời không còn hy vọng nữa.
Cũng vậy, tất cả chúng sanh tu học các thứ kinh khác thường hy vọng mùi vị, nếu được nghe kinh Đại Bát Niết Bàn này, thời sự hy vọng mùi vị nơi các kinh kia thảy đều dứt hẳn.
Đại Niết Bàn đây có thể làm cho chúng sanh qua khỏi các giòng hữu lậu trong ba cõi.
Này Ca Diếp! Như trong các dấu chân, dấu chân voi là hơn cả. Cũng vậy, kinh này là đệ nhứt nơi các kinh Tam muội.
Như cày ruộng, mùa thu cày là hơn cả, cũng vậy trong các kinh, kinh này là hơn cả.
Như trong các vị thuốc, vị đề-hồ là thứ nhứt hay trị bệnh nhiệt não loạn tâm của chúng sanh, cũng vậy, kinh Đại Bát Niết Bàn là thứ nhứt.
Như bơ ngọt đủ cả tám mùi. Cũng vậy, kinh này đầy đủ tám vị. Những gì là tám? Một là "thường", hai là "hằng", ba là "an", bốn là "thanh lương", năm là "chẳng già", sáu là "chẳng chết", bảy là "không nhơ", tám là "khoái lạc". Vì đầy đủ tám vị nên gọi là "Đại Bát Niết Bàn".
Nếu các vị đại Bồ Tát an trụ trong đây thời lại có thể thị hiện niết bàn ở nhiều nơi. Vì thế nên gọi là "Đại Bát Niết Bàn".
Này Ca Diếp! Nếu người nào muốn ở nơi Đại Bát Niết Bàn đây mà Niết Bàn thời phải học như vầy. Như Lai thường trụ, Pháp và Tăng cũng thường trụ."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Công đức của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn. Pháp và Tăng cũng không thể nghĩ bàn. Đại Niết Bàn đây cũng không thể nghĩ bàn.

Nếu có người tu học kinh điển này thời đặng pháp môn chơn chánh, có thể làm lương y. Nếu là chưa học, nên biết người này đui mù không con mắt trí huệ, bị vô minh che đậy".

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q1) - Phẩm KIM CANG THÂN

Phẩm KIM CANG THÂN thứ năm
Bấy giờ đức Phật lại bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Này Ca Diếp! Thân Như Lai là thân thường trụ, thân bất hoại, thân kim cang. Chẳng phải là thân tạp thực. Chính là pháp thân".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Những thân của Phật nói đó con đều chẳng thấy. Con chỉ thấy những thân vô thường, phá hoại, vi trần, tạp thực thôi. Vì rằng đức Như Lai sắp nhập niết bàn".
Phật dạy: "Này Ca Diếp! Ông chớ cho rằng thân của Như Lai hư hoại không bền như thân phàm phu.
Ông nên biết rằng thân Như Lai trong vô lượng ức kiếp luôn bền chắc không hư hoại, không phải thân người, thân trời, không phải thân sợ sệt, chẳng phải thân tạp thực. Thân của Như Lai chẳng phải thân mà là thân, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng tập chẳng tu, vô lượng vô biên, không có dấu vết, vô trí vô hình, rốt ráo thanh tịnh, không có lay động, không phải thọ hành, chẳng trụ chẳng làm, không mùi vị không xen tạp, chẳng phải hữu vi, chẳng phải nghiệp chẳng phải quả, chẳng phải dời chẳng phải diệt, chẳng phải tâm vương tâm sở, chẳng thể nghĩ bàn, thường chẳng thể nghĩ bàn, không thức, rời tâm cũng chẳng rời tâm, tâm đó bình đẳng không có mà cũng có, không đến đi mà cũng đến đi, chẳng phá hoại, chẳng đoạn tuyệt, chẳng sanh diệt, không chủ mà cũng là chủ, chẳng phải hữu vô, chẳng phải giác quán, chẳng danh tự, chẳng phải không danh tự, chẳng phải định, chẳng phải không định, không thể thấy mà cũng thấy rành rành, không nơi chỗ, cũng là nơi chỗ, không tối không sáng, không tịch tịnh mà cũng tịch tịnh, là vô sở hữu, chẳng nhận lấy, chẳng ban cho, trong sạch không nhơ, không tranh đua, dứt tranh đua, trụ nơi vô trụ, chẳng chấp lấy chẳng sa mắc, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp, chẳng phải phước điền chẳng phải không phước điền, vô tận bất tận, lìa tất cả tận, là rỗng không rời rỗng không, dầu chẳng thường trụ mà cũng thường trụ, chẳng phải niệm niệm diệt, không cấu trược, không danh tự rời danh tự, chẳng phải tiếng chẳng phải nói, cũng chẳng phải tu tập, chẳng phải cân lường, chẳng phải nhứt dị, chẳng phải hình tượng, chẳng phải tướng mạo mà đủ tướng tốt trang nghiêm, chẳng phải dõng mãnh, chẳng phải sợ sệt, không tịch chẳng tịch, không nhiệt chẳng nhiệt, không thể xem thấy không có tướng mạo.
Như Lai độ thoát tất cả chúng sanh vì không ai độ thoát cho. Như Lai có thể làm cho chúng sanh được hiểu biết, được giác ngộ, vì không ai giác ngộ cho. Như Lai thuyết pháp đúng như thật vì không có hai, chẳng thể nghĩ lường vì không sánh bằng, bình đẳng như hư không chẳng có hình mạo, đồng tánh vô sanh chẳng đoạn chẳng thường, thường hành nhứt thừa chúng sanh thấy là ba, chẳng thối chẳng chuyển, dứt tất cả kiết sử, chẳng gây chẳng chạm, chẳng phải tánh mà trụ nơi tánh, chẳng phải hiệp chẳng phải tan, chẳng phải dài chẳng phải vắn, chẳng phải tròn chẳng phải vuông, chẳng phải ngũ ấm lục nhập, thập bát giới, mà là ấm, nhập, giới, chẳng phải thêm chẳng phải tổn, chẳng phải hơn chẳng phải thua. Thân của Như Lai thành tựu vô lượng công đức như vậy, không có ai biết không ai chẳng biết, không ai thấy không ai chẳng thấy, chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi, chẳng phải thời gian chẳng phải không thời gian, chẳng phải làm chẳng phải chẳng làm, chẳng phải nương chẳng phải không nương, chẳng phải tứ đại chẳng phải không tứ đại, chẳng phải nhơn chẳng phải chẳng nhơn, chẳng phải chúng sanh chẳng phải chẳng chúng sanh, chẳng phải Sa Môn, chẳng phải Bà La Môn, là sư tử là đại sư tử, chẳng phải thân chẳng phải chẳng thân, chẳng thể tuyên thuyết trừ một pháp tướng không tính đếm được, lúc nhập niết bàn chẳng nhập niết bàn. Pháp thân của Như Lai thảy đều thành tựu vô lượng công đức vi diệu như vậy.
Này Ca Diếp! Chỉ có Như Lai mới biết tướng ấy, chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giác biết được. Những công đức như vậy thành thân của Như Lai, chẳng phải thân do tạp thực nuôi lớn.
Này Ca Diếp! Chơn thân của Như Lai có công đức như vậy, đâu lại có các bệnh hoạn mỏng manh chẳng bền như đồ gốm chưa hầm kia ư! Sở dĩ Như Lai thị hiện có sự khổ là vì muốn điều phục các chúng sanh.
Nay ông phải biết thân Như Lai là thân kim cang. Từ ngày nay ông phải chuyên tâm suy nghĩ nghĩa ấy, chớ nghĩ là thân tạp thực. Cũng nên vì người mà giảng nói thân Như Lai tức là pháp thân".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai thành tựu công đức như vậy, sao thân của Như Lai phải có bệnh khổ vô thường phá hoại?
Từ ngày nay, con phải thường suy nghĩ thân của Như Lai là pháp thân thường trụ, là thân an lạc. Con cũng sẽ nói rộng nghĩa ấy cho người khác cùng nghe biết.
Kính bạch Thế Tôn! Pháp thân của Như Lai Kim Cang bất hoại, mà con chưa rõ nguyên do thế nào."
Phật dạy: "Này Ca Diếp! Vì nhân duyên hay hộ trì chánh pháp nên được thành tựu thân Kim Cang này.
Này Ca Diếp! Do vì ngày trước Như Lai hộ pháp nên nay được thân Kim Cang thường trụ bất hoại này.
Này Ca Diếp! Người hộ trì chánh pháp chẳng thọ năm giới, chẳng tu oai nghi. Phải cầm binh khí hộ trì Tỳ Kheo giữ giới thanh tịnh".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Nếu có Tỳ Kheo rời sự hộ trì, ở riêng nơi vắng vẻ, bên gò, dưới cây, thời nên gọi vị này là chơn Tỳ Kheo. Nếu có người theo giữ gìn, phải biết vị này là cư sĩ trọc".
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Ông chớ nói là cư sĩ trọc. Nếu có Tỳ Kheo tùy ở chỗ nào nuôi thân vừa đủ, đọc tụng kinh điển, tư duy tọa thiền. Có ai đến thưa hỏi đạo pháp, thời giảng nói phước đức trì giới, bố thí, ít muốn biết đủ. Dầu hay thuyết pháp như vậy mà vẫn không thể tuyên thuyết pháp đại thừa, không có đồ chúng đại thừa, không hàng phục được kẻ ác phi pháp. Tỳ Kheo này không có thể đem lợi ích lại cho chính mình và chúng sanh. Phải biết Tỳ Kheo này lười nhác biếng trễ. Dầu hay giữ giới gìn hạnh thanh tịnh mà không làm được việc gì.
Nếu có Tỳ Kheo nuôi thân đầy đủ, giữ gìn cấm giới đã thọ, có thể giảng rộng giáo lý vi diệu đại thừa trong chín bộ kinh, để lợi ích an lạc các hạng chúng sanh. Xướng lên rằng: Trong kinh Niết Bàn, đức Phật bảo các Tỳ Kheo chẳng được chứa nuôi tôi tớ trâu bò dê lợn, những vật phi pháp. Nếu có Tỳ Kheo nào chứa nuôi những vật bất tịnh ấy thời phải răn trị. Đức Như Lai ở trong bộ kinh khác đã từng nói có Tỳ Kheo nuôi chứa những vật phi pháp ấy, bị quốc vương cứ pháp trừng trị bắt phải hoàn tục.
Nếu có Tỳ Kheo lúc tuyên thuyết những lời như trên đây, những kẻ phá giới nghe được rất oán hận bèn hại vị pháp sư này. Dầu bị giết chết, nhưng vị pháp sư này vẫn được gọi là bậc trì giới lợi mình lợi người. Vì do duyên này nên Như Lai cho phép vua, quan, cư sĩ hộ trì người thuyết pháp. Nếu ai muốn được hộ trì chánh pháp phải nên học như vậy.
Này Ca Diếp! Người phá giới chẳng hộ trì chánh pháp, gọi là cư sĩ trọc. Chẳng phải người trì giới mang phải danh từ ấy.
Này Ca Diếp! Về đời quá khứ đã vô lượng vô biên vô số kiếp, nơi thành Câu Thi Na này có Phật ra đời hiệu Hoan Hỷ Tăng Ích Như Lai đủ cả mười đức hiệu. Lúc ấy cõi nước rộng lớn tốt đẹp giàu vui, nhân dân đông đầy ấm no như chư Bồ Tát ở cõi An Lạc. Phật Hoan Hỷ Tăng Ích ở đời rất lâu, cơ duyên đã mãn, ngài nhập Niết Bàn, nơi rừng Ta La. Sau khi Phật Hoan Hỷ Tăng Ích nhập Niết Bàn, chánh pháp còn ở đời vô lượng ức năm, lúc còn lại bốn mươi năm cuối cùng, bấy giờ có một Tỳ Kheo trì giới hiệu là Giác Đức có đông đồ chúng. Tỳ Kheo Giác Đức hay tuyên thuyết chín bộ kinh. Cấm các Tỳ Kheo không được chứa nuôi tôi tớ trâu bò heo dê, những vật phi pháp. Bấy giờ có các Tỳ Kheo phá giới oán ghét theo làm hại Giác Đức. Quốc Vương Hữu Đức nghe được việc ấy, vì hộ pháp nên nhà vua liền vội đến đấu chiến với bọn phá giới, nhờ đó mà pháp sư Giác Đức khỏi nạn. Nhà vua cả mình bị thương rất nặng. Pháp sư Giác Đức liền khen vua rằng: "Lành thay! Lành thay! Nay vua thiệt là người hộ pháp, đời sau, thân vua sẽ là vô lượng pháp khí". Vua nghe lời ấy lòng rất vui mừng, rồi liền chết sanh về cõi Phật A Súc làm vị đệ tử thứ nhất. Quân lính, nhân dân hoặc người theo vua chiến đấu, hoặc tùy hỷ đều được không thối chuyển tâm bồ đề, sau khi chết họ cũng được sanh về nước của Phật A Súc. Pháp sư Giác Đức khi mãn thọ cũng sanh về cõi ấy làm vị đệ tử thứ hai trong chúng Thanh Văn của Phật A Súc.
Này Ca Diếp! Quốc Vương trước kia, là tiền thân của Như Lai đây, pháp sư Giác Đức là tiền thân của Phật Ca Diếp.
Nếu lúc chánh pháp sắp diệt phải nên hộ trì như vậy. Người hộ pháp được vô lượng quả báo, vì thế nên nay Như Lai được nhiều tướng tốt để tự trang nghiêm, thành tựu pháp thân không biến hoại".
Ca Diếp Bồ Tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Thân chơn thường của Như Lai cũng như khắc chạm vào đá".
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Này Ca Diếp! Vì nhân duyên như vậy nên Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di phải siêng năng hộ trì chánh pháp. Hộ pháp được quả báo rộng lớn vô lượng.
Này Ca Diếp! Vì những cớ ấy nên hàng Ưu Bà Tắc v.v… phải cầm binh khí ủng hộ vị Tỳ Kheo trì pháp như Giác Đức kia. Nếu cứ thọ trì ngũ giới, chẳng đặng gọi là người đại thừa. Vì hộ trì chánh pháp mà chẳng thọ ngũ giới mới gọi là người đại thừa. Người hộ trì chánh pháp nên phải cầm binh khí hầu người thuyết pháp".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Nếu chư Tỳ Kheo làm bạn với hàng Ưu Bà Tắc cầm binh khí như vậy, là có thầy hay không có thầy? là trì giới hay phá giới?".
Phật nói: "Ông chớ nói những người ấy là phá giới.
Này Ca Diếp! Sau khi ta nhập niết bàn, đời trược ác, cõi nước hoang loạn, đánh cướp lẫn nhau, nhân dân đói khổ. Bấy giờ có người vì đói khổ nên phát tâm xuất gia, người như vậy gọi là người trọc. Hạng trọc ấy thấy Tỳ Kheo thanh tịnh giữ giới oai nghi đầy đủ hộ trì chánh pháp, bèn xua đuổi hoặc giết hại".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thời Tỳ Kheo trì giới hộ trì chánh pháp, làm thế nào đi vào tụ lạc thành ấp để giáo hóa".
Phật nói: "Vì vậy nên Như Lai cho phép Tỳ Kheo trì giới cùng làm bạn với hàng cư sĩ cầm khí giới. Trong trường hợp trên đây, các quốc vương, đại thần, trưởng giả, Ưu Bà Tắc v.v… vì hộ pháp mà cầm binh khí. Như Lai gọi họ là người trì giới. Dầu cầm binh khí nhưng chẳng nên giết chết người, nếu được như vậy thời được gọi là người trì giới bậc nhứt.
Này Ca Diếp! Người đủ chánh kiến, có thể giảng rộng kinh điển đại thừa, trọn chẳng nắm cầm tàn lọng của hàng vương giả, bình dầu, gạo thóc, các thứ dưa trái. Chẳng vì lợi dưỡng mà thân cận vua, quan, trưởng giả. Đối với các đàn việt tâm không dua vạy, đầy đủ oai nghi, phục trừ hạng ác phá giới, đây gọi là bậc thầy trì giới hộ pháp. Người này có thể làm chơn thiện tri thức cho chúng sanh. Tâm người này rộng lớn như biển cả.
Này Ca Diếp! Nếu có Tỳ Kheo vì cầu lợi mà thuyết pháp cho người. Đồ chúng quyến thuộc của Tỳ Kheo này cũng bắt chước thầy mà cầu lợi. Tỳ Kheo này bèn là tự phá hoại tăng chúng.
Này Ca Diếp! Tăng chúng có ba hạng: một là phạm giới tạp tăng, hai là ngu si tăng, ba là thanh tịnh tăng. Hạng phá giới tạp tăng thời dễ phá hoại. Hạng tăng thanh tịnh trì giới thời lợi danh không làm hư hoại được.
Thế nào là phá giới tạp tăng? Nếu thầy Tỳ Kheo dầu là giữ gìn giới cấm, mà vì cầu lợi nên cùng với người phá giới ở chung, ngồi chung, đi chung, sự nghiệp chung, đây gọi là phá giới cũng gọi là tạp tăng.
Thế nào là ngu si tăng? Nếu có Tỳ Kheo ở nơi A Lan Nhã, tâm trí tối khờ đần độn, thiểu dục đi khất thực. Đến ngày thuyết giới, ngày tự tứ, bảo các đệ tử thanh tịnh sám hối. Thấy người không phải đệ tử phạm giới không có thể bảo thanh tịnh sám hối, mà bèn chung thuyết giới tự tứ. Đây gọi là hạng ngu si tăng.
Thế nào là thanh tịnh Tăng? Có Tỳ Kheo Tăng không bị trăm ngàn loài ma làm trở hoại. Đại chúng Bồ Tát này bổn tánh thanh tịnh, có thể điều phục hai bộ chúng trên làm cho đều an trụ trong chúng thanh tịnh. Đây gọi là bậc đại sư Hộ pháp vô thượng.
Người khéo trì luật vì muốn điều phục lợi ích chúng sanh, rõ biết hành tướng hoặc khinh hoặc trọng của giới, không phải luật thời không chứng biết, còn phải là luật thời bèn chứng biết.
Thế nào là điều phục lợi ích chúng sanh? Nếu là Bồ Tát vì giáo hóa chúng sanh mà thường vào xóm làng chẳng chọn thời tiết, hoặc đến nhà của góa phụ, dâm nữ mà cùng ở chung nhiều năm. Đây gọi là điều phục lợi ích chúng sanh. Nếu là hàng Thanh Văn thời không nên làm như vậy.
Thế nào là giới trọng? Nếu thấy đức Như Lai nhơn sự chế giới, từ ngày nay ông phải cẩn thận chớ lại phạm, như bốn giới trọng người xuất gia không nên làm mà bèn cố ý làm là không phải là Sa Môn, không phải hàng Thích-tử, đây gọi là trọng.
Thế nào là giới khinh? Nếu phạm tội nhẹ, ba lần can gián, nếu hay bỏ được, đây gọi là khinh.
Chẳng phải luật không chứng biết, là khi có người khen nói những vật không thanh tịnh nên thọ dùng thời không ở chung với người ấy.
Phải là  luật thời chứng biết, là khéo học giới luật, chẳng gần người phá giới, thấy ai thực hành thuận với giới luật thời lòng vui mừng, khéo hay giải thuyết thế nào là chỗ làm của Phật pháp, đây gọi là luật sư, khéo hiểu nhứt tự, khéo gìn khế-kinh cũng lại như vậy.
Này Ca Diếp! Phật pháp vô lượng chẳng thể nghĩ bàn. Như Lai cũng vậy, chẳng thể nghĩ bàn".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Đúng như lời đức Phật dạy, Phật pháp vô lượng chẳng thể nghĩ bàn. Như Lai cũng vậy, chẳng thể nghĩ bàn. Vì thế nên biết Như Lai thường trụ chẳng biến đổi, chẳng hư hoại. Nay con khéo học và cũng sẽ giảng rộng cho người về nghĩa ấy".

Phật khen Ca Diếp Bồ Tát: "Lành thay! Lành thay! Thân Như Lai là thân Kim Cang bất hoại. Bồ Tát phải khéo học như vậy, thấy chơn chánh biết chơn chánh như vậy. Nếu có thể thấy biết rành rẽ như vậy, thời là thấy thân Kim Cang không hư hoại của Phật, như thấy hình sắc trong gương sáng".

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q1) - Phẩm TRƯỜNG THỌ

Phẩm TRƯỜNG THỌ thứ tư
Đức Phật lại bảo các vị Tỳ Kheo: "Các thầy ở nơi giới luật có chỗ nào nghi ngờ, cho phép các thầy hỏi. Như Lai sẽ giải thích cho. Tất cả các pháp bổn tánh không tịch. Như Lai đã tu học rành rẽ thông đạt. Các thầy chớ nghĩ rằng Như Lai chỉ tu các pháp bổn tánh không tịch. Ở nơi giới luật có chỗ nào nghi ngờ, các thầy nên hỏi."
Các Tỳ Kheo bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Chúng con không đủ trí huệ để hỏi đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Vì cảnh giới của Như Lai không thể nghĩ bàn, thiền định của Như Lai không thể nghĩ bàn, lời phán dạy của Như Lai không thể nghĩ bàn. Vì cớ ấy nên chúng con là hạng không đủ trí huệ để hỏi đức Như Lai.
Bạch Thế Tôn! Ví như ông già trên trăm tuổi đang phải bệnh trầm trọng nằm liệt trên giường sẽ chết mất nay mai. Một người giàu kia có duyên sự muốn đến xứ khác, đem trăm cân vàng gởi cho ông già ấy mà giao ước rằng: hoặc mười năm, hoặc hai mươi năm, chừng nào trở về thời ông hoàn số vàng này lại cho tôi. Ông già nhận giữ vàng, không bao lâu thời chết, ông già lại không người kế tự, số vàng gởi kia đều thất lạc cả. Lúc người chủ vàng trở về không biết đòi hỏi ai, đành chịu mất vàng. Chủ vàng là kẻ vô trí, khi gởi vàng không biết chọn nơi đáng gởi, nên phải mất vàng.
Cũng vậy, hàng Thanh Văn chúng con dầu nghe đức Như Lai ân cần dạy bảo mà chúng con không thể thọ trì khiến chánh pháp được bền lâu, khác nào ông già kia nhận vàng của người gởi, rồi không sống được mà giữ gìn. Chúng con vô trí, ở nơi giới luận sẽ hỏi những gì!".
Đức Phật nói: "Nếu nay các thầy hỏi Như Lai thời có thể đem lại sự lợi ích cho chúng sanh, nên Như Lai mới bảo các thầy có chỗ nào nghi thời cho phép hỏi".
Các Tỳ Kheo bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Ví như một người trai trẻ khỏe mạnh lối hai mươi lăm tuổi, nhà giàu có, cha mẹ vợ con quyến thuộc đông đủ. Có người đem vàng bạc đến gởi cho người trai trẻ này mà nói rằng: "Tôi có duyên sự cần phải đi xa. Khi tôi trở về, anh sẽ hoàn số vàng bạc này lại cho tôi". Người trai trẻ nhận vàng bạc và cất giữ kỹ lưỡng. Ít lúc phải bệnh, người trai trẻ dặn thân quyến rằng số vàng bạc này là của ông già gởi, khi nào ông ấy đến hỏi thời giao đủ cho ông ấy. Thời gian sau, người gởi vàng bạc trở về được thân quyến của người trai trẻ hoàn đủ số đã gởi. Đây là người có trí, biết chọn chỗ đáng gởi nên khỏi mất của.
Cũng vậy, nếu đức Thế Tôn đem pháp bảo giao phó cho A Nan và các Tỳ Kheo ắt chẳng đặng lâu dài, vì tất cả hàng Thanh Văn và Ma-Ha Ca Diếp đều sẽ vô thường, như ông già trước kia. Đức Như Lai nên đem Phật pháp vô thượng giao phó cho Bồ Tát vì hàng Bồ Tát đủ trí huệ có thể hỏi Như Lai, pháp bảo sẽ được lâu dài hưng thạnh lợi ích cho chúng sanh, như người trai trẻ trước kia. Vì những lẽ ấy nên chỉ có hàng Bồ Tát là có thể hỏi đức Như Lai thôi. Trí huệ của chúng con như mòng muỗi, làm sao hỏi được pháp thâm diệu của Như Lai".
Bạch xong, các Tỳ Kheo đều ngồi yên lặng.
Đức Phật khen các Tỳ Kheo rằng: "Lành thay! Lành thay! Các thầy khéo được tâm vô lậu, tâm A La Hán. Như Lai cũng đã suy xét hai duyên cớ mà các thầy vừa trình bày, nên đem pháp đại thừa giao phó cho hàng Bồ Tát, khiến diệu pháp này còn được lâu nơi đời".
Đức Phật bảo toàn thể đại chúng: "Thọ mạng của Như Lai không thể tính lường, biện tài cũng chẳng thể cùng tận. Đại chúng phải nên tùy ý bạch hỏi, hoặc nơi giới luật, hoặc nơi pháp quy y".
Đức Phật tuyên bố luôn ba lần như vậy.
Bấy giờ trong đại chúng có một vị đại Bồ Tát tuổi còn trẻ, vốn là người trong tụ lạc Đa La, họ Đại Ca Diếp, dòng Bà La Môn, do thần lực của Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, cung kính nhiễu Phật, gối hữu chấm đất, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Nay con có chút việc muốn bạch hỏi, xin Đức Thế Tôn hứa khả cho".
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri cho phép ông hỏi. Như Lai sẽ giải quyết chỗ nghi của ông, cho ông vui mừng".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Đức Thế Tôn xót thương đã cho phép, nay con sẽ hỏi, nhưng trí huệ của con rất kém. Đạo đức của Thế Tôn cao vòi vọi, thân của Như Lai như chơn kim cang, màu như ngọc lưu ly. Trong đại hội đây, các vị đại Bồ Tát thảy đều thành tựu vô lượng vô biên thâm diệu công đức. Ở trước một đại hội như thế này, đâu dám bạch hỏi. Nay con nương sức thần thông của Phật và nhơn thiện căn oai đức của đại chúng mà bạch hỏi ít điều thôi".
Ca Diếp Bồ Tát liền ở trước Phật, nói kệ rằng:
Thế nào được trường thọ
Thân kim cang chẳng hoại?
Lại do nhơn duyên gì
Đặng sức kiên cố lớn?
Thế nào rời kinh này
Rốt ráo đến bờ kia?
Nguyện Phật vì chúng sanh
Giảng bày nghĩa kín nhiệm.
Thế nào đặng rộng lớn
Làm y chỉ cho chúng?
Thiệt chẳng phải La Hán
Mà đồng hàng La Hán?
Thế nào biết thiên ma
Làm lưu nạn cho chúng?
Lời Phật, lời Ba Tuần,
Thế nào phân biệt biết?
Thế nào bậc Điều Ngự
Hoan hỷ nói chơn đế
Đủ thành tựu chánh thiện
Diễn nói bốn điên đảo?
Làm nghiệp lành thế nào
Xin Thế Tôn dạy bảo.
Thế nào các Bồ Tát
Thấy được tánh khó thấy?
Nghĩa mãn tự, bán tự
Phải hiểu như thế nào?
Thế nào cộng thánh hạnh
Như chim Ta-La-Ta?
Thế nào chưa phát tâm
Mà gọi là Bồ Tát?
Thế nào giữa đại chúng 
Mà đặng không kinh sợ
Như vàng Diêm Phù Đàn
Không ai chỉ trích được?
Thế nào ở đời trược
Chẳng nhơ như hoa sen?
Thế nào ở phiền não
Phiền não chẳng nhiễm được,
Như y sư trị bệnh
Chẳng bị bệnh truyền lây?
Thế nào làm lái thuyền 
Ở giữa biển sanh tử?
Thế nào thoát sanh tử
Như rắn lột da cũ?
Thế nào xem Tam Bảo
Dường như cây Thiên Ý?
Ba thừa nếu vô tánh
Thế nào mà nói đặng,
Như sự vui chưa có
Sao lại nói thọ vui?
Thế nào các Bồ Tát
Mà đặng chứng bất hoại?
Thế nào vì người mù
Mà làm người chỉ đường?
Thị hiện nhiều đầu kia
Xin Phật giải rõ cớ.
Thế nào người thuyết pháp
Thêm lớn như trăng mọc?
Thế nào lại thị hiện
Rốt ráo nơi niết bàn?
Thế nào bậc dũng kiện
Hiện nhân, thiên, ma, đạo?
Thế nào biết pháp tánh
Mà thọ nơi pháp lạc?
Thế nào các Bồ Tát
Xa lìa tất cả bệnh?
Thế nào vì chúng sanh
Diễn thuyết nơi bí mật?
Thế nào nói rốt ráo
Và cũng chẳng rốt ráo?
Như kia dứt lưới nghi
Tại sao nói bất định?
Thế nào là đặng gần
Đạo tối thắng vô thượng?
Con nay thỉnh Như Lai
Vì các hàng Bồ Tát
Giảng nói pháp thậm thâm
Các hạnh vi diệu thảy
Trong tất cả các pháp
Đều có tánh an lạc
Cúi xin đấng Thế Tôn
Phân biệt dạy chúng con.
Bậc nương tựa của chúng
Diệu dược Lưỡng Túc Tôn
Nay muốn hỏi các ấm
Mà con không trí huệ,
Các Bồ Tát tinh tấn
Cũng lại chẳng biết được.
Cảnh giới của chư Phật
Rất sâu màu như vậy.
Đức Phật khen Ca Diếp Bồ Tát: "Lành thay! Lành thay! Nay ông chưa được nhứt-thiết-chủng-trí, Như Lai đã được, nhưng bí tạng rất sâu của ông vừa hỏi đồng như chỗ hỏi của bậc nhứt-thiết-trí.
Này thiện nam tử! Lúc ta mới thành đạo chánh giác nơi cội Bồ Đề, có vô lượng Bồ Tát ở mười phương thế giới cũng từng đến hỏi Như Lai những nghĩa thậm thâm ấy. Văn nghĩa công đức đã hỏi ngày trước cùng với của ông hôm nay đồng nhau không khác.
Hỏi như vậy có thể đem sự lợi ích lại cho vô lượng chúng sanh".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Con không đủ trí để hỏi Như Lai về những thâm nghĩa ấy.
Ví như muỗi mòng chẳng thể bay qua đến bờ kia của biển cả, cùng lượn khắp hư không. Cũng vậy, con không thể bạch hỏi Như Lai về những nghĩa biển cả, trí huệ và hư không pháp tánh rất sâu như vậy.
Ví như quốc vương đem viên minh châu trong búi tóc giao cho quan giữ kho. Quan giữ kho lãnh châu hết lòng cung kính gìn giữ. Cũng vậy, con hết lòng cung kính giữ gìn nghĩa lý đại thừa rất sâu của Như Lai truyền dạy. Vì nghĩa lý ấy làm cho con được trí huệ sâu rộng."
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Lóng nghe! Lóng nghe! Như Lai sẽ vì ông mà nói nghiệp nhơn trường thọ của Như Lai đã được. Do nơi nghiệp nhơn này mà Bồ Tát được thọ mạng dài lâu. Nếu hạnh nghiệp có thể làm nhơn cho quả Bồ Đề thời phải nên thành tâm nghe kỹ và lãnh thọ nghĩa ấy. Đã tự lãnh thọ rồi nói lại cho người khác. Do tu tập hạnh nghiệp ấy mà Như Lai đặng thành vô thượng chánh giác. Nay lại vì người mà giảng rộng ý nghĩa ấy.
Ví như vương tử phạm tội bị giam vào ngục, nhà vua rất nhớ thương con, đích thân ngự đến ngục thất. Cũng vậy, muốn được trường thọ, Bồ Tát phải nên hộ niệm tất cả chúng sanh, xem như con ruột, sanh lòng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, truyền cho giới bất sát, dạy cho tu pháp lành. Cũng nên để tất cả chúng sanh ở nơi ngũ giới thập thiện. Lại đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la v.v…, để cứu vớt những kẻ khổ não trong các nơi ấy. Giải thoát kẻ chưa giải thoát, cứu độ người chưa được cứu độ. Người chưa chứng niết bàn làm cho chứng niết bàn. An ủi tất cả ngưởi đang ở trong cảnh kinh sợ. Do các nghiệp nhân trên đây mà Bồ Tát được thọ mạng dài lâu, nơi các trí huệ được tự tại. Sau khi mạng chung sanh lên cõi trên".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Ma Ha Tát bình đẳng xem chúng sanh đồng như con ruột, nghĩa ấy rất sâu, con chưa hiểu được. Đức Thế Tôn chẳng nên nói Bồ Tát đối với chúng sanh tu tâm bình đẳng xem đồng như con, vì trong Phật pháp có người phá giới, có kẻ phạm tội nghịch, có kẻ hủy báng chánh pháp. Sao lại với những hạng ấy mà xem đồng như con?"
Phật dạy: "Phải đấy! Như Lai đối với chúng sanh thiệt xem đồng là con như La Hầu La".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Trước kia, ngày rằm lúc chư Tăng đang bồ-tát. Có một đứa trẻ không khéo tu tập ba nghiệp thân, khẩu, ý, núp ở chỗ kín rình nghe chư Tỳ Kheo-tăng thuyết giới. Mật Tích Lực Sỹ nương thần lực của Phật lấy chày kim cang đập đứa trẻ ấy nát ra như bụi. Bạch Thế Tôn! Vị thần Kim Cang ấy rất là bạo ác mới giết được đứa trẻ. Thế sao Như Lai xem các chúng sanh đồng như con là La Hầu La?"
Phật dạy: "Ông không nên nói như vậy.
Đứa trẻ ấy chính là người biến hóa, chẳng phải người thiệt. Vì muốn xua đuổi những kẻ phá giới hủy pháp ra ngoài chư Tăng nên hiện như vậy. Thần Kim Cang kia cũng là biến hóa thôi. Hạng hủy báng chánh pháp cùng nhứt-xiển-đề hoặc có người sát sanh nhẫn đến tà kiến, và cố ý phạm giới, Như Lai đối với những hạng ấy đều thương xót như con là La Hầu La.
Như quốc vương đối với bầy tôi phạm phép thời cứ tội tru lục mà chẳng tha. Như Lai Thế Tôn không phải như vậy; với hạng hủy pháp, làm pháp yết ma khu khiển, quở trách, cử tội v.v… Sở dĩ Như Lai làm các pháp yết ma trừng trị những hạng hủy báng chánh pháp như vậy là vì muốn chỉ rõ những người ác hạnh thời có quả báo.
Ông phải biết Như Lai là vị ban bố sự vô úy cho chúng sanh ác. Nếu Như Lai phóng ra một tia sáng, hoặc hai, năm tia sáng, kẻ nào gặp được thời đều xa lìa tất cả các điều ác. Nay Như Lai đầy đủ vô lượng thế lực như vậy.
Pháp chưa được thấy, nếu ông muốn thấy, nay sẽ vì ông nói tướng mạo đó. Sau khi Như Lai nhập niết bàn, nơi nào có Tỳ Kheo trì giới đầy đủ oai nghi hộ trì chánh pháp, thấy người hoại pháp bèn có thể khu khiển quở trách, trừng trị. Phải biết Tỳ Kheo ấy đặng phước vô lượng không thể tính kể.
Ví như quốc vương chuyên làm việc bạo ác, rồi mang bệnh nặng. Vua nước láng giềng nghe biết tình hình đem binh đến đánh, trách tội muốn giết. Vua ác bệnh ấy vì không thế lực, sợ hãi ăn năn chừa lỗi mà làm lành. Vua láng giềng kia được phước vô lượng. Cũng vậy, Tỳ Kheo giữ phép khu khiển quở trách người phạm giới cho họ chừa lỗi làm lành thời đặng phước vô lượng.
Ví như nhà cửa ruộng vườn của ông trưởng giả mọc lên những cây gai độc. Trưởng giả biết được bèn chặt đốn sạch cả.
Lại như người trai trẻ đầu có tóc bạc, vì hổ thẹn nhổ bỏ chẳng cho ra dài.
Cũng vậy, Tỳ Kheo giữ pháp thấy có người phá giới hủy hoại chánh pháp, bèn nên khu khiển, quở trách cử tội. Tỳ Kheo này là đệ tử của Như Lai, là chơn thật Thanh Văn. Nếu thấy mà bỏ qua, thời nên biết Tỳ Kheo này là người hại Phật pháp".
Ca Diếp Bồ Tát lại bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Cứ như lời Phật dạy, thời là không bình đẳng xem tất cả chúng sanh đồng như con là La Hầu La. Bạch Thế Tôn! Nếu có một người cầm dao hại Phật, lại có một người đem nước chiên-đàn thoa thân Phật. Như Lai đối với hai người này nếu là tâm bình đẳng, sao lại bảo rằng phải trừng trị kẻ phạm luật. Nếu trừng trị kẻ phạm luật thời lời dạy kia có lỗi".
Phật nói: "Như quốc vương, đại thần tể tướng có bốn người con trai diện mạo khôi ngô, thông minh sáng suốt, đem giao cho giáo sư dạy dỗ và dặn rằng: Thầy gắng dạy chúng nó cho được toàn vẹn cả tài lẫn đức. Nếu chúng nó ngỗ nghịch, thầy phải nghiêm trị, dầu ba đứa bị đòn chết, còn một đứa được nên, chúng tôi cũng vui lòng.
Này Ca Diếp! Như vậy thời cha và thầy của các trẻ có phải tội sát sanh chăng?"
Ca Diếp Bồ Tát thưa: "Bạch Thế Tôn, không! Vì lòng thương muốn cho các trẻ được nên, chớ chẳng phải ác tâm. Dạy dỗ như thế đặng phước vô lượng".
Phật nói: "Cũng vậy, Như Lai đối với kẻ phạm pháp xem đồng như con cả. Nay Như Lai đem chánh pháp vô thượng phó chúc các vua, đại thần, tể tướng, tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di. Các vua, quan và bốn bộ chúng phải nên khuyên răn, khích lệ các học chúng khiến đặng tăng thượng giới, định, trí huệ. Nếu người nào không tu học ba phẩm pháp này, lười biếng phá giới, hủy hoại chánh pháp, thời vua quan, bốn bộ chúng phải nên nghiêm trị.
Này Ca Diếp! Như vậy các vua, quan, bốn bộ chúng có mắc tội chăng?"
Ca Diếp Bồ Tát thưa: "Bạch Thế Tôn! Không!"
Phật nói: "Các vua, quan và bốn bộ chúng ấy còn không có tội, huống là Như Lai.
Này Ca Diếp! Như Lai khéo tu đức bình đẳng như vậy, xem các chúng sanh đồng là con cả. Tu như vậy gọi là Bồ Tát tu tâm bình đẳng nơi các chúng sanh xem đồng là con. Bồ Tát tu tập hạnh nghiệp bình đẳng này thời được thọ mạng lâu dài, lại cũng khéo biết những việc đời trước".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy nếu Bồ Tát tu tâm bình đẳng đối với chúng sanh xem như con ruột thời được thọ mạng dài lâu. Đức Như Lai chẳng nên dạy như thế.
Như người biết phép, có thể giảng nói các hạnh hiếu thuận, khi về đến nhà lại lấy ngói đá ném đánh cha mẹ. Mà cha mẹ là ruộng phước lớn có ơn nhiều nên phải cúng dường, trở lại đánh đập, thời người biết phép này, lời nói cùng hành động trái ngược nhau.
Lời dạy của Như Lai cũng vậy. Bồ Tát tu tâm từ bình đẳng được thọ mạng dài lâu, biết được túc mạng, thường ở nơi đời, không có đổi đời. Nay đây do duyên cớ gì mà đức Thế Tôn thọ mạng rất ngắn đồng nhân gian ư? Hay là Như Lai có oán ghét chi chúng sanh? Ngày trước Như Lai làm nghiệp ác gì, giết chết mấy mạng, mà mắc báo đoản thọ sống không đầy trăm tuổi ư?"
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Nay duyên cớ gì mà ông nói lời thô ở trước Như Lai như thế? Như Lai trường thọ rất hơn hết trong các tuổi thọ. Như Lai chứng được pháp thường trụ hơn hết trong các pháp thường trụ".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai được thọ mạng dài lâu thế nào?".
Phật nói: "Như tám con sông lớn: một là sông Hằng, hai là sông Diêm Ma La, ba là sông Tát La, bốn là sông A Lợi La, năm là sông Ma Ha, sáu là sông Tân Đầu, bảy là sông Bác Xoa, tám là sông Tất Đà. Tám con sông này cùng các sông nhỏ đều chảy vào biển lớn.
Cũng vậy, tất cả con sông thọ mạng của người, của trời, của đất, của hư không, đều vào trong biển thọ mạng của Như Lai. Vì vậy nên Như Lai thọ mạng vô lượng.
Ví như ao A Nậu chảy ra thành bốn con sông lớn. Cũng vậy, Như Lai xuất sanh tất cả thọ mạng.
Ví như trong các pháp thường trụ, hư không là đệ nhất. Cũng vậy, ở trong các pháp thường trụ, Như Lai là đệ nhứt.
Như trong các vị thuốc, vị đề hồ là đệ nhứt. Cũng vậy, trong các chúng sanh, thọ mạng của Như Lai là đệ nhứt".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Nếu thọ mạng của Như Lai dài lâu như vậy, thời Như Lai nên ở nơi đời hoặc một kiếp, hoặc ít hơn để thường tuyên diệu pháp, như tuôn mưa lớn".
Phật dạy: "Này Ca Diếp! Ông chẳng nên ở nơi Như Lai có quan niệm là diệt tận.
Này Ca Diếp! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, nhẫn đến ngoại đạo ngũ thông thần tiên, hạng được tự tại, hoặc sống một kiếp hay ít hơn, ở giữa hư không đi đứng nằm ngồi tự tại, nách tả phun lửa, nách hữu vọt nước, thân tuôn khói lửa, nếu muốn sống lâu thời được như ý muốn. Đối với mạng sống, hoặc dài hoặc ngắn, đều tự tại. Người được ngũ thông còn được thần lực tùy ý như vậy huống là Như Lai đặng sức tự tại đối với tất cả pháp, mà lại không thể ở đời hoặc nửa kiếp, hoặc một hai kiếp, hoặc trăn ngàn kiếp hoặc vô lượng kiếp sao? Vì những nghĩa ấy, phải biết rằng Như Lai là pháp thường trụ chẳng biến đổi. Thân của Như Lai đây là thân biến hóa chẳng phải thân tạp thực. Vì độ chúng sanh nên thị hiện đồng với chúng. Vì vậy nên thị hiện bỏ thân mà nhập niết bàn.
Ông nên biết rằng Phật là pháp thường trụ, là pháp không biến đổi. Ở trong đệ nhứt nghĩa này, các ông phải nên siêng năng tinh tấn nhứt tâm tu tập. Mình đã tu tập và vì người khác mà giảng nói".
Ca Diếp Bồ Tát thưa: "Bạch Thế Tôn! Có sự sai khác gì giữa xuất thế pháp cùng thế pháp? Như lời Phật dạy, Phật là pháp thường trụ, là pháp không biến đổi. Người đời cũng nói Phạm Thiên là thường, Tự Tại Thiên là thường, không biến đổi, họ cũng nói Ngã là thường, Tánh là thường, vi trần cũng thường.
Nếu nói Như Lai là pháp thường trụ, cớ sao Như Lai chẳng thường hiện nơi đời? Nếu không thường hiện nơi đời thời có khác gì nghĩa thường của thế gian? Vì Phạm Thiên nhẫn đến vi trần cũng chẳng hiện".
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Ví như nhà trưởng giả kia có nuôi nhiều bò, màu lông khác nhau, đồng chung một bầy. Trưởng giả giao bầy bò cho người chăn thả đi ăn cỏ uống nước, chỉ vì vị đề-hồ chớ chẳng cầu sữa bơ. Người chăn ấy vắt sữa rồi tự uống. Trưởng giả chết, bao nhiêu bò đều bị bọn cướp đoạt cả. Bọn cướp tự vắt sữa ra uống rồi bàn với nhau rằng ông trưởng giả nuôi bầy bò này chỉ muốn đặng vị đề-hồ chứ không cầu sữa bơ. Chúng ta làm cách gì để đặng đề-hồ. Đề-hồ là phẩm vật quý nhất trong đời. Chúng ta không có gì đựng, dầu vắt được sữa cũng không chỗ chứa. Chúng lại bàn đựng sữa trong túi da. Dầu có đồ đựng nhưng vì không biết cách làm, nên bơ còn không được thành, huống là đề-hồ. Vì muốn được đề-hồ, bọn cướp đổ thêm nước vào túi sữa, vì quá nhiều nước nên chẳng những không được đề-hồ, bơ, mà cả sữa cũng mất.
Phàm phu cũng vậy, dầu có pháp lành nhưng đều là pháp thừa của Như Lai. Sau khi Thế Tôn nhập niết bàn, họ trộm pháp lành thừa của Như Lai hoặc giới, định, hoặc huệ, như bọn cướp đoạt bầy bò. Hạng phàm phu dầu lại đặng giới, định, trí huệ, nhưng không có phương tiện nên chẳng giải quyết được. Vì nghĩa này nên họ không thể đặng thường giới, thường định, thường huệ giải thoát. Như bọn cướp kia chẳng biết phương tiện không được đề-hồ, rồi vì đề-hồ mà đổ nước vào sữa. Cũng vậy, hạng phàm phu vì giải thoát mà nói Ngã hoặc Phạm Thiên, Tự Tại Thiên, nhẫn đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên chính là niết bàn, kỳ thiệt họ chẳng được giải thoát niết bàn, như bọn cướp kia không được đề-hồ.
Hạng phàm phu ấy có chút ít phạm hạnh, cúng dường cha mẹ, nhờ đây được sanh lên trời hưởng một ít an lạc, như bọn cướp kia được sữa pha với nước. Mà hạng phàm phu ấy thiệt chẳng biết là do tu ít phạm hạnh, cúng dường cha mẹ đặng sanh lên cõi trời, họ lại chẳng biết được giới, định, trí huệ, quy y Tam Bảo, rồi do chẳng biết mà nói thường, lạc, ngã, tịnh. Dầu lại nói thường, lạc, ngã, tịnh mà thiệt ra thời họ chẳng biết. Vì thế nên sau khi ra đời, Như Lai vì chúng sanh mà diễn nói thường, lạc, ngã, tịnh.
Như vua Chuyển Luân ra đời, do sức phước đức của vua nên bọn cướp tan vỡ, bầy bò vẫn còn nguyên vẹn. Nhà vua bèn giao bầy bò cho người chăn rành nghề, do đó mà được đề-hồ, và nhờ đề-hồ mà nhân dân khỏi bệnh khổ.
Lúc đấng Pháp Vương ra đời, hạng phàm phu không thể diễn thuyết giới, định, trí huệ kia liền tan rã như bọn cướp. Bấy giờ Như Lai khéo giảng thế pháp và xuất thế pháp. Vì chúng sanh mà khiến các vị Bồ Tát theo đó để diễn thuyết. Chư đại Bồ Tát đã được đề-hồ, lại làm cho vô số chúng sanh được pháp vị cam lộ vô thượng, tức là thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai.
Này Ca Diếp! Vì những nghĩa ấy nên Như Lai là thường, là pháp không biến đổi. Chẳng đồng hạng người ngu trong đời gọi Phạm Thiên v.v… là pháp thường còn.
Gọi là pháp thường trụ thời phải là Như Lai chớ chẳng phải pháp nào khác. Ông phải hiểu biết thân Như Lai là như vậy.
Này Ca Diếp! Mọi người nên thường chuyên lòng hai chữ này: Phật là "thường trụ". Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nào tu hai chữ này, nên biết người ấy đi theo đường Phật đi, đến chỗ Phật đến.
Này Ca Diếp! Nếu ngươi tu tập hai chữ này làm tướng tịch diệt, nên biết Như Lai thời là nhập niết bàn đối với người ấy.
Này Ca Diếp! Nghĩa Niết Bàn chính là pháp tánh của chư Phật".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Pháp tánh của chư Phật nghĩa thế nào? Nay con muốn biết nghĩa của pháp tánh. Cúi mong đức Như Lai xót thương giải rộng cho.
Vả pháp tánh tức là xả thân, xả thân tức là vô sở-hữu, nếu vô sở-hữu thời thân làm sao còn. Thân nếu còn tại sao lại nói thân có pháp tánh? Thân có pháp tánh sao thân lại còn?
Nay con phải hiểu như thế nào về nghĩa ấy?"
Phật dạy: "Này Ca Diếp! Nay ông chẳng nên nói diệt là pháp tánh. Pháp tánh không có diệt.
Ví như vô tưởng thiên thành tựu sắc ấm mà không có sắc tưởng. Chẳng nên hỏi rằng các ông trời ấy sung sướng hưởng vui thế nào? Nghĩ tưởng những gì? Thấy nghe thế nào?
Này Ca Diếp! Cảnh giới của Như Lai chẳng phải là chỗ biết của Thanh Văn Duyên Giác. Chẳng nên nói rằng thân của Như Lai là pháp diệt.
Này Ca Diếp! Pháp diệt như thế là cảnh giới của Phật, chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giác biết được.
Nay ông không nên nghĩ lường Như Lai ở chỗ nào, đi chỗ nào, thấy chỗ nào, vui chỗ nào? Những nghĩa ấy, cũng chẳng phải các ông biết được. Pháp thân của Phật, các thứ phương tiện chẳng thể nghĩ bàn.
Này Ca Diếp! Nên phải tu tập Phật, Pháp và Tăng mà quán tưởng là thường. Ba pháp ấy không có dị tưởng. Không vô-thường tưởng, không biến dị tưởng. Nếu ở nơi ba pháp tu dị tưởng, phải biết rằng tam quy thanh tịnh của những người này thời không chỗ y nương, cấm giới của họ đều chẳng đầy đủ. Trọn chẳng chứng được quả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Đề. Nếu có thể ở nơi bất khả tư nghi này tu thường tưởng thời có chỗ quy y.
Này Ca Diếp! Ví như nhơn nơi cây thời có bóng cây. Cũng vậy, vì Như Lai có pháp thường trụ, thời có chỗ quy y, chớ chẳng phải là vô thường. Nếu cho rằng Như Lai là vô thường thời Như Lai không phải là chỗ quy y của người và của trời".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Ví như trong tối có cây mà không có bóng".
Phật nói: "Này Ca Diếp! Ông không nên nói là có cây mà không có bóng, chỉ vì nhục nhãn không thấy đó thôi. Cũng vậy, tánh Như Lai là thường trụ, là không biến đổi. Người không có con mắt trí huệ thời không thấy được. Như trong tối không thấy bóng cây. Cũng vậy, sau khi Phật nhập diệt, hạng phàm phu nói Như Lai là vô thường.
Nếu cho rằng Phật khác với Pháp và Tăng thời chẳng thành chỗ của ba pháp quy y. Như cha mẹ của ông mỗi mỗi sai khác, nên thành vô thường."
Ca Diếp Bồ Tát lại bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Bắt đầu từ nay, con sẽ đem ba pháp thường trụ Phật, Pháp và Tăng để khai ngộ cho cha mẹ, nhẫn đến cha mẹ trong bảy đời đều khiến phụng trì.
Bạch Thế Tôn! Nay con phải học Phật, Pháp, Tăng bất khả tư nghị. Tự mình học rồi lại sẽ vì người mà giảng giải những nghĩa ấy. Nếu người nào không tin, không nhận, thời người đó là kẻ tu pháp vô thường đã lâu. Con sẽ làm sương móc, làm mưa giá cho hạng người này".

Phật khen Ca Diếp Bồ Tát: "Lành thay! Lành thay! Nay ông khéo có thể hộ trì chánh pháp. Hộ pháp như vậy thời là không khinh khi người mà được quả báo trường thọ, biết rành những đời đã qua".

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q1) - Phẩm AI THÁN

Phẩm AI THÁN thứ ba
Ông Thuần Đà ra đi không bao lâu, khắp cả đại địa nhẫn đến trời Phạm Thiên bỗng chấn động sáu cách(36). Phàm địa động có hai: đại động và tiểu động. Có tiếng nhỏ, chỉ riêng nơi mặt đất chấn động, chỉ động một chiều, đây là tiểu địa động. Có tiếng lớn, cả đất liền cùng núi biển sông rạch cây cối đều động, động xoay nhiều chiều, lúc động có thể làm động cả tâm của chúng sanh, đây là đại địa động. Đức Phật ra đời có những lần đại địa động: từ cung trời Đâu Suất giáng thần xuống nhân gian sơ sanh, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, và nhập niết bàn. Giờ đây Như Lai sắp nhập Niết Bàn nên có điềm đại địa động như vậy.
Thiên Long bát bộ(37) cả mình rởn ốc, đồng thanh buồn khóc mà nói kệ rằng:
Cúi đầu lạy Thế Tôn
Chúng con đồng khuyến thỉnh,
Chúng con mà xa Phật
Thời không ai cứu hộ.
Đức Phật nhập Niết Bàn
Chúng con chìm biển khổ.
Khác nào nghé mất mẹ,
Sầu lo rất buồn khổ.
Nghèo cùng không ai giúp,
Cũng như người bệnh ngặt
Không lương y săn sóc
Tự ý ăn uống lầm,
Chúng sanh bệnh phiền não
Thường bị kiến chấp hại
Xa lìa đấng y vương(38)
Uống ăn thuốc tà độc.
Ngửa mong Phật Thế Tôn
Chớ bỏ rơi chúng con
Ví như mặt trời mọc
Quang minh rất sáng chói
Đã có thể tự soi
Cũng trừ tất cả tối,
Phật phóng thần thông quang
Trừ khổ não chúng sanh
Ở giữa các chúng hội
Ví như núi Tu Di(39).
Bạch Thế Tôn! Ví như quốc vương sanh các vương tử diện mạo xinh đẹp, vua rất yêu mến dạy cho rành nghề văn nghiệp võ rồi sai người đem giết.
Ngày nay chúng con là con của Phật, nhờ Phật dạy dỗ có đủ chánh kiến, xin chớ bỏ con. Nếu bỏ chúng con thời chúng con khác nào các vương tử kia. Ngửa mong đức Phật luôn ở nơi đời, chớ nhập Niết Bàn.
Bạch Thế Tôn! Ví như có người học giỏi nơi các bộ luận rồi sanh lòng sợ đối với các bộ luận ấy, cũng thế, đức Như Lai thông đạt các pháp mà lại sợ các pháp. Nếu được đức Như Lai ở luôn nơi đời giảng pháp cam lồ cho chúng sanh được thấm nhuần đầy đủ, thời các chúng sanh đây chẳng còn lại sợ phải bị sa vào địa ngục.
Bạch Thế Tôn! Ví như có người mới vừa học làm nghề, kế bị quan bắt giam vào ngục, có hỏi thăm hiện tại thế nào?, người ấy tất đáp: nay tôi rất buồn khổ. Nếu người ấy được thả, thời được an vui. Cũng thế, đức Thế Tôn vì chúng con mà tu các khổ hạnh, hiện nay chúng con chưa được thoát khỏi sanh tử, thế sao đức Như Lai đặng thọ hưởng an vui.
Bạch Thế Tôn! Ví như y vương hiểu rành các phương thuốc, đem phương bí truyền dạy riêng cho con mình, mà không dạy cho các trò khác. Cũng thế, đức Như Lai đem tạng pháp thậm thâm bí mật dạy riêng cho Văn Thù Sư Lợi, mà chẳng thương chẳng dạy cho chúng con. Như ông thầy thuốc kia vì lòng còn riêng tư thân sơ, nên sự dạy không bình đẳng rộng rãi, chỉ dạy riêng cho con mình môn bí phương, mà không truyền cho các trò khác. Đức Như Lai trọn không có lòng thân sơ tư vị, tại sao chẳng dạy dỗ chúng con. Ngửa mong đức Phật ở lâu nơi đời, chớ nhập niết bàn.
Bạch đức Thế Tôn! Ví như những người già trẻ bệnh khổ đi nơi đường hiểm rất khốn khó gian lao, có bậc dị nhân thấy vậy xót thương bèn chỉ cho con đường tốt bằng thẳng. Chúng con cũng như vậy. Người trẻ dụ cho những kẻ chưa tăng trưởng pháp thân, người già dụ cho những kẻ nặng phiền não, bệnh khổ dụ cho sanh tử, đường hiểm nạn dụ cho tam giới. Cúi xin đức Như Lai chỉ dẫn con đường chơn chánh giải thoát cho chúng con, ở lâu nơi đời, chớ nhập Niết Bàn".
Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: "Các thầy đừng ưu sầu khóc kể như hàng trời người phàm phu kia. Các thầy phải siêng năng tinh tấn giữ vững chánh niệm".
Nghe đức Phật phán như vậy, hàng trời người bát bộ liền nín khóc.
Đức Thế Tôn vì đại chúng mà nói kệ rằng:
Đại chúng phải sáng suốt
Chẳng nên quá sầu khổ,
Chư Phật đều vậy cả
Vì thế nên im lặng.
Thích nơi hạnh tinh tấn
Gìn lòng giữ chánh niệm
Xa lìa các điều quấy
Hớn hở được an vui.
Lại này các Tỳ Kheo! Nếu có chỗ nào nghi ngờ đều phải bạch hỏi. Ở trong những pháp không bất-không, thường vô-thường, khổ phi-khổ, y phi-y, khứ bất-khứ, quy phi-quy, hằng phi-hằng, đoạn phi-đoạn, chúng sanh phi-chúng sanh, hữu vô-hữu, thiệt bất-thiệt, chơn bất-chơn, diệt bất-diệt, mật bất-mật, nhị bất-nhị, v.v… nếu còn nghi ngờ nay nên bạch hỏi, Như Lai sẽ giải quyết cho. Như Lai trước nói pháp cam lộ cho các thầy rồi, sau mới nhập niết bàn.
Này các thầy Tỳ Kheo! Phật ra đời là khó, thân người khó được, gặp Phật sanh tín tâm, việc đây cũng khó, nhẫn sự khó khăn lại là khó hơn, đầy đủ giới hạnh chứng quả A La Hán(40) cũng là việc khó. Như tìm cát vàng cùng hoa ưu-đàm-bát-la.
Các thầy khỏi bát nạn được thân người là sự khó, nay gặp Như Lai chẳng nên để luống uổng. Ngày xưa, Như Lai tu nhiều hạnh khổ, nay được phương tiện vô thượng như thế. Trong vô lượng kiếp vì các thầy mà xả thí thân thịt tay chân đầu mắt tủy não. Vì thế các thầy chẳng nên phóng dật.
Này các thầy Tỳ Kheo! Thành báu chánh pháp trang nghiêm, đầy đủ các thứ công đức trân bảo, giới, định, và trí huệ làm tường thành và hào thành. Nay các thầy gặp được thành báu Phật pháp, chẳng nên lượm lấy những vật hư ngụy. Ví như nhà thương mãi gặp thành chơn bảo, lượm lấy ngói sạn rồi trở về nhà. Các thầy chớ để tâm hạ liệt, cam đủ nơi chút ít pháp mọn. Các thầy dầu xuất gia mà không ham mộ pháp đại thừa. Thân các thầy dầu được đắp cà-sa mà tâm chưa được nhuộm pháp đại thừa thanh tịnh. Các thầy dầu khất thực ở nhiều nơi mà chưa từng khất pháp thực đại thừa. Các thầy dầu cạo bỏ râu tóc mà chưa vì chánh pháp cạo sạch kiết sử.
Này các thầy Tỳ Kheo! Nay Như Lai bảo thiệt các thầy, hiện nay Như Lai đại chúng hòa hiệp, chánh pháp chơn thiệt chẳng điên đảo. Vì thế các thầy phải nhiếp tâm dũng mãnh tinh tấn xô dẹp các kiết sử. Khi mặt trời Phật huệ lặn mất rồi, các thầy sẽ bị vô minh trùm đậy.
Này các thầy! Ví như những cỏ thuốc trên mặt đất để chúng sanh dùng. Phật pháp cũng vậy, sanh ra pháp vị cam lồ diệu thiện làm thuốc hay chữa bệnh phiền não của chúng sanh. Nay Như Lai sẽ làm cho tất cả chúng sanh cùng bốn bộ chúng đều được an trụ trong tạng bí mật. Cũng như chữ y, nếu ba điểm đứng chung hàng, hoặc đứng ngay, hoặc khác nhau đều không thành chữ y. Ba điểm phải như ba con mắt trên mặt Đại Tự Tại Thiên mới thành chữ y. Như Lai cũng thế, pháp giải thoát không phải Niết Bàn, thân Như Lai không phải Niết Bàn, ma-ha-bát-nhã cũng không phải Niết Bàn, ba pháp đều khác nhau cũng không phải Niết Bàn. Như Lai này an trụ ba pháp ấy, vì chúng sanh mà nói là nhập Niết Bàn, như chữ y trong đời".
Các Tỳ Kheo nghe đức Phật Thế Tôn nói quyết định sẽ nhập Niết Bàn, ai nấy đều lo rầu, cả mình rởn ốc, lệ tràn đầy mắt, cúi lạy chân Phật mà bạch rằng: "Đức Thế Tôn khéo dạy vô thường, khổ, không, vô ngã.
Bạch Thế Tôn! Ví như các dấu chân của muông thú, dấu chân voi là hơn cả. Vô thường quán cũng lại như vậy, là pháp quán tưởng bậc nhất trong các pháp quán tưởng. Nếu ai tinh cần tu tập pháp này, thời có thể trừ tất cả sự ái nhiễm cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc, trừ vô minh, kiêu mạn và vô thường tưởng. Đức Như Lai nếu đã lìa hẳn vô thường tưởng thời nay chẳng nên nhập niết bàn. Còn nếu chẳng lìa hẳn, cớ sao lại dạy rằng tu vô thường quán trừ được sự ái nhiễm ba cõi, vô minh, kiêu mạn và vô thường tưởng.
Bạch Thế Tôn! Ví như đế vương biết mạng sắp chết, bèn ân xá ngục tù trong thiên hạ rồi sau mới băng. Ngày nay đức Như Lai cũng nên như vậy, độ cho tất cả chúng sanh thoát khỏi lao ngục vô trí, vô minh rồi sẽ nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng con đều chưa được giải thoát, sao đức Thế Tôn lại vất bỏ mà muốn nhập Niết Bàn?
Bạch Thế Tôn! Như người say rượu mê loạn nói xàm, không còn biết thân sơ, mẹ con, chị em, nằm vùi trong phẩn nhơ, nhờ lương y cho uống thuốc, ói sạch rượu ra mới được tỉnh lại, lòng rất hổ thẹn tự răn trách lấy mình, rượu là thứ hại, là cội gốc của các tội lỗi, nếu chừa được rượu thời khỏi tội lỗi. Chúng con cũng thế, từ nhiều đời đến nay luân chuyển sanh tử, tình sắc làm say mê tham đắm trong ngũ dục, không phải mẹ tưởng là mẹ, không phải con, chị, em, mà tưởng là con, chị, em, không phải chúng sanh mà tưởng là chúng sanh, vì cớ ấy nên luân chuyển chịu khổ sanh tử, như người say kia nằm trong phẩn nhơ. Nay đức Như Lai nên ban pháp dược cho chúng con uống để ói rượu độc phiền não, chúng con còn chưa được tỉnh ngộ, sao đức Như Lai lại vất bỏ mà muốn nhập niết bàn.
Bạch Thế Tôn! Không có cớ gì khen cây chuối là cứng chắc được. Chúng sanh cũng thế, không có cớ gì khen ngã, nhân, chúng sanh, thọ mạng, dưỡng dục, tri kiến, tác giả, thọ giả là chơn thiệt được. Chúng con tu vô ngã quán cũng như vậy.
Bạch Thế Tôn! Ví như bã xác không còn dùng được, bông thất diệp không có mùi thơm, cũng vậy, thân thể của người không ngã, không chủ. Chúng con thường tu tập pháp quán tưởng vô ngã như vậy.
Như đức Phật từng dạy, tất cả các pháp không ngã và không ngã sở, các Tỳ Kheo phải tu tập. Tu như đây thời trừ ngã mạn, rời ngã mạn thời chứng niết bàn. Bạch Thế Tôn! Không bao giờ có dấu chim bay nơi hư không. Người hay tu tập pháp quán vô ngã không bao giờ có các kiến chấp".
Đức Phật khen các Tỳ Kheo: "Lành thay! Lành thay! Các thầy khéo hay tu tập pháp quán vô ngã".
Các Tỳ Kheo bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Chẳng những chúng con tu pháp quán vô ngã tưởng, mà chúng con cũng tu tập các pháp quán khác như: khổ, vô thường.
Bạch Thế Tôn! Như người say, tâm trí mê loạn, thấy nhà cửa, cây cỏ, núi sông thảy đều xoay lộn. Người không tu các pháp quán khổ, vô thường vô ngã thời chẳng gọi là bậc Thánh, người này nhiều phóng dật trôi lăn trong vòng sanh tử. Vì thế nên các con khéo tu tập các pháp quán ấy".
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: "Lóng nghe! Lóng nghe! Vừa rồi các thầy trình bày ví dụ người say đó, các thầy chỉ biết danh tự mà chưa hiểu thấu "thật nghĩa". Thế nào là "thật nghĩa"? Như người say kia thấy nhà cửa núi sông vốn thiệt không xoay lộn, mà tưởng cho là xoay lộn. Cũng vậy, bị những phiền não vô minh trùm đậy nên chúng sanh khởi tâm điên đảo: ngã cho là vô ngã, thường cho là vô thường, tịnh cho là bất tịnh, lạc cho là khổ. Vì mắc phải phiền não trùm che, nên dầu nghĩ tưởng như vậy mà không thấu rõ "thật nghĩa", như người say kia đối với sự không xoay lộn mà tưởng cho là xoay lộn.
"Ngã" chính là thật nghĩa của "Phật", "Thường" chính là thật nghĩa của "Pháp Thân", "Lạc" là thật nghĩa của "Niết Bàn", "Tịnh" là thật nghĩa của "Pháp".
Các thầy sao lại nói người có ngã thời kiêu mạn cống cao lưu chuyển sanh tử. Nếu các thầy nói rằng tôi cũng tu tập pháp quán vô thường, khổ, vô ngã. Ba môn tu tập này không có "thiệt nghĩa".
Như Lai sẽ nói ba pháp tu đặc thắng.
Khổ cho là vui, vui cho là khổ, là pháp điên đảo. Vô thường cho là thường, thường cho là vô thường, là pháp điên đảo. Vô ngã cho là ngã, ngã cho là vô ngã, là pháp điên đảo. Bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là bất tịnh, là pháp điên đảo. Có bốn pháp điên đảo như vậy thời là người chẳng rõ pháp tu chơn chánh.
Các thầy ở trong pháp khổ tưởng cho là vui, ở trong vô thường tưởng cho là thường, ở trong vô ngã tưởng cho là ngã, ở trong bất tịnh tưởng cho là tịnh.
Thế gian cũng có thường, lạc, ngã, tịnh. Xuất thế cũng có thường, lạc, ngã, tịnh. Pháp thế gian có văn tự mà không thật nghĩa. Xuất thế có văn tự có thật nghĩa. Tại sao vậy? Vì pháp thế gian có bốn sự điên đảo nên chẳng biết thật nghĩa. Lại có tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. Vì có ba sự điên đảo này nên người thế gian ở trong lạc thấy là khổ, trong thường thấy vô thường, trong ngã thấy vô ngã, trong tịnh thấy bất tịnh, đây gọi là điên đảo. Vì điên đảo nên thế gian biết văn tự mà chẳng biết thật nghĩa.
Gì là thật nghĩa? Vô ngã gọi là sanh tử, còn ngã gọi là Như Lai. Vô thường là Thanh Văn Duyên Giác, còn thường là Như Lai pháp thân. Khổ là tất cả ngoại đạo, còn lạc là niết bàn. Bất tịnh là pháp hữu vi, còn tịnh là chánh pháp của chư Phật và Bồ Tát. Đây gọi là chẳng điên đảo. Vì chẳng điên đảo nên biết văn tự, biết thật nghĩa. Nếu muốn rời khỏi bốn sự điên đảo thời phải rõ biết thường, lạc, ngã, tịnh như vậy."
Các Tỳ Kheo bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Như lời đức Thế Tôn dạy rằng dứt lìa bốn sự điên đảo ấy thời được rõ biết thường, lạc, ngã, tịnh. Nay đức Như Lai trọn không có bốn sự điên đảo thời đã rõ biết thường, lạc, ngã, tịnh. Nếu đã rõ biết thường, lạc, ngã, tịnh, sao đức Như Lai không ở đời một kiếp hoặc nửa kiếp để dạy dỗ chúng con, cho chúng con khỏi lìa bốn sự điên đảo, mà lại vất bỏ chúng con muốn nhập niết bàn. Nếu được đức Như Lai đoái thương dạy bảo, chúng con sẽ hết lòng tuân lời tu tập. Nếu đức Như Lai nhập niết bàn, chúng con không thể mang thân độc hại này mà tu phạm hạnh. Chúng con cũng sẽ nhập niết bàn theo Phật."
Phật bảo các Tỳ-kheo: "Các thầy chớ nói như vậy. Bao nhiêu vô thượng chánh pháp của Phật, Như Lai đều đem giao phó cho Ma-Ha Ca Diếp. Ma-Ha Ca Diếp sẽ là chỗ y chỉ hoàn toàn cho các thầy, cũng như đức Như Lai là chỗ y chỉ của tất cả chúng sanh.
Ví như quốc vương lúc đi tuần du đem quốc sự giao phó cả cho đại thần. Cũng vậy, Như Lai đem chánh pháp giao phó cho Ma-Ha Ca Diếp.
Các thầy nên biết rằng chỗ tu pháp khổ vô thường trước kia chẳng phải là chơn thật. Ví như mùa xuân có một nhóm người chơi thuyền trong hồ lớn làm rớt chìm ngọc lưu ly. Nhóm người ấy liền cùng nhau hụp lặn tìm ngọc, bốc nhằm hòn sỏi viên đá, bụng mừng cho là ngọc, đến lúc đem ra khỏi nước mới rõ là không phải. Lúc ấy ngọc lưu ly vẫn ở dưới nước, do thế lực của ngọc mà nước hồ đều đứng trong. Bấy giờ nhóm người ấy mới nhìn thấy viên ngọc. Có một người trí tìm cách khéo, chậm rãi lặn xuống liền vớt được ngọc.
Các thầy chớ nên cho sự tu tập pháp quán vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh như vậy là thật nghĩa. Như nhóm người kia lặn xuống nước bốc nhằm sạn đá mà cho là ngọc. Các thầy phải khôn khéo nơi nơi chỗ chỗ luôn tu pháp quán ngã, thường, lạc, tịnh. Lại cần nên biết tướng mạo tu tập bốn pháp trước kia đều là điên đảo. Muốn được chơn thiệt tu các pháp quán, tức là quán ngã, thường, lạc, tịnh, thời phải như người trí khéo vớt được ngọc kia".
Các Tỳ Kheo bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Ngày trước đức Phật dạy rằng các pháp vô ngã, các ông phải tu học. Tu học pháp vô ngã sẽ lìa chấp ngã, lìa chấp ngã thời lìa kiêu mạn, lìa kiêu mạn thời chứng niết bàn. Nghĩa ấy thế nào?".
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: "Lành thay! Lành thay! Nay các thầy có thể bạch hỏi nghĩa ấy để tự dứt chỗ nghi ngờ.
Này các thầy, ví như quốc vương kém sáng suốt, tin dùng một y sư vụng về, tánh tình lại cao ngạo, phàm trị bệnh gì cũng thuần dùng sữa để làm thuốc cả, thêm nổi chẳng rõ căn do của bệnh, dầu biết dùng sữa mà chẳng hiểu rành, chẳng biện biệt sữa tốt xấu, lành, không lành. Một hôm, từ phương xa lại một minh y thông cả tám nghề, rành các phương thuốc, trị bệnh rất giỏi. Cựu y vì sẵn tính cống cao khinh mạn nên không đếm xỉa tới. Minh y thấy vậy bèn hạ mình thỉnh cựu y làm thầy, nhân đó được vào hầu quốc vương. Minh y trình bày lên quốc vương các phương thuốc và những nghệ thuật khác. Bấy giờ quốc vương tỉnh ngộ, xét biết cựu y là hạng vụng về cao ngạo, liền biếm truất đi, rồi trọng dụng minh y. Minh y mới yêu cầu quốc vương cấm dân chúng uống thuốc sữa của cựu y, vì thuốc ấy độc hại, làm thương tổn người bệnh. Quốc vương chuẩn lời, ra lệnh cấm hẳn, nếu ai dùng sữa để trị bệnh sẽ bị tử hình. Minh y cứ theo phương dược chế các thứ thuốc, phàm dân chúng có bệnh gì đều trị lành cả.
Ít lúc sau, quốc vương phải bệnh nặng, truyền vời minh y điều trị. Sau khi khám bệnh biết rằng quốc vương phải dùng thuốc sữa, minh y liền tâu rằng: "Ngày trước tôi yêu cầu cấm dùng sữa làm thuốc, đó là đại vọng ngữ. Nếu uống thuốc sữa rất có thể trị được bệnh. Hiện nhà vua đang bệnh nóng, chính nên dùng sữa".
Vua bảo: "Có lẽ ông điên cuồng hay bị bệnh loạn óc rồi, mới nói rằng uống sữa trị được bệnh của ta. Cựu y dùng sữa, ông cho là độc, bảo ta biếm truất và cấm hẳn, nay trở lại nói sữa là tốt hay trị được bệnh. Ông muốn khi dối ta ư? Cứ theo lời ông nói thời cựu y có thể hơn ông rồi".
Minh y tâu: "Thưa Đại Vương! Như mối ăn gỗ ngẫu nhiên thành chữ, con mối này tự nó không biết là chữ hay không phải chữ. Người trí xem thấy trọn không bao giờ tuyên xướng rằng con mối biết chữ và cũng chẳng lấy làm lạ.
Cũng vậy, cựu y không hiểu căn bệnh, bệnh gì cũng dùng thuần sữa để trị, lại không biết sữa là tốt hay xấu, là lành hay không lành".
Vua nói: "Xin ông giải thích cho ta rõ".
Minh y tâu: "Thuốc sữa kia cũng là độc hại, cũng là cam lộ. Thế nào là thuốc sữa cam lộ? Nếu là bò cái không ăn bã hèm trấu cặn, con nghé của nó rất điều thiện, chỗ thả chăn không phải cao nguyên cũng không quá thấp ướt, nước uống trong sạch, chẳng cho chạy nhảy, chẳng cho chung bầy với bò đực, cho nó ăn uống đi đứng vừa chừng phải cách. Sữa của bò này trị được nhiều bệnh, gọi là cam lộ. Ngoài ra các thứ sữa khác thời gọi là độc hại".
Nghe minh y giảng giải, vua khen rằng: "Hay lắm! Hay lắm! Nay ta mới rõ thế nào là sữa tốt, xấu, lành, cùng chẳng lành".
Sau khi được uống thuốc sữa của minh y, vua được lành mạnh. Vua liền truyền lệnh cho dân chúng được dùng sữa để trị bệnh. Dân chúng không vừa lòng với thái độ của nhà vua, nên hội đến hoàng cung để cật vấn.
Quốc vương bảo dân chúng: "Mọi người chẳng nên oán trách nơi ta, về vấn đề thuốc sữa nên uống hay không nên uống đều là ý của y sư cả, không phải lỗi của ta".
Dân chúng vui lòng tuân lời minh y dùng thuốc sữa tốt trị bệnh, được nhiều kết quả tốt.
Này các Tỳ Kheo! Các thầy nên biết đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn cũng lại như vậy. Là bậc đại y vương hiện ra nơi đời hàng phục tất cả tà y ngoại đạo. Giữa đại chúng xướng rằng ta là y vương, vì hàng phục ngoại đạo nên nói không ngã, không nhơn, không chúng sanh, không thọ giả. Các thầy nên biết ngoại đạo mà nói là ngã đó, như mối ăn cây ngẫu nhiên thành chữ thôi. Vì thế nên trong Phật pháp đức Như Lai nói là vô ngã để điều phục chúng sanh, và vì là lúc phải nói là vô ngã. Rồi cũng vì có nhơn duyên nên cũng nói có ngã. Như minh y kia biết rõ nơi sữa phải thuốc, hay không phải thuốc. Chẳng phải như chỗ chấp ngô ngã của phàm phu. Phàm phu chấp ngã lớn như ngón tay cái, hoặc như hột cải, hoặc như vi trần. Ngã của Như Lai nói đều không phải như vậy, vì thế nên nói các pháp không ngã, mà chính thiệt chẳng phải là không ngã. Thế nào là thiệt? Nếu pháp là thiệt, là chơn, là thường, là chủ, là sở y, tánh không biến đổi, đó gọi là ngã. Như minh y kia hiểu rành thuốc sữa. Cũng vậy Như Lai vì chúng sanh mà nói trong các pháp chơn thiệt có ngã.
Bốn bộ đệ tử của Như Lai đều phải tu pháp quán chơn ngã như vậy".

***
THÍCH NGHĨA
(36) Sáu cách chấn động
3 cách về tiếng: 1) tiếng nổ, 2) tiếng loài hữu tình kêu la, 3) tiếng loài vô tình khua chạm.
3 cách về hình: 1) rung động qua lại, 2) vọt lên khỏi chỗ cũ, 3) đang nằm bỗng đứng dậy, dựng lên.
(37) Tám bộ thiên thần: Thiên thần, Long thần, Dạ Xoa thần, Càn Thát Bà thần, A Tu La thần, Ca Lâu La thần, Khẩn Na La thần, Ma Hầu La thần.
(38) Y Vương: Đức Phật là ông Vua thuốc pháp, hay chữa lành tâm bệnh phiền não cứu chúng sanh thoát khỏi tất cả khổ thống, sanh tử, để được an vui niết bàn thường, lạc, ngã, tịnh.
(39) Tu Di Sơn (Suméru): Quả núi to nhất ở thế gian, ở giữa biển Hương Thủy, toàn bằng bốn chất báu: vàng, bạc, lưu ly và pha lê. Đỉnh núi là cõi trời Đao Lợi, thuộc quyền Đế Thích thống trị. Giữa núi là cõi trời Tứ Vương, do 4 vị Thiên Vương cai quản.
(40) A La Hán: quả thứ tư trong bốn quả thánh xuất thế thuộc tiểu thừa:
1) Tu Đà Hoàn (Dự Lưu): bậc này thấy lý tứ-đế, dứt ngã chấp, phân biệt hết kiến-hoặc, ra khỏi phàm phu, dự vào hàng Thánh xuất thế.
2) Tư Đà Hàm (Nhứt Lai): bậc Thánh này đã hết kiến-hoặc dứt thêm sáu phẩm trong chín phẩm tư-hoặc cõi dục, còn một lần sanh trở lại cõi dục mới thoát hẳn.
3) A Na Hàm (Bất Lai): bậc Thánh đã hết kiến-hoặc và dứt cả chín phẩm tư-hoặc cõi dục, không còn sanh trở lại cõi dục nữa.

4) A La Hán (Vô Sanh, Sát Tặc, Ứng Cúng): bậc Thánh cao nhất trong hàng Thanh Văn Tiểu thừa, đã dứt sạch kiến-hoặc và tư-hoặc tam giới, cùng câu-sanh ngã chấp nên gọi là Sát Tặc. Đã khỏi hẳn sanh tử luân hồi trong lục đạo, nên hiệu là Vô Sanh, là bậc đáng thọ sự cúng dường của nhân, thiên, nên hiệu là Ứng Cúng.

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q1) - Phẩm THUẦN ĐÀ

Phẩm THUẦN ĐÀ thứ hai
Bấy giờ trong đại hội có vị Ưu Bà Tắc, con nhà thợ thuyền trong thành Câu Thi Na, tên là Thuần Đà cùng với mười lăm bạn đồng nghiệp, vì muốn đem quả lành đến cho người đời nên đến trước Phật, quỳ gối chắp tay cúi lạy chân Phật, buồn khóc rơi lệ bạch rằng: "Ngửa mong đức Thế Tôn và Tỳ Kheo Tăng thương xót nhận phần cúng dường cuối cùng của chúng con, cho vô lượng chúng sanh được độ.
Bạch Thế Tôn! Chúng con từ nay nghèo cùng đói khổ không ai cứu giúp, không nơi nương nhờ, muốn xin phước lộc tương lai ở đức Thế Tôn(17). Cúi xin xót thương nhận chút lễ mọn rồi sẽ nhập Niết Bàn. Bạch Thế Tôn! Ví như có người nghèo cùng đến xứ xa lạ ra sức làm ruộng, đặng trâu cày giỏi, ruộng đất tốt màu, bằng phẳng sạch cỏ, chỉ còn chờ trời mưa. Trâu giỏi dụ cho bảy nghiệp của thân và miệng, ruộng tốt bằng phẳng dụ cho trí huệ, sạch cỏ dụ cho trừ sạch phiền não. Bạch Thế Tôn! Nay đây con đã có trâu giỏi, ruộng tốt sạch cỏ, chỉ còn trông chờ trận mưa pháp cam lồ của Như Lai. Người nghèo kia chính là con đây, nghèo nơi của báu pháp bảo vô thượng. Ngửa mong xót thương dứt trừ sự nghèo cùng khốn khổ của chúng con và cả vô lượng chúng sanh. Cúng phẩm của con dầu kém mọn, cũng mong đức Như Lai cùng chư Tăng dùng được đủ. Ngày nay con không nơi nương nhờ, không ai nâng đỡ, xin đức Thế Tôn rủ lòng thương xót coi con như La Hầu La(18)."
Đức Thế Tôn, bậc nhứt-thiết-chủng-trí vô thượng điều ngự, bảo Thuần Đà rằng: "Lành thay! Lành thay! Hôm nay Như Lai trừ sự nghèo cùng cho ông, mưa pháp vô thượng xuống cho ruộng thân tâm ông mọc mầm pháp. Ông muốn cầu thọ mạng, sắc, lực, an lạc, vô ngại, biện tài nơi Như Lai. Như Lai sẽ ban cho ông các thứ ấy.
Thuần Đà! Thí thực có hai, đồng một quả báo. Một là thọ xong liền chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác, hai là thọ xong liền nhập niết bàn. Hôm nay Như Lai nhận phần cúng dường cuối cùng của ông cho ông đầy đủ bố thí ba-la-mật"(19)
Thuần Đà liền bạch Phật rằng: "Như đức Thế Tôn vừa dạy rằng hai lúc cúng thí quả báo đồng nhau, theo ý con nghĩ, e rằng không đúng nghĩa. Vì vị thọ thí trước là bậc chưa sạch phiền não, chưa chứng nhứt-thiết-chủng-trí(20) cũng chưa có thể làm cho chúng sanh đầy đủ bố thí ba-la-mật. Còn vị thọ thí sau là bậc nhứt-thiết-chủng-trí, đã sạch phiền não, có thể làm cho khắp chúng sanh đầy đủ bố thí ba-la-mật.
Vì vị thọ thí trước còn là chúng sanh, vị thọ thí sau là bậc trời trong các trời. Vị thọ thí trước là thân tạp thực, thân phiền não, thân vô thường cuối cùng; vị thọ thí sau là thân kim cang không phiền não, là pháp thân chơn thường vô cùng. Sao lại cho rằng 2 sự cúng thí quả báo đồng như nhau?
Vị thọ thí trước chưa được đầy đủ đàn-ba-la-mật nhẫn đến bát-nhã ba-la-mật, chỉ có nhục nhãn, chưa có huệ nhãn nhẫn đến Phật nhãn(21). Vị thọ thí sau đã được đầy đủ cả sáu ba-la-mật nhẫn đến Phật nhãn. Sao lại cho rằng hai sự cúng thí được quả báo đồng nhau?
Bạch đức Thế Tôn! Vị thọ thí trước, thọ xong ăn nuốt vào bụng tiêu hóa đặng sống còn, đặng sức khỏe, xinh đẹp, an vui, vô ngại biện. Vị thọ thí sau chẳng ăn chẳng tiêu, không năm sự quả. Sao lại cho rằng hai sự cúng thí được quả báo đồng nhau?"
Đức Phật phán: "Thuần Đà! Như Lai đã từ vô lượng vô biên vô số kiếp(22) không có những thân ăn uống, thân phiền não, thân sau cùng mà là thân chân-thường, thân kim cang, là pháp thân.
Thuần Đà! Người chưa thấy Phật tánh gọi là thân tạp thực, phiền não, cuối cùng. Lúc đó Bồ Tát thọ đồ ăn uống rồi nhập kim cang tam muội, đồ ăn tiêu hóa xong liền thấy Phật tánh, chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì lẽ ấy nên Như Lai nói hai sự cúng thí được quả báo đồng nhau.
Lúc thành đạo, Bồ Tát phá hoại bốn ma(23), nay nhập Niết Bàn cũng phá hoại bốn ma, nên Như Lai nói hai quả báo không sai khác.
Lúc trước dẫu Bồ Tát chẳng rộng giảng diễn mười hai bộ kinh nhưng đã thông đạt rồi, nay nhập Niết Bàn rộng vì chúng sanh phân biệt giảng dạy. Vì thế nên Như Lai nói hai quả báo đồng nhau.
Thuần Đà! Thân của Như Lai đã từ vô lượng vô số kiếp chẳng thọ sự ăn uống. Vì hàng Thanh Văn mà nói rằng trước thọ cháo sữa của hai nàng chăn bò là Nan Đà và Nan Đà Ba La, rồi sau mới chứng quả vô thượng chánh giác, nhưng chính thiệt Như Lai không ăn. Hôm nay vì đại chúng trong hội này mà Như Lai nhận sự cúng dường cuối cùng của ông dâng. Thiệt ra Như Lai không ăn".
Đại chúng nghe đức Thế Tôn khắp vì đại hội mà nhận sự cúng dường cuối cùng của Thuần Đà, đều vui mừng hớn hở, đồng rập tiếng khen rằng: "Lành thay! Lành thay! Hy hữu thay cho Thuần Đà! Thiệt ông không uổng tên là Thuần Đà, vì hai chữ "Thuần Đà" là "hiểu diệu nghĩa". Ông nay kiến lập diệu nghĩa như thế, cứ nghĩa đặt tên gọi là Thuần Đà. Hiện đời đây ông được đầy đủ cả danh tiếng, tài lợi, đức hạnh, chí nguyện. Rất lạ cho ông Thuần Đà! Sanh trong loài người lại được quả lành vô thượng rất khó được. Lành thay cho Thuần Đà! Trong đời khó có người thứ hai, khác nào hoa Ưu Đàm. Đức Phật ra đời là rất khó. Gặp Phật sanh lòng tin, được nghe chánh pháp, lại là rất khó. Đức Phật sắp nhập Niết Bàn, thỉnh được đức Phật nhận phần cúng dường cuối cùng lại càng khó hơn.
Nam mô Thuần Đà! Nam mô Thuần Đà! Nay ông đã đầy đủ bố thí ba-la-mật". Đại chúng liền nói kệ rằng:
Ông dầu sanh nhân đạo
Đã siêu trời thứ sáu
Tôi cùng tất cả chúng
Nay xin yêu cầu ông:
Đấng tối thắng trong người
Nay sẽ nhập Niết Bàn,
Ông nên thương chúng tôi
Xin kíp thỉnh đức Phật
Ở lâu lại thế gian
Diễn thuyết pháp vô thượng
Mà bậc trí tán thán
Hầu lợi ích chúng sanh.
Nếu ông không thỉnh Phật
Mạng tôi ắt khó toàn
Ông nên vì chúng tôi
Đảnh lễ đức Điều Ngự.
Thuần Đà vui mừng hớn hở như người có cha mẹ vừa chết bỗng sống lại. Ông đảnh lễ Phật mà nói kệ rằng:
Vui thay được lợi mình!
Khéo thọ nơi thân người 
Dẹp trừ tham sân si
Thoát hẳn ba ác đạo.(24)
Thích thay được lợi mình!
Được gặp kho vàng báu
Gặp gỡ đức Điều Ngự 
Chẳng sợ đọa súc sanh
Phật như hoa Ưu Đàm(25)
Khó gặp gỡ tín kính
Gặp rồi trồng căn lành
Dứt hẳn khổ ngạ quỷ,
Lại cũng hay tổn giảm
Chủng loại A Tu La.
Hột cải ghim đầu kim(26)
Phật ra đời khó hơn.
Tôi đã đủ đàn-độ(27)
Độ thiên nhân sanh tử.
Phật chẳng nhiễm việc đời
Như hoa sen ở nước
Khéo dứt giống tam giới(28)
Thoát hẳn dòng sanh tử.
Sanh làm người là khó
Gặp đời Phật cũng khó
Dường như trong biển lớn
Rùa mù gặp bọng cây.
Nay tôi dâng thực phẩm
Nguyện đặng báo vô thượng
Xô phá phiền não kiết
Tất cả không bền chắc.
Nay tôi ở nơi đây
Chẳng cầu thân nhân thiên
Dầu có được thân ấy
Cũng không lòng ham thích.
Được Phật nhận cúng phẩm
Con vui sướng không lường
Khác nào bông Y Lan(29)
Ngát mùi hương chiên đàn
Thân tôi như Y Lan
Thế Tôn nhận cúng phẩm
Như ngát hương chiên đàn
Vì thế tôi vui mừng.
Tôi nay được hiện báo
Chỗ tối thắng thượng diệu
Đế Thích cùng Phạm Thiên(30)
Đều đến cúng dường tôi,
Tất cả các thế gian 
Đều sanh lòng buồn khổ
Vì biết Phật Thế Tôn
Muốn nhập đại niết bàn.
Đồng cất tiếng xướng to:
Đời sẽ không Điều Ngự
Chẳng nên bỏ chúng sanh
Phải xem như con một
Phật ở giữa chư Tăng
Diễn thuyết pháp vô thượng
Như núi báu Tu Di
Cao vọi giữa biển cả.
Trí Phật hay khéo dứt
Tối vô minh của tôi
Dường như giữa hư không
Mây nổi đặng mát mẻ.
Như Lai khéo dứt trừ
Tất cả các phiền não(31)
Như mặt trời mọc lên
Tan mây sáng khắp soi.
Các loài chúng sanh đây
Khóc than sưng cả mắt
Đều bị dòng sanh tử
Đẩy trôi rất khốn khổ.
Đức Thế Tôn cần phải
Thêm căn lành chúng sanh
Vì dứt khổ sanh tử
Ở nán lại thế gian.
Phật bảo Thuần Đà: "Đúng như lời ngươi nói. Phật ra đời là khó như hoa Ưu Đàm. Gặp Phật sanh lòng tin lại khó hơn. Phật sắp nhập Niết Bàn, được cúng dường lần cuối cùng đầy đủ bố thí ba-la-mật, lại là việc khó gấp bội.
Nay ông chớ buồn khổ, nên phải vui mừng vì đã được dịp cúng dường Như Lai lần cuối cùng, do đây thành tựu bố thí ba-la-mật. Ông chẳng nên thỉnh Phật ở lại nơi đời, mà phải quan sát cảnh giới của chư Phật thảy đều vô thường, tánh và tướng của các hành pháp cũng như vậy."
Đức Phật liền vì Thuần Đà mà nói kệ rằng:
Tất cả các thế gian
Có sanh đều có tử,
Dầu thọ mạng vô lượng
Tất có kỳ phải hết.
Có thạnh tất có suy,
Sum hiệp có biệt ly,
Tuổi trẻ chẳng dừng lâu
Khỏe mạnh bị bệnh xâm,
Sự chết nuốt mạng người
Không có gì thường còn.
Bậc vua chúa tự tại
Thế lực không ai bằng
Tất cả đều dời đổi
Mạng sống cũng như vậy.
Sự khổ xoay không ngằn
Lưu chuyển không thôi dừng
Ba cõi đều vô thường
Mọi loài không có vui.
Tánh tướng của pháp có
Tất cả đều trống không,
Pháp sanh diệt lưu chuyển
Luôn có những lo khổ
Sợ sệt, các lỗi ác,
Già, bệnh, chết, buồn rầu.
Những khổ ấy không ngằn
Hư rã nhiều tai hại,
Phiền não bao gói kín
Khác nào nằm ở kén,
Là người có trí huệ
Đâu nên thích chốn này.
Các khổ nhóm nơi thân
Tất cả đều nhơ nhớp,
Tai nạn, ghẻ nhọt thảy
Cội gốc của khổ đau,
Dầu là thân chư Thiên
Đều cũng giống như vậy.
Dục ái đều vô thường
Nên Phật chẳng tham ưa,
Ly dục khéo tư duy
Đặng chứng quả chơn thiệt
Rốt ráo dứt sanh tử
Nay sẽ vào Niết Bàn.
Phật đã vượt bờ kia
Đã thoát hẳn các khổ
Vì thế nên hiện nay
Thuần hưởng những diệu lạc,
Do các nhân duyên ấy
Chứng quả vị chơn thiệt
Dứt hẳn những triền phược
Hôm nay vào Niết Bàn.
Phật không già, bệnh, chết,
Thọ mạng vô cùng tận,
Phật nay vào Niết Bàn
Như ngọn lửa lớn tắt.
Thuần Đà! Ông chẳng nên
Suy lường nghĩa Như Lai,
Nên xét tánh Như Lai
Dường như núi Tu Di.
Phật nay vào Niết Bàn
Thọ trì đệ nhứt lạc,
Pháp chư Phật như vậy
Các ông chớ nên khóc.
Thuần Đà bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Đúng như lời Phật dạy. Trí huệ của con kém nhỏ như muỗi mòng, đâu có thể nghĩ bàn được nghĩa Niết Bàn sâu kín của Như Lai.
Bạch Thế Tôn! Ví như người tuổi thơ ấu mới xuất gia, dầu chưa thọ giới cụ túc, mà đã được dự vào số chúng tăng. Con nay cũng vậy, nhờ thần lực của Phật và Bồ Tát, mà con được dự vào số đại Bồ Tát, đã được cùng hàng với các bậc Đại Long Tượng(32) dứt phiền não, như ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử v.v…
Thế nên hôm nay con muốn đức Như Lai thường ở nơi đời mà chẳng vào Niết Bàn".
Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử(33) bảo Thuần Đà rằng: "Ông chẳng nên nói rằng muốn đức Như Lai thường ở nơi đời mà chẳng vào Niết Bàn. Ông phải quan sát tánh tướng của hành pháp, quan sát như thế đặng "không" tam muội. Muốn cầu chánh pháp nên học pháp quan sát như vậy".
Thuần Đà nói: "Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Đức Như Lai là bậc cao cả nhất trong người trên trời. Đức Như Lai như thế há lại là hành pháp sao?(34) Nếu là hành pháp thời là pháp sanh diệt. Ví như bóng nước chóng nổi chóng tan, qua lại xoay vần như bánh xe lăn, các hành pháp cũng thế. Tôi nghe chư Thiên sống rất lâu, tại sao đức Thế Tôn là bậc trời trong các trời mà sống lại chẳng đầy trăm tuổi.
Các hành pháp là pháp sanh tử, nếu đức Như Lai nhập diệt thời đồng với hành pháp, đâu được gọi là bậc trời trong các trời, là Pháp Vương tự tại. Vì thế chẳng nên xem đức Như Lai đồng với hành pháp.
Đức Như Lai hàng phục phiền não ma, ngũ ấm ma, thiên ma, tử ma, do nhân duyên ấy mà thành tựu đầy đủ vô lượng công đức chơn thiệt, nên hiệu là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, hiệu là Tam Giới Tôn.
Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Chẳng nên ức tưởng phân biệt mà đem pháp Như Lai cho đồng với các hành pháp. Ví như phú ông sanh con trai, nhà tướng số xem trẻ ấy có tướng đoản mạng. Phú ông biết rằng trẻ ấy không thể nối lấy gia nghiệp, nên chẳng ái trọng, và kẻ đoản thọ thời chẳng được mọi người kính trọng. Nếu đức Như Lai đồng với các hành pháp, ắt chẳng được Sa Môn, Bà La Môn, tất cả trời người kính thờ, mà pháp chơn thiệt bất biến bất dị của Như Lai dạy ra cũng không ai tín thọ. Vì lẽ ấy, ngài chẳng nên nói rằng Như Lai đồng với các hành pháp.
Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Như bần nữ đang có mang mà lại đói khát không nhà cửa, đẻ nhờ dưới mái nhà kia, chủ nhà xua đuổi, bần nữ bồng con muốn đến xứ khác để mưu sinh. Dọc đường phải lội qua con sông, ra giữa dòng bị nước chảy xoáy mạnh, không nỡ buông con nên mẹ con đồng bị chết đuối. Vì tấm lòng từ ái ấy, bần nữ được sanh lên cõi Phạm Thiên.
Nếu có thiện nam tử muốn hộ trì chánh pháp, chớ nói Như Lai đồng với các hành pháp hay chẳng đồng với các hành pháp. Chỉ nên tự trách mình ngu si không có huệ nhãn. Chánh pháp của Như Lai không thể nghĩ bàn, không nên tuyên nói Như Lai quyết định là hữu vi, hay vô vi. Nếu là người chánh kiến nên nói Như Lai quyết định là vô vi. Vì sao thế? Vì nói Như Lai là vô vi thời có thể sanh pháp lành cho chúng sanh.
Thiện nam tử hộ trì chánh pháp thà chết chớ chẳng nói Như Lai đồng với pháp hữu vi mà chỉ nên nói Như Lai đồng với pháp vô vi. Nhơn vì hộ trì chánh pháp nói Như Lai đồng với pháp vô vi mà đặng quả vô thượng chánh giác, như bần nữ thà chết đuối giữa dòng chớ không chịu buông con, nhơn đó mà được sanh lên cõi Phạm Thiên. Thiện nam tử này chẳng cầu giải thoát mà giải thoát tự đến, khác nào bần nữ kia chẳng cầu sanh Phạm Thiên mà quả Phạm Thiên tự đến.
Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Như người đi xa giữa đường mỏi mệt, nghỉ nhờ nhà người. Giữa lúc ngủ, nhà ấy bỗng bốc lửa to. Người ấy choàng dậy biết chắc phải chết, lòng hổ thẹn sợ thân thể lõa lồ bèn lấy y áo vấn thân mà chết, liền được sanh lên cõi trời Đao Lợi. Sau đó tám mươi đời làm Đại Phạm Vương, trăm ngàn đời làm Chuyển Luân Vương, người ấy mãi hưởng phước lành như vậy, hẳn không bị đọa vào ác đạo. Vì duyên cớ ấy, nếu là người có tâm tàm-quý chẳng nên xem Như Lai đồng với các hành pháp.
Bọn ngoại đạo tà kiến mới được nói Như Lai đồng với pháp hữu vi.
Là Tỳ Kheo trì giới đâu nên có quan niệm cho Như Lai là pháp hữu vi.
Nếu nói Như Lai là pháp hữu vi, đó chính là vọng ngữ. Phải biết người này sẽ đọa địa ngục.
Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Như Lai chơn thiệt chính là pháp vô vi, chẳng nên lại nói là hữu vi. Từ nay ở trong đường sanh tử, ngài nên bỏ vô trí mà cầu nơi chính trí. Phải biết Như Lai chính là vô vi. Được chánh quán như thế sẽ đầy đủ ba mươi hai tướng, chóng thành tựu quả vô thượng bồ đề".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát khen Thuần Đà rằng: "Lành thay! Lành thay! Nay ông đã tạo nhân duyên trường thọ, ông biết được Như Lai là pháp thường trụ là pháp chẳng biến dị, là pháp vô vi. Nay ông khéo che đậy tướng hữu vi của Như Lai, sau này ông sẽ đặng đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình, mười tám pháp bất cộng, thọ mạng vô lượng, luôn được an vui, không còn sanh tử, sẽ thành bậc Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Như người lữ khách bị lửa thiêu mà có lòng hổ thẹn lấy y áo vấn thân, nhờ tâm lành ấy nên được sanh lên cõi Đao Lợi, lại nhiều đời làm Phạm Vương, Chuyển Luân Vương, luôn được an vui, chẳng sa ác đạo.
Tôi cùng ông cũng đều nên che đậy tướng hữu vi của Như Lai. Lát nữa đức Thế Tôn sẽ giảng rộng về ý nghĩa ấy.
Nên để hữu vi, vô vi lại đó. Ông nên kíp lo cúng dường cơm nước cho kịp giờ, và cũng nên sắm sửa đồ cần thiết cho hàng tứ chúng từ xa hội về đang mỏi mệt. Cúng dường như thế chính là đầy đủ chủng tử căn bản của đàn-ba-la-mật.
Thuần Đà! Nếu cúng dường đức Phật và chư Tăng lần cuối cùng, hoặc nhiều hay ít, đủ hay thiếu, đều phải sớm lo cho kịp giờ. Đức Như Lai sẽ nhập Niết Bàn".
Thuần Đà nói: "Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Sao ngài lại tham chút uống ăn mà nói hoặc ít hoặc nhiều, đủ hay chẳng đủ, rồi bảo tôi lo cho kịp giờ? Xưa kia đức Như Lai khổ hạnh trọn sáu năm còn chịu nổi, huống là giây lát hôm nay. Ngài thiệt cho rằng đức Như Lai chánh giác thọ đồ uống ăn này ư? Tôi thời biết quyết định thân Như Lai chính là pháp thân, không phải thực thân".
Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: "Thật đúng như lời của Thuần Đà! Lành thay Thuần Đà! Ông đã thành tựu đại trí huệ, khéo thâm nhập kinh điển Đại thừa"
Văn Thù Sư Lợi nói với Thuần Đà: "Ông cho rằng Như Lai là vô vi, thân Như Lai là trường thọ, hiểu biết như vậy đức Phật rất hài lòng".
Thuần Đà nói: "Đức Như Lai chẳng riêng gì hài lòng nơi tôi, mà cũng hài lòng với tất cả chúng sanh".
Văn Thù Sư Lợi nói: "Đức Như Lai đối với ông, với tôi, với tất cả chúng sanh đều hài lòng".
Thuần Đà nói: "Ngài chẳng nên nói đức Như Lai hài lòng. Luận về hài lòng, chính là đảo tưởng. Phàm có đảo tưởng thời là sanh tử, có sanh tử thời là pháp hữu vi. Vì lẽ ấy ngài chẳng nên cho Như Lai là hữu vi. Nếu nói Như Lai là hữu vi thời ngài cùng tôi đều điên đảo cả.
Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Đức Như Lai không có ái niệm. Luận về ái niệm, như trâu mẹ kia ái niệm con của nó, dầu là đói khát đi tìm cỏ nước, hoặc no hay chưa no, bỗng nhiên nhớ con liền trở về. Chư Phật Thế Tôn không có ái niệm như vậy, bình đẳng xem tất cả chúng sanh như La Hầu La. Từ niệm bình đẳng như vậy chính là cảnh giới trí huệ của chư Phật.
Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Ví như quốc vương ngự trên xe tứ mã, có người muốn cho xe bò theo kịp xe vua, tất không thể được. Ngài cùng tôi muốn cùng tận chỗ vi mật thâm áo của Như Lai cũng không thể được.
Ví như Kim Sí Điểu(35) bay vọt lên cao vô lượng do tuần, nhìn xuống biển cả thấy rõ những loài thủy tộc cùng loài rồng và bóng của nó. Kẻ phàm tục trí kém, không thể suy lường chỗ thấy của Kim Sí Điểu được. Cũng thế, ngài cùng tôi không thể suy lường được trí huệ của Như Lai".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo Thuần Đà rằng: "Đúng như lời ông vừa nói. Đối với những việc ấy không phải là tôi không hiểu. Chẳng qua vì muốn đem việc của Bồ Tát thử ông đó thôi".
Bấy giờ đức Thế Tôn từ trên mặt phóng ra nhiều tia sáng chiếu thân ngài Văn Thù. Ngài Văn Thù liền bảo Thuần Đà rằng: "Nay đây đức Như Lai hiện thoại tướng từ trên mặt phóng ra nhiều tia sáng như thế chẳng phải là không duyên cớ, đó là điềm đức Phật sắp nhập Niết Bàn. Ông phải sớm lo dâng lễ cúng dường lên đức Phật và chư Tăng cho kịp giờ".
Đức Phật bảo Thuần Đà: "Đã phải giờ cho ông dâng thực phẩm cúng dường Phật và đại chúng. Như Lai sẽ nhập Niết Bàn."
Đức Phật bảo luôn ba lần như vậy.
Thuần Đà nghe đức Phật dạy như vậy, bất giác nghẹn ngào khóc than nức nở: "Khổ thay! Khổ thay! Thế gian sẽ trống rỗng." Rồi ông lại thưa cùng đại hội: "Hôm nay chúng ta phải đồng tha thiết đảnh lễ cầu đức Phật đừng nhập Niết Bàn."
Đức Thế Tôn lại bảo Thuần Đà: "Ông chớ nên khóc than tiều tụy như vậy. Ông phải quan sát thân này như cây chuối, như ánh nắng, như bọt nước, như huyễn hóa, như thành càn-thát-bà, như đồ gốm chưa hầm, như làn chớp, như hình vẽ trên nước , như tù sắp hành hình, như trái mùi, như cục thịt, như bức dệt đã hết khổ, như chày giã lên xuống. Phải quan sát các hành pháp như món ăn lẫn chất độc, pháp hữu vi nhiều tai hại".
Thuần Đà bạch Phật: "Đức Thế Tôn chẳng muốn ở lại đời, làm sao con chẳng buồn khóc cho được. Khổ thay! Khổ thay! Thế gian sẽ trống rỗng. Ngửa mong đức Thế Tôn thương xót chúng con và chúng sanh mà ở luôn nơi đời, chẳng nhập Niết Bàn".
Phật bảo Thuần Đà: "Ông chẳng nên nói rằng thương xót các ông mà ở luôn nơi đời. Chính vì thương xót ông và các chúng sanh mà hôm nay Phật mới muốn nhập Niết Bàn. Vì sao thế? Chư Phật pháp nhĩ như vậy. Pháp hữu vi cũng thế, nên chư Phật nói kệ rằng:
Các pháp hữu vi
Tánh nó vô thường
Sanh rồi chẳng trụ
Tịch diệt là vui.
Thuần Đà! Ông nên quan sát các hành pháp là tạp độc, các pháp hữu vi là vô ngã vô thường chẳng trụ. Tấm thân này có rất nhiều tai hại như bóng nước. Vì lẽ ấy ông chớ nên khóc lóc".
Thuần Đà bạch Phật: "Thật đúng như lời Thế Tôn dạy. Mặc dầu con vốn biết Như Lai phương tiện thị hiện nhập Niết Bàn, nhưng con không làm sao ngăn sự buồn thảm được. Giờ đây tự suy xét, con lại sanh lòng vui mừng".
Phật khen Thuần Đà: "Lành thay! Lành thay! Ông có thể rõ biết Như Lai thị hiện đồng với chúng sanh mà phương tiện nhập Niết Bàn.
Thuần Đà! Ông nên nghe đây: Như mùa xuân, chim ta-la-tà đều nhóm nơi ao A Nậu Đạt. Chư Phật cũng thế, đều đến chỗ ấy. Ông chẳng nên suy nghĩ chư Phật là trường thọ hay đoản thọ. Tất cả các pháp đều như tướng ảo thuật. Như Lai ở trong ấy, do sức phương tiện không có nhiễm trước. Vì sao thế? Vì chư Phật pháp nhĩ như vậy.
Thuần Đà! Nay Như Lai nhận phần cúng dường của ông, là vì muốn cho ông thoát khỏi các dòng sanh tử trong ba cõi. Hàng nhân thiên ở nơi sự cúng dường cuối cùng đối với Như Lai đây, đều sẽ được quả báo bất động, luôn được an vui. Vì sao thế? Vì Như Lai là phước điền tốt của chúng sanh. Nếu ông muốn vì chúng sanh mà làm phước điền, thời phải kíp sắm sửa cúng phẩm, chẳng nên để trễ".
Bấy giờ Thuần Đà vì các chúng sanh được độ thoát nên cúi đầu lau lệ mà bạch Phật: "Lành thay đức Thế Tôn! Nếu lúc con kham có thể làm phước điền, thời có thể biết rõ Như Lai là nhập Niết Bàn hay chẳng phải nhập Niết Bàn. Nay trí huệ của chúng con cùng Thanh Văn Duyên Giác nhỏ kém như kiến muỗi, thiệt không thể suy lường Như Lai nhập Niết Bàn hay chẳng phải nhập Niết Bàn".
Bạch xong, Thuần Đà cùng quyến thuộc buồn rầu khóc lóc, thiêu hương rải hoa, hết lòng cung kính, rồi liền cùng ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đi lo sắm sửa thực phẩm.

***
THÍCH NGHĨA
(17) Thế Tôn: Đấng tôn quý nhứt trong tất cả thế gian và xuất thế gian. Từ ngữ này gồm đủ mười điều vô thượng: 1) Như Lai, 2) Ứng Cúng, 3) Chánh Biến Tri, 4) Minh Hạnh Túc, 5) Thiện Thệ, 6) Thế Gian Giải, 7) Vô Thượng Sĩ, 8) Điều Ngự Trượng Phu, 9) Thiên Nhơn Sư, 10) Phật.
(18) La Hầu La: Con trai của thái tử Sỹ Đạt Ta và Da Du Đà La.
(19) Bố thí ba-la-mật: Công hạnh bố thí đã đến từng ngã và pháp đều không, đã rốt ráo viên mãn. Biệt Giáo bậc sơ địa, Viên Giáo bậc sơ trụ mới thành tựu hạnh này.
(20) Trí huệ chứng ngã-không gọi là "Nhứt-thiết-trí". Hàng nhị thừa có trí này. Trí huệ chứng ngã-không và phần chứng pháp không gọi là "Đạo-chủng-trí". Pháp thân Bồ Tát có trí này. Trí huệ chứng ngã-không và toàn chứng pháp không gọi là "Nhứt-thiết-chủng-trí". Chỉ bậc Phật mới có trí này. Trí huệ này gồm có bốn trí: 1) Thành sở tác trí, 2) Diệu quán sát trí, 3) Bình đẳng tánh trí, 4) Đại viên cảnh trí.
(21) Ngũ nhãn: 1) Nhục nhãn, 2) Thiên nhãn, 3) Huệ nhãn, 4) Pháp nhãn, 5) Phật nhãn. Phàm phu chỉ có nhục nhãn, riêng chư Thiên và chư ngũ thông tiên-nhân gồm có thiên nhãn. A La Hán và Bích Chi Phật có nhục nhãn, thiên nhãn, và huệ nhãn. Pháp thân Bồ Tát có ba nhãn trên và pháp nhãn. Đức Phật có đủ 5 nhãn.
(22) Kiếp-ba: là thời gian dài. Có tiểu, trung và đại ba kiếp. Một tiểu kiếp có 16.798.000 năm (theo năm của nhân loại địa cầu). Một trung kiếp có 20 tiểu kiếp và một đại kiếp có 4 trung kiếp hay 80 tiểu kiếp, tức là: (16.798.000 năm x 80= 1.343.840.000 năm, một tỷ ba trăm bốn mươi ba triệu tám trăm bốn mươi ngàn năm). Phàm trong kinh chỉ nói bao nhiêu kiếp mà không nói trung hay tiểu, thời thường là nói đại kiếp.
(23) Bốn ma: Ma phiền não, ma ngũ ấm, ma chết, và thiên ma. Nói đủ là Ma-la có nghĩa là hay phá hoại thiện căn của chúng sanh, của người tu hành.
(24) Ba ác đạo: súc sanh, ngạ quỷ, và địa ngục. Ba loài này vì phạm tội thập ác nhẹ, vừa và nặng mà phải thọ lấy quả khổ ấy, nên gọi là ác đạo, đây là cứ nơi nghiệp nhơn ác mà đặt tên. Nếu theo quả khổ thời gọi là tam đồ: 1) Huyết đồ, loài súc sanh thường ăn nuốt máu thịt lẫn nhau, 2) Đao đồ, loài ngạ quỷ thường dùng dao gậy đánh đập nhau, 3) Hỏa đồ, loài địa ngục thường bị lửa thiêu đốt, nấu rang.
(25) Ưu Đàm Bát La hoa: dịch là Linh Thoại Hoa. Tục truyền ba ngàn năm mới xuất hiện một lần, là điềm Thánh Vương, hay Thánh Nhân xuất thế.
(26) Ném hột cải trúng dính vào đầu nhọn cây kim.
(27) "Đàn" là bố thí, "Độ" là ba-la-mật. "Đàn độ" là bố thí ba-la-mật.
(28) Tam giới: ba cõi: cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc.
(29) Bông Y Lan: là một thứ hoa có mùi rất hôi thúi.
(30) Đế Thích: nói đủ là Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn, vua cõi trời Đao Lợi.
Phạm Thiên: Thiên Vương cõi sắc.
(31) Phiền não: Phiền nhiễu, não loạn, tức là những tâm niệm xấu, cùng ý tưởng ác như: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến v.v… nó làm nhiễu loạn thân tâm người, đồng thời hay phá hoại thiện căn của người, nên cũng gọi là phiền não ma.
(32) Đại Long Tượng: Rồng lớn và Voi lớn là loài to mạnh trong các muông thú. Dùng danh từ này là dụ cho các bậc siêu nhân đại Bồ Tát.
(33) Phật là Pháp Vương, đại Bồ Tát sẽ thành Phật, là con của đấng Pháp Vương nên gọi là Pháp Vương Tử.
(34) Hành pháp: pháp di động chuyển biến.

(35) Kim Sí Điểu: Chim cánh vàng, một loài chim to nhứt, hay dùng rồng làm món ăn.