Saturday, October 18, 2014

Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện - Phẩm Hồi Hướng

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng: bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố, không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, vô sắc, thinh hương, vị, xúc, pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới: vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát Đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.
Tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố, đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Cố tri Bát nhã ba la mật đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú. Tức thuyết chú viết: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

BẠT NHỨT THẾ NGHIỆP CHƯỚNG CĂN BỔN ĐẮC SANH TỊNH ĐỘ ĐÀ LA NI
Nam mô a di đa bà dạ. Đa tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ. A di rị đa, tất đam bà tỳ. A di rị đa, tỳ ca lan đế. A di rị đa, tỳ ca lan đa. Dà di nị, dà dà na. Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (7 lần)
A Di Đà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới, đại từ, đại bi A Di Đà Phật.
Nam mô A Di Đà Phật. (108 lần)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát. (10 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát. (10 lần)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát. (10 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát (10 lần)

SÁM THẬP PHƯƠNG
A.
Thập phương tam thế Phật
A Di Đà đệ nhất
Cửu phẩm độ chúng sanh
Oai đức vô cùng cực
Ngã kim đại quy y
Sám hối tam nghiệp tội,
Phàm hữu chư phước thiện
Chí tâm dụng hồi hướng.
Nguyện đồng niệm Phật nhơn
Cảm ứng tùy thời hiện,
Lâm chung Tây phương cảnh
Phân minh đại mục tiền,
Kiến văn giai tinh tấn
Đồng sanh Cực Lạc quốc,
Kiến Phật liễu sanh tử,
Như Phật độ nhứt thiết.
Vô biên phiền não đoạn
Vô lượng pháp môn tu
Thệ nguyện độ chúng sanh
Tổng giai thành Phật đạo.
Hư không hữu tận
Ngã nguyện vô cùng
Hư không hữu tận
Ngã nguyện vô cùng
Tình dữ vô tình,
Đồng viên chủng trí,

B.
Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như Lai,
Tam giả quảng tu cúng dường,
Tứ giả sám hối nghiệp chướng,
Ngũ giả tùy hỷ công đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân,
Thất giả thỉnh Phật trụ thế,
Bát giả thường tùy học Phật,
Cửu giả hằng thuận chúng sanh,
Thập giả phổ giai hồi hướng.

Phụ thêm bài: SÁM THẬP PHƯƠNG (nghĩa)
Cũng gọi là: SÁM MƯỜI PHƯƠNG
Mười phương chư Phật ba đời,
Di Đà bực nhứt chẳng rời quần sanh,
Sen vàng chín phẩm sẵn dành,
Oai linh đức cả đã đành vô biên.
Nay con dâng tấm lòng thiềng
Quy y với Phật sám liền tội căn,
Phước lành con có chỉ chăng,
Ít nhiều quyết cũng nguyện rằng về Tây!
Nguyện cùng với bạn tu đây,
Tùy thời cảm ứng hiện ngay điềm lành,
Biết giờ biết khắc rõ rành.
Lâm chung tạn mặt cảnh lành Tây phương.
Thấy nghe chánh niệm hơn thường,
Vãng sanh Lạc quốc đồng nương hoa vàng,
Hoa nở thấy Phật rõ ràng,
Thoát vòng sanh tử, độ an muôn loài.
Phiền não vô biên, thệ dứt trừ,
Pháp môn tu học, chẳng còn dư,
Chúng sanh nguyện độ, bờ kia đến
Phật đạo cùng nhau chứng trí như.
Hư không cõi nọ dầu cùng,
Nguyện trên còn mãi chẳng cùng chẳng thiên.
Không tình cùng có đồng nguyền,
Trí mầu của Phật đồng viên đồng thành(20).

SÁM PHỔ HIỀN (nghĩa)
Nay con lại nguyện tu hành,
Phổ Hiền nguyện lớn sẵn dành mười môn:
Một là nguyện lạy Thế Tôn
Hiện thân trước Phật hết lòng kính tin.
Hai, khen Phật đức rộng thinh,
Lời hay, tiếng tốt tận tình ngợi ca.
Ba, thời sắm đủ hương hoa,
Tràng phan bảo cái dưng ra cúng dường.
Bốn, vì mê chấp lần đường.
Tham sân nghiệp chướng con thường sám luôn.
Năm, suy công đức vàn muôn,
Của Phàm của Thánh con đồng vui ưa.
Sáu, khi Phật chứng thượng thừa,
Pháp mầu con thỉnh đã vừa truyền trao.
Bảy, lòng chẳng chút lãng xao,
Cầu xin chư Phật chớ vào vô dư!
Tám, thường tu học Đại thừa,
Bao giờ bằng Phật mới vừa lòng con,
Chín, thề chẳng dám mỏi mòn,
Dắt dìu muô loại đều tròn pháp thân.
Mười, đem tất cả công huân,
Mọi loài cùng hưởng, khắp trần cùng vui.
Mười điều nguyện lớn nguyện rồi,
Nguyện về Cực Lạc nguyện ngồi tòa sen(21).

HỒI HƯỚNG
Phúng kinh công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.

PHỤC NGUYỆN
A Di Đà Phật thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhơn. Lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thính phân minh diện phụng Di Đà, dữ chư thánh chúng, thủ chấp kim đài, lai nghinh tiếp ngã. Nhứt sát na khoảnh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ tát đạo, quảng độ chúng sanh, đồng thành chủng trí.
Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới, đại từ, Đại Bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới, đại từ, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát. (1 lạy)
Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới, Liên Trì Hải Hội Phật, Bồ tát, nhứt thiết Hiền Thánh Chúng, chư Thượng Thiện nhơn. (1 lạy)

TAM TỰ QUY Y
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải.

Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại.

-----------------------------------------------------

BÀI TỰA VỀ VĂN MƯỜI PHƯƠNG
Bài hồi hướng. “Thập phương”, văn chữ hán (số A) vốn là của ngài Đại Từ Bồ tát soạn ra. Sau khi tụng kinh cùng niệm Phật, tụng bài này cốt để đem bao nhiêu công đức tụng niệm đều hồi hướng cầu được vãng sanh về cõi Tây phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. Tụng bài này phước đức lớn lắm nên từ xưa đến nay, ở nước ta cũng như nước Tàu, trong các chốn Thiền môn, luôn luôn dùng bài này phổ vào các thời khóa.
Còn từ “nhất giả” đến “thập giả” (số B) là mười điều nguyện rút ra trong phẩm “Phổ Hiền hạnh nguyện” của kinh Hoa Nghiêm. Trong kinh mỗi một nguyện ngài Phổ Hiền Bồ tát vì ngài Thiện Tài Đồng Tử và chúng hội Bồ tát mà giảng giải rất rộng, 10 câu là những câu tổng nêu về mỗi nguyện thôi.
Phàm tụng văn hồi hướng, cần nhất người tụng phải hiểu rõ nghĩa lý trong văn, vì có hiểu thời chỗ hồi hướng phát nguyện mới thiết thiệt, tâm quán tưởng mới xác thật, công đức mới tăng trưởng, Nếu tụng mà không hiểu chi hết, thời hồi hướng đó là hồi hướng về đâu? Phát nguyện đó là phát những gì và như thế nào? Thành ra chỉ có tụng theo lệ suông thôi chắc khó thành tựu công đức được.
Vì lẽ trên đây, nên tôi không quản tài sơ văn vụng phỏng theo nguyên văn và y cứ nơi nghĩa trong kinh mà dịch cả hai bài (số A và số B) ra quốc văn. Dịch xong lại còn ngại vì trong sám văn có nhiều nghĩa sâu ẩn, khuất khúc, nên biết thêm đoạn thích nghĩa sau đây, (số 20 và 21) để giải rõ bổn quốc văn, ngõ hầu khi tụng đến, tụng chữ hiểu nghĩa, tâm và lý tương ứng khi hiệp, lâu lâu tinh thuần, thiện căn công đức chắc chắn là vô cùng vô tận vậy.
HÂN TỊNH TỲ KHEO
Cẩn chí


(20) Trong khoảng không gian vô tận, chẳng phải chỉ có nội một cõi Ta bà của đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni Phật mà chúng ta hiện ở đây thôi, kỳ thật ngoài Ta bà ra còn có vô biên thế giới khác. Phàm hễ có một thế giới thời có một đức Phật làm giáo chủ, thế giới đã vô biên thời là có vô lượng chư Phật. Chẳng những hiện tại đây vô biên thế giới ở mười phương (Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, trên và dưới) có vô lương chư Phật, và về thời kỳ quá khứ đã có vô lượng chư Phật và đến thời kỳ vị lai cũng sẽ có vô lượng chư Phật. Nên trong văn nói: Mười phương chư Phật ba đời.

Trong vô lượng chư Phật ở mười phương ba đời đó, suy ra thời đức Phật A Di Đà là bậc nhất.

Về Phật quả thời Phật đồng chứng như nhau, đồng trí viên, đồng hạnh mãn, đồng đức đủ, đồng nguyện toàn, công đức của chư Phật đã đồng sao lại nói Phật A Di Đà là bậc nhất? – Đây nói bậc nhất là cứ nơi ứng hóa thân của Phật mà so sánh thôi, chớ không phải nói đến pháp thân và báo thân, về pháp thân và báo thân của chư Phật quyến hẳn là đồng, vì hai thân đó là thật thân quả chứng của chư Phật vậy. Còn ứng hóa thân là những thân vì chúng sanh cảm cách đến Phật mà ứng hóa ra, chúng sanh cơ cảm có sai khác nên thân ứng hóa của chư Phật cùng tùy đó mà sai khác, lại sự khác đó cũng do vì bổn nguyện của chư Phật lúc còn tu hạnh Bồ tát không đồng nhau vậy.

Về sự thù thắng nói ứng thân của đức Phật A Di Đà lược kể về phần đại khái thời có 4 điều:

A. Quang minh thường chiếu suốt các cõi nước ở mười phương không bị che ngăn, như trong kinh Tiểu bổn A Di Đà nói Quang minh của đức Phật đó vô lượng chiếu các cõi nước ở mười phương không bị chướng ngại, nên hiệu A Di Đà”.
Trong kinh Đại bổn A Di Đà nói: “Giả sử khi ta đặng thành Phật mà quang minh có hạn lượng, ít nhất là chẳng soi suốt trăm nghìn ức na do tha cõi nước của chư Phật, thời ta nguyện không chứng quả chính giác” (điều nguyện thứ 12 trong 48 điều nguyện).
Còn quang minh nơi ứng thân của chư Phật, phần nhiều có hạn lượng, hoặc chiếu một do tuần, 10 do tuần, 100, 1.000… do tuần, hoặc chiếu 1 thế giới, 10, 100, 1.000… thế giới. Như quang minh nơi ứng thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ chiếu có 1 tầm!
Vì quang minh vô lượng nên đức Phật A Di Đà có 12 biệt hiệu như trong Đại bổn kinh:
1. Vô Lượng Quang,
2. Vô Biên Quang,
3. Vô Ngại Quang,
4. Vô Đối Quang,
5. Viêm Vương Quang (có chỗ để Diệm Vương Quang),
6. Thanh Tịnh Quang,
7. Hoan Hỷ Quang,
8. Trí Huệ Quang,
9. Nan Tư Quang,
10. Bất Đoạn Quang,
11. Vô Xứng Quang,
12. Siêu Nhật Nguyệt Quang,
Do đây nên về quang minh thường nơi ứng thân, thời đức A Di Đà được phần thù thắng trong hàng chư Phật vậy.

B. Thọ mạng ứng hiện ra đời của chư Phật phần nhiều đều có hạn lượng; hoặc 100 tuổi, 1.000 tuổi… hoặc 1 kiếp, 10 kiếp, 100 kiếp, 1.000 kiếp, v.v… như đức Phật Thích Ca ở đời chỉ có 80 năm.
Còn về ứng thân của đức Phật A Di Đà, thọ mạng vô lượng. Trong Tiểu bổn kinh nói: “Đức Phật đó sống lâu vô lượng vô biên vô số kiếp, nên hiệu là A Di Đà”. Điều nguyện thứ 13 trong Đại bổn kinh nói: “Giả sử khi ta đặng thành Phật mà thọ mạng có hạn lượng, ít nhất không được trăm nghìn ức na do tha kiếp đó, thời ta nguyện không chứng quả chính giác”. Nên đức Phật A Di Đà cùng hiệu là Vô Lượng Thọ Phật.
Đây là thọ mạng của đức Phật A Di Đà có phần thù thắng trong hàng chư Phật vậy.

C. Về phần đồng cư Cực Lạc, là cõi nước của đức Phật A Di Đà cực kỳ trang nghiêm, thuần vui thanh tịnh, tuyệt đối không có mảy may khổ não, như trong Đại bổn kinh, Tiểu bổn kinh và Quán kinh đã rộng thuật.
Lại trong bộ Yếu giải nói: “Cực Lạc đồng cư, tứ độ viên dung, thọ lạc viên dung. Ở nơi đồng cư độ (cõi phàm) mà viên kiến cả ba bộ trên (3 cõi thánh: Phương tiện độ, Thật báo độ, Thường tịch quang độ cõi trước là cõi của Nhị thừa thánh nhân, kế là cõi của đại Bồ tát, sau rốt là cõi của đức Phật).
Chớ so với các cõi khác, như Ta bà chẳng hạn, nơi chúng ta đồng sống đây chính là đồng cư độ của cõi Ta bà vậy, thời lại đủ thứ uế nhơ, nào tam khổ, bát khổ, vô lượng điều khổ sở ngũ trược v.v… lại hạng phàm phu không thể dự phần nơi cảnh Thánh.
Đây là cõi đức Phật A Di Đà, về phần đồng cư độ có phần đặc biệt trong các cõi nước ở mười phương vậy.

D. Nhân dân trong nước của đức Phật A Di Đà dầu là phàm, nhưng cũng đều trụ bậc “bất thối chuyển”, nghĩa là ở vào địa vị thẳng mãi đến thành Phật, không còn nhưng trệ lui sụt. Nói chi các bậc Thánh! Trong hàng Thánh của nước Cực Lạc, cứ về bậc “Nhất sanh bổ xứ Bồ tát” như ngài Quán Âm Thế Chí, hay là như Di Lặc v.v… số nhiều vô hạn, huống là Thập địa, Địa tiền, cùng Thanh văn Duyên giác! Trong tiểu bổn kinh nói: “Nơi nước Cực Lạc, chúng sanh nào sanh về đó đều là bậc bối thối chuyển. A la hán và Bồ tát đều đồng vô lượng vô biên, không thể tính đếm mà biết được, chỉ có thể gượng nói là vô lượng vô biên vô số thôi”.
Bậc Thánh trong cõi khác hoặc là có số hạn, như cõi Ta bà có 62 ức hằng ha sa vị Bồ tát v.v…
Lại nhân dân nơi Cực Lạc tuổi thọ đồng với Phật, nghĩa là vô lượng, như Tiểu bổn kinh nói: ”Thọ mạng của đức Phật đó là thọ mạng của nhân dân của ngài, vô lượng, vô biên, vố số kiếp”.
Đấy là nhân dân, La hán, Bồ tát của đức Phật A Di Đà trong các cõi nước mười phương vậy.

Vì những phần đặc thắng trên đây, nên trong văn nói:
Mười phương chư Phật ba đời, Di Đà bậc nhất.
Đối với chúng sanh, đức Phật A Di Đà có nguyện lực độ sanh rất lớn. Nguyện lực đó rõ ràng nhất là đã nêu bày trong 48 điều nguyện của ngài: những nguyện độ khắp Thánh phàm trong mười phương! Lại trong Quán kinh có câu: “Phật tâm đó là lòng đại từ bi vậy dùng vô duyên từ nhiếp độ các chúng sanh”. Kinh lại nói: “Đức Vô Lượng Thọ Phật có 84.000 tướng, trong mỗi tướng đều có 84.000 tùy hình hảo, trong mỗi hình hảo lại có 84.000 ánh sáng, mỗi ánh sáng chiếu khắp các cõi nước ở mười phương. Ánh sáng này nhiếp thọ chúng sanh niệm Phật không lìa bỏ”.

Đức Phật A Di Đà có lòng từ, nguyện lớn, phóng quang minh tiếp độ chúng sanh không lìa bỏ, nên trong văn nói:
Di Đà bậc nhất chẳng rời quần sanh.

Do nguyện lực của đức Phật A Di Đà, nên những người được sanh về cõi Cực Lạc của ngài đều từ trong hoa sen báu nơi ao thất bảo mà hóa sanh, nghĩa là mượn hoa seen làm bào thai mà cho thân hình. Đó gọi là “liên hoa thanh tịnh hóa sanh”, cũng có câu “liên hoa vi phụ mẫu”. Vì người vãng sanh về đó nơi trí có cao thấp, nơi phước có nhiều ít không đồng nhau, nên hoa sen là chỗ thác sanh cũng có nhiều hạng, đại khái chia làm chín phẩm:
1. Thượng phẩm thượng sanh.
2. Thượng phẩm trung sanh.
3. Thượng phẩm hạ sanh (ba phẩm này thuộc bậc đại thừa Bồ tát).
4. Trung phẩm thượng sanh.
5. Trung phẩm trung sanh (hai phẩm đây thuộc hàng nhị thừa Thánh nhân).
6. Trung phẩm hạ sanh (một phẩm đây thuộc hàng có công đức lành ở đời).
7. Hạ phẩm thượng sanh.
8. Hạ phẩm trung sanh.
9. Hạ phẩm hạ sanh (ba phẩm này thuộc về hạng người tạo ác nghiệp).

Cứ nơi chín phẩm trên thấy, thời thấy rằng từ bậc đại thừa Bồ tát, nhị thừa Thánh nhân, người lành tốt trong đời cho đến kẻ tạo ác nghiệp, phạm ngũ nghịch thập ác v.v… mà có gia công niệm Phật, thời đều được vãng sanh về cõi Cực Lạc cả (trừ người hủy báng Tam Bảo).

Đức Phật A Di Đà sẳn đức từ bi nguyện lực, dùng chín phẩm liên hoa báu để chực chờ tiếp dẫn chúng sanh về nước của ngài. Nên trong văn nói:
Sen vàng chín phẩm sẵn dành.

Oai lực linh thông của Phật vô cùng, đức lành của Phật vô cực. Trí quang chiếu phá sự mê tối của chúng sanh khắp mười phương, đó là “oai lực”. Chúng sanh niệm Phật, thời liền hộ niệm giữ gìn cho được an ổn không thối không thất, và hiện vô lương thân đến khắp vô lương thế giới để tiếp dẫn chúng sanh về Cực Lạc. Đây là “linh thông”. Tâm của Phật không lúc nào quên chúng sanh, như cha mẹ hiền nhớ con, thương con. Lại không công đức nào mà Phật không hoàn mãn đây là “đức lành”. Như tiểu bổn kinh nói: “Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nghe nói đến đức Phật A Di Đà rồi hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, chấp trì danh hiệu nhất tâm bất loạn. Người này đến lúc lâm chung, đức Phật A Di Đà và hàng Thánh chúng hiện ra nơi trước, người lúc chết tâm hồn không điên đảo, liền đặng vãng sanh về nước Cực Lạc của Phật A Di Đà”. Kinh Lăng Nghiêm có câu: “Các đức Như Lai trong mười phương thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con”. Lại có câu: “Người nào niệm danh hiệu Phật, thời hào quang của Phật chiếu đến người đó, làm cho các sự tai vạ tà ma, quỷ quái không đến đần được”.

Oai lực linh thông của Phật vô cùng, đức dày của Phật lại vô cực nên văn nói:
Oai linh đức cả đã đành vô biên.

Từ đây nhẫn lên là giải một đoạn bốn câu kệ về phần tán thán công đức của Phật:
Mười phương chư Phật ba đời,
Di Đà bậc nhất chằng rồi quần sanh.
Sen vàng chín phẩm sẳn dành
Oai linh đức cả đã dành vô biên.

Đã rõ nơi đức Phật A Di Đà có vô lượng công đức thù thắng nếu không quy y với Phật còn quy y với ai. Quy y là đem cả thân mạng mình nương nơi Phật, gửi nơi Phật, giao phó cho Phật. Lại dùng lòng chí thành mà quy y. Trong văn nói:
Nay con dâng tấm lòng thành, quy y với Phật…

Từ thuở trước đến ngày nay, vì say mê nên đã lỡ lầm gây tạo ra không biết bao nhiêu tội lỗi. Ngày nay nhờ nghe kinh thấy Phật mà tỉnh ngộ, đã biết tự xét ăn năn, nên cũng mau mau dùng lòng chí thành mà sám lối tội lỗi, nghĩa là ăn năn tội trước, chừa cải lỗi sau. Nên trong văn nói:
Sám liền tội căn.

Nay tự suy lấy ta – Trong những đời đã qua, chắc có lẽ ta cũng đã có tu tạo ít nhiều phước lành chớ chẳng không, vì nếu không có phước lành thời quyết hẳn là không được sanh làm người, vì loài người thuộc về thiện đạo trong lục đạo. Lại trong kinh nói: gặp được Phật pháp là điều rất khó. Rất khó mà nay ta được nghe, thời chắc chắn ta đã có căn lành săn rồi, dầu có nhưng vì ta mê muội nên cách đời mà quên đi. Lại trong đời này, những ngày qua, hiện tại nay, và sau này, thời ta đã có căn lành, hiện tu tập và sẽ vun trồng cội phước. Dầu thế song còn thuộc hạng phàm phu, phiền não, nghiệp chướng đầy dẫy, thời làm lành đâu dám chắc là thiệt lành, làm phước đâu dám từ hào là thiệt phước, chỉ có trí huệ của đức Phật mới có thể nhận thiệt mà thôi, nên trong văn nói:
Phước lành con có chi chăng?

Nương phước mà ở mãi nơi Ta bà, thời chỉ được hưởng sự vui tạm bợ, hết phước tất phải khổ, huống trong vòng luân hồi, từ say mê càng vào mê, hễ mê thời dễ gây nghiệp, đâu bằng đem công đức hồi hướng cầu vãng sanh Cực Lạc thế giới ở Tây phương, để được hưởng sự vui thanh tịnh và bảo đảm giải thoát, đây văn nói:
Ít nhiều quyết cũng nguyện rằng về Tây.

Từ đây trờ lên là giải về bốn câu kệ quy y, sám hối và hồi hướng:
Nay con dưng tấm lòng thiềng (thành)
Quy y với Phật, sám liền tội căn.
Phước lành con có chi chăng?
Ít nhiều cũng quyết niệm rằng về Tây.

Pháp lữ đề huề, thân cận thiện hữu, là điều cần thiết mà từ đức Phật đến chư Tổ đều luôn luôn nhắc nhở. Cùng dạy bảo cho nhau, những sự nghĩa chân chính, những lý thú thâm huyền. Cùng nhau đồng hành pháp sự, đồng tu tịnh nghiệp. Cùng nhau tùy hỷ khi đắc ích, khuyên răn lúc sái lười… Mến nhau như ruột thịt, coi nhau như tay chân. Vì thế nên chẳng phải chỉ nghĩ riêng về phần mình, mà tâm tâm niệm niệm không quên mong mỏi cho thiện hữu, cũng như trông cầu cho tự mình, sớm đặng kết thành ứng nghiệm lành trên đường tu tập: chính là nguyện bạn cùng mình, trong ngày hiện tại nơi đời sống này, hoặc lúc thiền quán, hoặc lúc mộng mơ, cảm cách đến Phật, đến Thánh chúng, đến Cực Lạc, mà được thấy kim thân của đức Phật, hoặc thấy hào quang, hoặc thấy liên hoa, hoặc thần du cõi Cực Lạc v.v… để cho lòng tin thêm kiên cố, nguyện hành càng tiến triển. Nên trong văn nói:
Nguyện cùng với bạn tu đây,
Tùy thời cảm ứng hiện ngay điềm lành.

Có nhân tất có quả. Nhân là tu tịnh nghiệp: niệm Phậtcầu vãng sanh Cực Lạc quốc. Quả là khi mãn báo thân trược uế được thác chức liên hoa nơi ao báu ở Tây phương Cực Lạc thế giới. Trước ngày lâm chung, nguyện đức Phật tin cho biết rõ ngày giờ, để vững lòng chờ đợi. Đến lúc lâm chung, xin đức Phật y lời bổn nguyện lực, hiện thân vàng cùng cảnh Thánh cho mình được thấy, nói pháp cho mình được nghe đã được thấy Phật, nghe pháp rồi, thời chính niệm càng tinh tấn, bội hơn ngày thường nên văn nói:
Biết giờ biết khắc rõ rành
Lâm chung tạn mặt cảnh lành Tây phương.
Thấy nghe chính niệm hơn thường.

Chính niệm tinh tấn, tâm không mê muội, không điên đảo liền đặng vãng sanh về nước Cực Lạc thác chất nơi hoa sen thất bảo. Sau khi hoa nở, tâm nhãn khai thông đôi mắt thanh tịnh, thấy rõ thân quang minh tướng hảo của đức Phật, được Phật vì mình mà thuyết pháp mầu, liền ngộ lý vô sanh, chứng bậc bất thối, thoát hẳn vòng sanh tử luân hồi. Rồi cũng như đức Phật, dùng thần thông trí lực, vận dụng từ bi, hiện thân đến thập phương độ khắp mọi loài chúng sanh, đồng được giải thoát như mình đã được giải thoát. Như trong văn:
Vãng sanh lạc quốc đồng nương hoa vàng
Hoa nở thấy Phật rõ ràng
Thoát vòng sanh tử độ an muôn loài.

Từ đây nhẫn lên là giải về 8 câu kệ vì mình vì người mà phát nguyện:
Nguyện cùng với bạn tu đây,
Tùy thời cảm ứng hiện ngay điềm lành.
Biết giờ biết khắc rõ rành
Lâm chung tạn mặt cảnh lành Tây phương.
Thấy nghe chính niệm hơn thường.
Vãng sanh lạc quốc đồng nương hoa vàng
Hoa nở thấy Phật rõ ràng
Thoát vòng sanh tử, độ an muôn loài.

Muốn sau khi vào Cực Lạc được ở phẩm cao, thời phải có hạnh nguyện đại thừa vì ba thượng phẩm trong chín phẩm chỉ có đại thừa Bồ tát mới được dự phần. Nên người tu Tịnh độ cần phát “Tứ hoằng thệ nguyện”. Bốn nguyện này là những điều nguyện chung mà tất cả chúng đại thừa ai cũng phải đủ.

I. Thệ dứt tất cả phiền não, dầu là vô biên như văn nói:
Phiền não vô biên, thệ dứt trừ.
II. Nguyện học thông và tu tập tất cả pháp môn chính đạo của đức Phật truyền dạy, dầu là vô lượng như văn nói:
Pháp môn tu học, chẳng còn dư.
III. Lợi tha là chính hạnh của đại thừa, là hoài bão của Bồ tát. Nên thệ độ tất cả chúng sanh dầu là vô tận, độ đến đâu? Độ đến giác ngạn kia. Như văn nói:
Chúng sanh nguyện độ, bờ kia đến.
IV. Và mục đích cuối cùng, là nguyện mình cùng tất cả muôn loài đồng viên mãn chính trí, chứng nhập như như, tức là thành Phật đạo hoàn toàn, Phật đạo vô thượng. Như văn nói:
Phật đạo cùng nhau chứng trí Như.
Từ đây nhẫn lên là giải về bốn câu hoằng thệ viết theo thể tứ cú để cho có phần đặc biệt, là ý muốn người tụng đến phải chú ý:
Phiền não vô biên, thệ dứt trừ,
Pháp môn tu học, chẳng còn dư,
Chúng sanh nguyện độ, bờ kia đến
Phật đạo cùng nhau chứng trí Như.

Từ đây nhẫn xuống là 4 câu kết thúc lập chí bền chắc, giữ nguyện kiên cố, hư không chẳng bao giờ cùng tận, cái không cùng tận mà giả tỷ cho nó cùng tận đi nữa, nhưng những điều mà đã thệ nguyện ở trên đó, quyết không cùng tận, không mảy may dời đổi. Đây là ý nguyện của ta bền chắc vững vàng hơn cõi hư không. Những loài tình thức (người, vật v.v…) cùng với những loài không tình thức (núi, sông v.v…) khắp trong thế giới ta đều bình đẳng nguyện cầu cho tất cả đồng viên thành trí huệ nhiệm mầu của Phật. Như văn nói:
Hư không cõi nọ dầu cùng,
Nguyện con còn mãi chẳng cùng chẳng thiên.
Không tình cùng có đồng nguyền,
Trí mầu của Phật đồng viên đồng thành.

Hỏi: Loài có tình thức tu tập viên thành Phật trí thì phải, còn vô tình sao cũng đồng thành?
Đáp: Có hai nghĩa:
A. Vô tình là y báo, hữu tình là chính báo. Y báo là do chính báo cảm ra. Nên khi chính báo (hữu tình) thành Phật trí thời y báo (vô tình) cũng chuyển thành Phật cảnh. Vì nơi Phật, cảnh cùng trí không sai biệt, nên đồng viên thành Phật trí cũng không ngại, đó là lấy trí nhiếp cảnh vậy.
B. Giác tính ở nơi hữu tình thời gọi là Phật tính, ở nơi vô tình thời gọi là Pháp tính. Phật tính và pháp tính đều là giác tính. Thành Phật là viên chứng giác tính, ráo rốt bình đẳng viên dung, thời đâu còn có hữu và vô sai biệt cách ngại như phàm phu. Như thế, há lại không phải là đồng viên đồng thành đó ư?

(21) Vì muốn cho các điều hạnh nguyện trên được dung thông pháp giới, rộng lớn tuyệt đối, nên tiếp tục mười điều nguyện vương của ngài Phổ Hiền Bồ tát tuyên thuyết nơi Hoa Nghiêm đại hội. Viên mãn 10 nguyện vương này thời tức là mãn quả Phật vậy.
Phật dạy: chúng sanh lưu lãng trong vòng sanh tử, chính là vì trái quên tính giác và dong ruổi theo trần lao. Trần lao là món vô thường nên theo đó tất cả cũng lưu chuyển như nó. Nếu chúng sanh thức tỉnh, biết xét trở lại, rời trần lao mà xoay về giác tính thời hẳn luân hồi, vì giác tính là bổn thế bất động.
Bậc chứng cùng giác tính là đức Phật nên điều nguyện thứ nhất lễ Phật đây là biểu tượng trái trần lao hiệp giác tính. Như văn nói:
Một là nguyện lạy Thế Tôn,
“Phật Thế Tôn” là đấng vô thượng chính giác tôn quý nhất thế gian và xuất thế gian.
Lạy Phật như thế nào?
Trong phẩm Hạnh nguyện, ngài Phổ Hiền có giảng giải điều đó như thế này: “Tất cả vi trần số chư Phật ở mười phương ba đời, do ta dùng sức hạnh nguyện Phổ Hiền, nên thâm tâm tin giải như đối trước mắt. Đều dùng thân, ngữ, ý ba nghiệp mà thường cung kính đảnh lễ luôn. Nơi mỗi đức Phật ta đều hiện ra vi trần số thân. Mỗi mỗi thân đảnh lễ khắp vi trần số đức Phật. Sự lễ kính của ta đây không có cùng tận, niệm niệm nối luôn không có xen hở, ba nghiệp không có nhàm mỏi”.
Trong văn tóm tắt:
Hiện thân trước Phật hết lòng kính tin.

2. Điều nguyện vương thứ hai là “khen ngợi Như Lai”.
Về điều nguyện này trong “Hạnh nguyện phẩm” nói: “Tất cả cõi nước trong mười phương ba đời có bao nhiêu vi trần, trong mỗi vi trần đều có vi trần số Phật, nơi chỗ của mỗi đức Phật đều có hải hội Bồ tát vây quanh. Ta đều phải dùng sức thắng giải hiện tiền tri kiến rất sâu, đều dùng thiện căn nhiệm mầu hơn cả Biện Tài Thiên nữ. Mỗi mỗi thiệt căn vang ra biển, âm thanh vô tận, mỗi mỗi âm thanh diễn ra biển tất cả lời nói ngợi khen tán thán biển các công đức của tất cả Như Lai, cùng tột thuở vị lai nối luôn không ngớt, tận hư không đều cùng khắp cả”.
Tóm nghĩa kinh, văn nói:
Hai, khen Phật đức rộng thinh,
Lời hay tiếng tốt tận tình ngợi ca.

3. Điều nguyện vương thứ ba là “Rộng sắm cúng dường”.
Hạnh nguyện phẩm giải rằng: Trong vi trần cả tất cả cõi nước mười phương ba đời, mỗi mỗi đều có vi trần số cõi Phật, nơi chỗ của mỗi đức Phật, đều có hải hội các hàng Bồ tát vây quanh, ta do sức hạng nguyện Phổ Hiền mà sanh tri kiến hiện tiền tín giải rất sâu, đều đem các thức đồ cúng dường thượng diệu để mà cúng dường. Những là mây hoa, mây tràng hoa, mây âm nhạc trời, mây tàn lọng, mây y phục trời, các thứ hương trời: hương xoa, hương bột, hương xông… mỗi mỗi thứ mây đó lượng lớn như núi Tu di. Thắp các thứ đèn, đèn tô, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm, mỗi tim đèn lượng như hòn núi Tu di, dầu trong mỗi đèn như nước biển lớn. Dùng các thứ đồ cúng dường như thế thường đem cúng dường.
Này thiện nam tử! Pháp cúng dường là hơn hết trong các cách cúng dường. Đó là: đúng theo lời Phật dạy mà tu hành để cúng dường, làm lợi ích cho chúng sanh để cúng dường, nhiếp thọ chúng sanh để cúng dường, thay thế sự khổ cho chúng sanh để cúng dường, siêng tu căn lành để cúng dường, chẳng bỏ hạnh nguyện Bồ tát để cúng dường, chẳng rời tâm Bồ đề để cúng dường.
Này thiện nam tử! Với chừng một phần công đức của pháp cúng dường đem vô lượng phần công đức của tài vật cúng dường ở trước mà so sánh cũng không bằng một phần trăm, không bằng một phần nghìn, v.v…
Bởi sao? Vì các đức Như Lai đều tôn trọng pháp vậy, vì tu hành đúng theo lời Phật dạy thời là xuất sanh các đức Phật vậy. Nếu các vị Bồ tát tu hành về pháp cúng dường, thời việc cúng dường đức Như Lai được thành tựu. Tu hành như thế là chân thật cúng dường. Cho nên đây là sự cúng dường rộng lớn tối thắng…”
Nơi văn lược nói:
Ba, thời săm đủ hương hoa,
Tràng phan bảo cái dưng ra cúng dường.

4. Điều nguyện thứ tư là “sám hối nghiệp chướng”. “Sám” là phạm âm nói đủ là “sám ma”. Tàu dịch là “Hối quá”. Lấy chữ “sám” trong sám ma còn chữ “hối” trong hối quá mà gọi chung là “sám hối”, nghĩa là ăn năn chừa cải. “Nghiệp” là những việc tạo tác không lành của thân, khẩu, ý, nghiệp này nó làm ngại đường lành, nó ngăn đạo Thánh, nên gọi là nghiệp chướng.
Về điều nguyện này, trong phẩm giải rằng:
“Bồ tát tự nghĩ như vầy: ta trong vô thỉ kiếp về quá khứ, do lòng tham lam, sân hận, ngu si, phát ra nơi khẩu, ý mà đã làm ra vô lượng vô biên nghiệp chẳng lành. Nếu nghiệp các đó mà có thể tướng thật, thời tất cả cõi hư không cũng không thể dung thọ cho hết. Nay ta đều đem ba nghiệp thanh tịnh, đối khắp trước tất cả chư Phật cùng chúng Bồ tát, mà thành tâm sám hối, về sau không phạm nữa, luôn trụ nơi pháp giới pháp thanh tịnh tất cả công đức…”
Trong văn nói:
Bốn, vì mê chấp lầm đường,
Tham sân nghiệp chướng con thường sám luôn.

5. Điều nguyện vương thứ năm là “tùy hỷ công đức”.
Thấy người khác có công đức mà mình thật tâm vui mừng tán thành, đó gọi là “tùy hỷ công đức”.
Về điều nguyện này, trong phẩm giải rằng:
Vi trần số chư Phật Như Lai, từ khi mới phát tâm vì cầu nhất thiết chủng trí mà siêng tu phước và huệ, chẳng tiếc thân mạng, trải qua vi trần số kiếp. Trong mỗi kiếp xả thí vi trần số đầu mắt tay chân, thật hành tất cả hạnh khổ khó làm như thế. Viên mãn các môn Ba la mật, chứng nhập các trí địa Bồ tát, thành tựu đạo vô thượng Bồ đề của chư Phật cho đến nhập Niết bàn phần chia Xá Lợi… Nơi đức Phật có bao nhiêu thiện căn thời ta đều tùy hỷ cả.
Và trong tất cả thế giới ở mười phương kia tất cả mọi loài lục đạo tứ sanh… có bao nhiêu công đức cho đến chừng một mảy trần ta đều tùy hỷ cả.
Tất cả Thanh văn và Bích Chi Phật, hàng hữu học cùng vô học trong mười phương ba đời, có bao nhiêu công đức ta đều tùy hỷ cả.
Tất cả Bồ Tát tu vô lượng hạnh khổ khó làm, chí cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, công đức rộng lớn ta đều tùy hỷ cả.
Bao quát nghĩa trên, trong văn nói:
Năm, suy công đức vàn muôn,
Của Phàm (tứ sanh) của Thánh (Phật, Bồ tát) con đồng vui ưa.

6. Điều nguyện vương thứ sáu là “Thỉnh chuyển pháp luân”.
“Thỉnh” là cầu thỉnh với đức Phật. “Chuyển” là diễn nói dạy trao. “Pháp luân” có hai nghĩa:
A. Vòng pháp, ý nói không cùng không tận, vô thỉ vô chung, không thể phân biệt nghĩ bàn, như vòng tròn.
B. Bánh xe pháp. Pháp của đức Phật có thể đưa người tu hành từ mê đến giác, từ phàm đến Thánh, từ khổ sang vui, từ sanh tử đến trường tồn lại hay phá trừ tứ ma các chướng v.v… Như bánh xe lăn từ đây sang kia, cán rạp chông gai sạn sỏi v.v…
Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: trong vi trần của tất cả cõi nước ở mười phương ba đời, mỗi mỗi đều có vi trần số cõi nước rộng lớn, trong mỗi cõi nước niệm niệm đều có vi trần số đức Phật thành bậc Đẳng Chính Giác, mỗi đức Phật đều có tất cả hải hội Bồ tát vây quanh. Ta đều dùng thân, khẩu, ý đủ các phương tiện, để ân cần thỉnh tất cả chư Phật chuyển diệu pháp luân …”.
Bày nghĩa trên, văn nói:
Sáu, khi Phật chứng thượng thừa,
Pháp mầu con thỉnh đã vừa tuyền trao.
“Thượng thừa” chính là tối thượng thừa, là Phật thừa chứng Phật thừa là thành Phật. “Pháp mầu” là vi diệu pháp luân. “Đã vừa” là vừa đến thời, vừa phải cơ.
Đức Phật thành Phật là vì chúng sanh mà thành Phật. Đã vì chúng sanh sao còn chờ cầu thỉnh?
a. Vì muốn cho chính pháp có phần quý trọng, có quý trọng mọi người mới sanh lòng hi hữu khao khát ngưỡng vọng, có khao khát ngưỡng vọng mới có thể được lợi ích.
b. Lòng của Bồ tát lúc nào cũng tha thiết nong nả đối với sự lợi người lợi mình. Mình cùng người được lợi không gì bằng được nghe Phật thuyết pháp, nên đức Phật chưa nói, mà Bồ tát đã cầu thỉnh trước.

7. Điều nguyện vương thứ bảy là “thỉnh Phật trụ lại đời”.
Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “vi trần số chư Phật Như Lai trong mười phương ba đời toan muốn nhập Niết bàn, và các Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, hữu học, vô học, cho đến các thiện tri thức… ta đều cầu thỉnh tất cả xin chớ nhập Niết bàn, xin ở mãi nơi đời trải qua vi trần kiếp vì muốn cho tất cả chúng sanh được lợi lạc …”
Như trong văn nói:
Bảy, lòng chẳng phút lãng xao,
Cầu xin chư Phật chớ vào vô dư!
“Lòng chằng lãng xao” là tâm tâm niệm niệm cầu thỉnh luôn không ngừng không hở. “Vô dư” là vô dư y Niết bàn. “Niết bàn”, là cảnh giới chứng của các bậc Thánh xuất thế, nơi đó “tịch tịnh an thường”, “tịch tịnh an thường” là nghĩa chính của “Niết bàn” khác hẳn với cảnh phàm phiền nhiễu loạn động.
Niết bàn có 4:
1. Hữu dư y Niết bàn
2. Vô dư y Niết bàn
3. Vô trụ xứ Niết bàn
4. Tánh tịnh Niết bàn
Đây về vô dư y Niết bàn, là quả Niết bàn không còn thừa những báo và vô minh. Báo là thân hiện tại nơi thế. Ngoài đức Phật ra, từ Đẳng giác Bồ tát trở xuống đến Bích chi Phật, A la hán, đều còn vô minh. Nên cứu cánh vô dư y Niết bàn chỉ có bậc Phật là cùng tột.
Các bậc Thánh xuất thế không còn hệ lụy trong vòng sanh tử, nên muốn ở đời bao lâu vẫn được tự tại vô ngại. Do đó mới khuyến thỉnh như vậy.

8. Điều nguyện vương thứ tám là “Thường học theo Phật”.
Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Như đức Tỳ Lô Giá Như Lai trong cõi Ta bà này, từ khi mới phát tâm, thời tinh tấn luôn không lui sụt. Đem bất khả thuyết bất khả thuyết thân mạng mà bố thí. Ngài lột da làm giấy, chẻ xương làm viết, chích máu làm mực, để biên chép kinh điển, chứa nhiều như núi Tu di. Vì trọng pháp mà ngài không tiếc thân mạng, huống nữa là ngôi vua, thành ấp v.v… và các hạnh khổ khó làm khác. Cho đến dưới gốc cây ngài chứng quả Bồ đề. Ngài thị hiện và các món thần thông, khởi các thứ biến hóa hiện các hạng Phật thân ở các nơi chúng hội: hoặc ở trong chúng hội đạo tràng của các bậc đại Bồ tát, hoặc chúng hội đạo tràng Thanh văn, Bích chi Phật, cho đến chúng hội đạo tràng của Thiên, Long, bát bộ … Ở trong những chúng hội như thế, ngài dùng âm thanh viên mãn như sấm lớn vang dội, tùy theo chỗ hạp nghi của mỗi chúng hội mà nói pháp giáo hóa chúng sanh cho đến ngài thị hiện nhập Niết bàn. Tất cả công hạnh của ngài như thế ta đều học theo. Như với đức Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn với tất cả chư Phật ở mười phương ta cũng luôn luôn học theo cả.
Ngụ bày những ý nghĩa trên, trong văn nói:
Nguyện thường tu học Đại thừa,
Bao giờ bằng Phật mới vừa lòng con.
Đã muốn bằng Phật sẽ tất nhiên là phải học theo Phật.

9. Điều nguyện thứ chín là “tùy thuận chúng sanh luôn”.
“Tùy thuận” đây chính ý là thiết tha lân mẫn chúng sanh, chiều theo chỗ hạp nghi, lòng nguyện vọng trong sạch của chúng sanh, mà thi hành những phương pháp gì để chúng sanh được lợi ích trên đường giải thoát khỏi khổ.
Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Bao nhiêu chúng sanh chủng loại sai khác ở mười phương, những là loài tứ sanh, hoặc loài nương nơi đất, nước, gió, lửa mà sanh trụ. Hoặc là loài nương nơi hư không và cỏ cây mà an trụ… cho đến Thiên, Long bát bộ, người cùng phi nhân hoặc loài không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, loài có sắc không sắc, có tướng không tướng v.v… Ở nơi các loài như thế, ta nên tùy thuận mà thật hành những điều kính thờ, cúng dường, kính như kính cha mẹ, sư trưởng, A la hán cho đến như kính đức Như Lai không khác.
Với kẻ bệnh khổ thời ta là ông lương y; với kẻ lạc đường thời ta là người chỉ con đường chính; với kẻ trong đêm tối thời ta là người soi sáng; với kẻ nghèo cùng thời ta làm cho họ được kho báu. Bồ tát bình đẳng, lợi ích tất cả chúng sanh như thế. Tại làm sao? Vì nếu có thể tùy thuận chúng sanh, thời là tùy thuận cúng dường chư Phật, ở nơi chúng sanh nếu có thể tôn trọng thừa sự Như Lai, nếu làm cho chúng sanh sanh lòng vui mừng thời là làm cho tất cả đức Như Lai vui mừng.
Tại làm sao? Vì chư Phật Như Lai dùng tâm đại bi mà làm thể vậy.
Nhân nơi chúng sanh mà sanh lòng đại bi, nhân nơi đại bi mà phát Bồ đề, nhân tâm Bồ đề mà thành bậc Đẳng Chính Giác.
Ví như trong đồng trống sa mạc có cây thọ vương lớn, nếu như cây đó được thấm nhuần, thời nhánh lá bông trái thảy đều sum suê.
Cây thọ vương trong đồng trống sanh tử cũng lại như thế, tất cả chúng sanh là gốc rễ của cây, chư Phật, Bồ tát là bông trái. Dùng nước đại bi làm lợi ích cho chúng sanh, thời tất có thể thành tựu bông Bồ tát cùng trái trí tuệ của chư Phật.
Bởi sao vậy? Vì nếu các Bồ tát dùng nước đại bi làm lợi ích cho chúng sanh thời có thể thành tựu vô thượng chính đẳng chính giác. Vì thế Bồ tát thuộc nơi chúng sanh, nếu không chúng sanh, thời tất cả Bồ tát trọn hẳn chẳng hề thành bậc vô thượng chính đẳng chính giác. Này thiện nam tử! Đối với nghĩa đó, ông nên hiểu như thế.
Bởi ở nơi chúng sanh mà tâm bình đẳng, thời có thể thành tựu đức đại bi viên mãn. Dùng lòng đại bi để tùy thuận chúng sanh như thế…”
Lược nghĩa trên, văn nói:
Chín, thề chẳng dám mỏi mòn,
Dắt dìu muôn loại đều tròn pháp thân.
“Pháp thân” là thân của chư Phật. Độ muôn loài viên mãn Phật quả chính là chỗ tùy thuận cứu cánh làm lợi ích cho chúng sanh vậy.

10. Điều nguyện vương thứ mười là “Đều hồi hướng khắp cả”.
Trong Hạnh nguyện phẩm giải rằng: “Từ việc lễ bái” đầu tiên cho đến “tùy thuận chúng sanh” mà có bao nhiêu công đức, ta thảy đều đem cả hồi hướng cho tất cả chúng sanh. Ta nguyện cho chúng sanh thường được an vui, không có các bệnh khổ. Như họ có muốn làm việc ác, thảy đều không thành. Còn những nghiệp lành của họ tu, thời đều mau thành tựu. Đóng bít tất cả cửa ác đạo, mở bày đường chính: nhân, thiên, Niết bàn.
Nếu các chúng sanh, nhân vì họ gây tạo ác nghiệp mà phải cảm vời lấy quả khổ rất nặng, thời ta nguyện chịu thế, để cho chúng sanh đó đặng giải thoát, rốt ráo thành tựu đạo vô thượng chính giác.
Bồ tát tu nguyện hồi hướng như thế…”
Gồm ý trên, trong văn nói:
Mười, đem tất cả công huân.
Mọi loài cùng hưởng, khắp trần cùng vui.

Trong Hạnh nguyện phẩm, sau khi giảng giải mười điều nguyện vương xong, nơi đoạn đắc ích, về trường hàng có nói như vầy: “Lại nữa, người đó lúc mạng chung đến sát na rốt sau, tất cả các căn thảy đều tán, hoại, tất cả hàng thân thuộc đều xa lìa, tất cả oai thế đều thối thất, nào quan phụ tướng đại thần, nào cung thanh nội ngoại, voi ngựa xe cộ của báu kho đụn… tất cả những món như thế không còn theo nhau, chỉ có mười nguyện vương chẳng xa rời nhau, trong tất cả lúc nó dẫn đường nơi trước, trong khoảng một sát na liền đặng vãng sanh về cõi Cực Lạc. Đến rồi liền thấy đức Phật A Di Đà , ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, ngài Phổ Hiền Bồ tát, ngài Quán Tự Tại Bồ tát, ngài Di Lặc Bồ tát v.v…

Và về phần kệ có những câu này:
Nguyện đến lúc tôi sắp mạng chung
Sạch trừ tất cả những chướng ngại,
Tận mặt thấy Đức A Di Đà
Liền đặng vãng sanh về Cực Lạc
Phật kia chúng hội đều thanh tịnh,
Ta liền từ thẳng liên hoa sanh,
Thấy rõ đức Phật Vô Lượng Quang,
Hiện tiền trao tôi “Bồ đề ký”
Được đức Như Lai thọ ký xong,
Tôi hóa vô số trăm ức thân,
Sức trì “rộng lớn” khắp mười phương,
Lợi ích tất cả cõi chúng sanh

Vì nương theo văn trong phẩm mà cũng chính là mục đích của người tu về pháp môn tịnh độ, nên sau mười nguyện liên tiếp nói:
Phổ Hiền nguyện lớn nguyện rồi,
Nguyện về Cực Lạc, nguyện ngồi hoa sen.

Tất cả những đoạn giải thích trên đây, toàn là y cứ nơi kinh cả. Hoặc khi tụng sám văn, hoặc lúc xem thích nghĩa, chính đó là tụng xem nghĩa lý trong kinh thời công đức vô lượng. Như trong phẩm có nói: “Như có người thiện nam, người thiện nữ nào dùng của báo thượng diệu đầy đủ cả vi trần thế giới v.v… để bố thí chúng sanh trong tất cả thế giới, để cúng dường cho chư Phật, Bồ tát trong tất cả thế giới luôn luôn như vậy trải đến vi trần số kiếp không ngớt, công đức của thiện nam hay thiện nữ này đặng sánh không bằng một phần trăm công đức, một phần nghìn công đức v.v… của người nghe nguyện vương này một phen thoáng qua tai…”
Công đức của chúng sanh nào đọc tụng nguyện vương này và khắp vì người mà giảng nói, ngoài đức Phật ra không ai có thể biết được.
Dầu thế nào, đây cũng thuộc vể phần tóm tắt. Nếu người nào muốn hiểu biết rõ ràng đầy đủ hơn, xin tụng đọc những bộ này:
1. Phật thuyết A Di Đà kinh, tức là Tiểu bổn A Di Đà Kinh
2. Vô Lượng Thọ kinh, tức là Đại bổn A Di Đà kinh
3. Quán Vô Lượng Thọ kinh, tức là Quán kinh
4. Phổ hiền hạnh nguyện phẩm

***
NAM MÔ ĐẠI THÁNH ĐẠI TỪ
ĐỊA TẠNG BỒ TÁT MA HA TÁT.

Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện - Quyển Hạ Hết

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
QUYỂN HẠ HẾT
Bổn thệ Địa Tạng.
So nhân trong kinh,
Tàn tật câm ngọng do tiền sanh,
Đời nay tụng Đại thừa,
Phước lợi vô cùng
Quyết sen báu vãng sanh.
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Tăng. (3 lần)
Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát Ma Ha Tát. (3 lần)
I.
Đao Lợi, Thế Tôn nói pháp mầu,

Địa Tạng công hạnh rất rộng sâu,

Thánh giáo mãi truyền sau chẳng ngớt,

Khắp lợi Trời, người khỏi khổ sầu.

II.
Trời, A tu la, Dạ Xoa thảy

Đến nghe pháp đó nên chí tâm,

Ủng hộ Phật Pháp khiến thường còn,

Mỗi vị siêng tu lời Phật dạy,

Bao nhiêu người nghe đến chốn này,

Hoặc trên đất liền hoặc hư không,

Thường với người đời sanh từ tâm,

Ngày đêm tự mình nương pháp ở.

III.
Nguyện các thế giới thường an ổn,

Phước trí vô biên lợi quần sanh,

Bao nhiêu tội nghiệp thảy đều trừ,

Xa lìa các khổ về viên tịch.

Hằng dùng giới hương xoa vóc sáng,

Thường gìn định phục để giúp thân,

Hoa mầu Bồ đề khắp trang nghiêm,

Tùy theo chỗ ở thường an lạc.
Nam mô Tồi Tà Phụ Chánh Hộ pháp chư Tôn Bồ tát Ma Ha Tát. (3 lần)

Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện - Phẩm Thứ Mười Ba

DẶN DÒ CỨU ĐỘ NHƠN THIÊN
1/ ĐỨC PHẬT GIAO PHÓ.
Lúc đó đức Thế Tôn giơ cánh tay sắc vàng xoa đảnh Ngài Địa Tạng Bồ tát mà bảo rằng:
“Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn.
Dầu cho các Đức Phật ở mười phương khen ngợi tuyên nói những sự chẳng thể nghĩ bàn của ông trăm nghìn muôn kiếp cũng chẳng hết đặng.
Này Địa Tạng! Địa Tạng! Ông nên nhớ hôm nay ta ở trong cung trời Đao Lợi, nơi pháp hội lớn có trăm nghìn muôn ức bất khả thuyết, bất khả thuyết tất cả các đức Phật, các vị Bồ tát, các hàng Trời, Rồng, tám bộ chúng đây, một lần nữa đem các hàng chúng sanh, những kẻ ở trong nhà lửa chưa ra khỏi ba cõi, mà giao phó cho ông.
Ông chớ để các chúng sanh đó phải bị đọa vào các ác đạo dầu là chừng một ngày, một đêm, huống chi lại để cho chúng nó phải bị đọa lạc vào địa ngục ngũ vô gián cùng địa ngục A Tỳ, mãi đến nghìn muôn ức kiếp không lúc nào mong ra khỏi ư.
Này Địa Tạng! Tâm tánh của chúng sanh cõi Diêm Phù Đề không định, phần đông đều quen thói ác, thoảng hoặc có người phát tâm lành, nhưng rồi không bao lâu liền thối thất, còn như duyên ác lại luôn luôn tăng trưởng.
Cũng vì lẽ đó, nên ta phải chia thân này ra trăm nghìn ức để hóa độ, thuận theo căn tánh của chúng đó hầu làm cho chúng đó được giải thoát.
Này Địa Tạng! Hôm nay ta ân cần đem chúng Trời, Người giao phó cho ông.
Trong đời sau, như có hàng Trời, Người cùng thiện nam, thiện nữ nào trồng chút ít căn lành ở trong Phật pháp, chừng bằng sợi lông, mảy trần, hột cát, giọt nước, thời ông nên dùng đạo lực của ông ủng hộ người đó, làm cho người đó tu tập lần lần đạo hạnh vô thượng, chớ để họ thối thất.
Lại vầy nữa, này Địa Tạng Bồ tát! Trong đời sau, hoặc có trời hay người nào phải theo nghiệp mà thọ báo bị đọa vào chốn ác đạo, đến khi bị đọa vào ác đạo vừa bước đến cửa địa ngục, những chúng sanh đó nếu có thể niệm đặng danh hiệu của đức Phật, hay danh hiệu của một vị Bồ tát, cùng một câu kinh điển Đại thừa.
Ông nên dùng thần lực của ông tìm phương chước cứu vớt các chúng sanh đó, ông nên hiện thân ra trước kẻ đó, phá tan địa ngục làm cho họ được sanh lên cõi trời hưởng những sự vui vi diệu thù thắng.”
Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Đời nay đời sau chúng Thiên, Nhơn
Nay ta ân cần dặn bảo ông;
Dùng đại thần thông quyền độ họ,
Đừng cho ác đạo đọa vào trong.

2/ BỒ TÁT TUÂN CHỈ.
Bấy giờ Ngài Địa Tạng đại Bồ tát quỳ ngối chắp tay bạch cùng Đức Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Cúi xin dức Thế Tôn chớ lo.
Trong đời sau, nếu có người thiện nam cùng kẻ thiện nữ nào, đối với trong Phật pháp có một niệm cung kính, con cũng dùng trăm nghìn phương tiện độ thoát người đó, làm cho mau đặng giải thoát trong đường sanh tử, huống nữa là nghe các việc lành rồi luôn luôn tu hành, tự nhiên ở nơi đạo vô thượng không bao giờ còn thối chuyển.”

3/ HƯ KHÔNG TẠNG BẠCH HỎI.
Lúc Ngài Địa Tạng Bồ tát bạch lời nói trên đó vừa xong, trong pháp hội có một vị Bồ tát tên là Hư Không Tạng bạch cùng đức Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Từ khi con đến cung trời Đao Lợi này nghe đức Như Lai ngợi khen oai thần thế lực không thể nghĩ bàn của Ngài Địa Tạng Bồ tát.
Trong đời sau, hoặc có người thiên nam cùng thiện nữ nào, cho đến tất cả hàng Trời, Rồng v.v… nghe kinh điển này và nghe danh tự của Địa Tạng Bồ tát, cùng với chiêm lễ hình tượng Địa Tạng Bồ tát, thời những kẻ ấy được bao nhiều điều phước lợi?
Cúi mong đức Thế Tôn vì tất cả hàng chúng sanh ở hiện tại và vị lai mà nói lược việc ấy cho.”

4/ HAI MƯƠI TÁM ĐIỀU LỢI.
Đức Phật bào Ngài Hư Không Tạng Bồ tát: “Lóng Nghe ! Lóng nghe cho kỹ! Ta sẽ vì ông mà nói rõ việc ấy cho.
Trong đời sau, người thiện nam cùng thiện nữ nào thấy hình tượng của Địa Tạng Bồ tát và nghe kinh này, cho đến đọc tụng dùng hương hoa, đồ ăn món uống, y phục, vật báu mà bố thí cúng dường ngợi khen chiêm lễ thời kẻ ấy được hai mươi tám điều lợi ích như sau đây:
1. Các hàng Trời, Rồng thường hộ niệm.

2. Quả lành càng ngày càng thêm lớn.

3. Chứa nhóm nhơn vô thượng của Thánh.

4. Mãi không còn thối thất đạo Bồ Đề.

5. Đồ mặc món ăn dồi dào đầy đủ.

6. Những bịnh tật không đến nơi thân.

7. Khỏi những tại nạn về lửa và nước.

8. Không có bị hại vì trộm cướp.

9. Người khác thấy đến sanh lòng cung kính.

10. Các hàng Quỷ Thần theo hộ trì.

11. Đời sau thân gái sẽ được chuyển thành thân trai.

12. Đời sau sẽ làm con gái các hàng Vương Giả, Đại Thần.

13. Thân tướng xinh đẹp.

14. Phần nhiều được sanh về cõi trời.

15. Hoặc làm bậc vua chúa.

16. Có trí sáng biết rõ việc trong những đời trước.

17. Có mong cầu chi cũng được toại ý.

18. Quyến thuộc an vui.

19. Các tai vạ bất ngờ đều dứt sạch.

20. Các nghiệp về ác đạo đều trừ hẳn.

21. Đi đến đâu cùng đều không bị sự trở ngại.

22. Đêm nằm chiêm bao an ổn vui vẻ.

23. Những người thân tộc đã chết nếu có tội thời được khỏi khổ.

24. Nếu về đời trước có phước thời được thọ sanh về cõi vui sướng.

25. Các bậc Thánh ngợi khen.

26. Căn tánh lanh lợi thông minh.

27. Giàu lòng từ mẫn.

28. Rốt ráo thành Phật.

5/ BẢY ĐIỀU LỢI.
Lại vầy nữa, này Hư Không Tạng Bồ tát! Như hàng Trời, Rồng, Quỷ, Thần ở hiện tại và vị lai nghe danh hiệu của Ngài Địa Tạng Bồ tát, đảnh lễ hình tượng của Ngài Địa Tạng Bồ tát, hoặc nghe các sự về bổn nguyện tu hành của Ngài Địa Tạng Bồ tát mà ngợi khen chiêm lễ, thời sẽ đặng bảy điều lợi ích:
1. Mau chứng bực Thánh.

2. Nghiệp ác tiêu diệt.

3. Chư Phật đến ủng hộ.

4. Không thối thất Bồ Đề.

5. Bổn lực được tăng trưởng.

6. Việc đời trước đều rõ biết.

7. Rốt ráo thành Phật.”

6/ ĐẠI HỘI TÁN THÁN.
Bấy giờ, bất khả thuyết tất cả các Đức Phật và đại Bồ tát cùng tám bộ chúng Trời, Rồng… ở mười phương đến dự pháp hội đó, nghe đức Thích Ca Mâu Ni Phật ngợi khen tuyên bày sức oai thần lớn chẳng thể nghĩ bàn của Ngài Địa Tạng Bồ tát, đều khen là việc chưa từng có.
Lúc đó trời Đao Lợi rưới vô lượng hương hoa, thiên y, chuỗi ngọc để cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Địa Tạng Bồ tát xong rồi, tất cả đại chúng trong pháp hội đều lại chiêm lễ chắp tay mà lui ra.

Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện - Phẩm Thứ Mười Hai

THẤY NGHE ĐƯỢC LỢI ÍCH
1/ ĐỨC PHẬT PHÓNG QUANG TUYÊN CÁO
Lúc đó, từ trên đảnh môn đức Thế Tôn phóng ra cả trăm nghìn muôn ức tia sáng lớn.
Như là: tia sang sắc trắng, tia sáng sắc lớn, tia sang lành tốt, tia sáng lành tốt lớn, tia sáng ngọc, tia sáng ngọc lớn, tia sáng sắc tía, tia sáng sắc tía lớn, tia sáng sắc xanh, tia sáng , tia sáng sắc xanh lớn, tia sáng sắc biếc, tia sáng sắc biếc lớn, tia sáng sắc hồng, tia sáng sắc hồng lớn, tia sáng màu lục, tia sáng màu lục lớn, tia sáng màu vàng y, tia sáng màu vàng y lớn, tia sáng tướng mây lành, tia sáng tướng mây lành lớn, tia sáng tướng nghìn vòng tròn, tia sáng tướng nghìn vòng tròn lớn, tia sáng vòng tròn báu, tia sáng vòng tròn báu lớn, tia sáng vừng mặt trời, tia sáng vừng mặt trời lớn, tia sáng vừng mặt trăng, tia sáng vừng mặt trăng lớn, tia sáng tướng cung điện, tia sáng tướng cung điện lớn, tia sáng tướng mây biển, tia sáng tướng mây biển lớn.
Từ trên đảnh môn phóng ra những luồng ánh sáng như thế xong, lại nói ra những tiếng rất vi diệu mà bảo đại chúng rằng:
“Này tám bộ chúng Trời, Rồng, người cùng phi nhơn v.v…! Lóng nghe hôm nay ta ở tại cung trời Đao Lợi tuyên bày ngợi khen những sự lợi ích trong hàng trời người, những sự không thể nghĩ bàn, những sự về nhơn hạnh lên bậc Thánh, những sự chứng quả Thập Địa, những sự rốt ráo không lui sụt nơi đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác… của Ngài Địa Tạng Bồ tát.”

2/ QUÁN THẾ ÂM CẦU THỈNH.
Lúc Đức Phật nói lời trên đó vừa dứt tiếng, trong Pháp hội có một vị đại Bồ tát hiệu là Quán Thế Âm từ chỗ ngồi đứng dậy, quì gối chắp tay mà bạch cùng Đức Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Ngài Địa Tạng Bồ tát đầy đủ đức oai nghi lớn, Ngài thương xót chúng sanh mắc tội khổ trong muôn nghìn ức thế giới, ngài hóa hiện ra nghìn muôn ức thân bao nhiêu công đức và sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn của Ngài con đã từng nghe đức Thế Tôn cùng vô lượng chư Phật trong mười phương, khác miệng đồng lời khen Ngài Địa Tạng Bồ tát.
Dầu cho các Đức Phật trong thuở quá khứ, thuở hiện tại và thuở vị lai nói công đức của Ngài Địa Tạng Bồ tát vẫn chẳng thể nói hết.
Vừa rồi lại được đức Thế Tôn bảo khắp trong đại chúng rằng đức Phật muốn tuyên nói các sự lợi ích của Ngài Địa Tạng Bồ tát.
Cúi mong đức Thế Tôn vì tất cả chúng sanh ở hiện tại và vị lai mà tuyên nói những sự chẳng thể nghĩ bàn của Ngài Địa Tạng Bồ tát, làm cho tám bộ chúng Trời, Rồng, v.v… chiêm ngưỡng lễ lạy Ngài Địa Tạng Bồ tát để đặng phước lành.”

3/ ĐỨC PHẬT TÁN THÁN VÀ HỨA KHẢ
Đức Phật bảo Ngài Quán Thế Âm Bồ tát: “Ông có nhơn duyên rất lớn với chúng sanh trong cõi Ta Bà. Những hàng Trời, Rồng, hoặc nam tử nữ nhơn hoặc thần hoặc Quỷ, cho đến chúng sanh mắc phải tội khổ trong sáu đường nếu kẻ nào nghe danh hiệu của ông, thấy hình tượng của ông, hay mến tưởng đến ông cùng ngợi khen ông.
Thời những chúng sanh ấy đều ở nơi đạo vô thượng chánh giác quyết chẳng còn thối chuyển, thường được sanh vào cõi người, cõi trời hưởng đủ sự vui vi diệu, khi nhơn quả sắp thành thục liền được Phật thọ ký cho.
Nay ông sẵn lòng từ bi lớn thương xót các loãi chúng sanh và tám bộ chúng Trời, Rồng, v.v… mà muốn nghe ta nói những sự lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của Ngài Địa Tạng Bồ tát.
Ông nên lóng nghe cho kỹ, nay ta sẽ nói đó!”
Ngài Quán Thế Âm Bồ tát bạch rằng: “Vâng! Bạch đức Thế Tôn con xin ưa muốn nghe.”

4/ THẤY NGHE THÊM PHƯỚC TRỜI.
Đức Phật bảo Ngài Quán Thế Âm Bồ tát: “Trong các thế giới về thuở hiện tại nay và vị lai sau, có vị trời nào, hưởng phước trời đã mãn, năm tướng suy hao (19) hiện ra nơi thân, hoặc có kẻ phải đọa lạc vào nới chốn ác đạo.
Các vị trời đó, hoặc nam hoặc nữ đương lúc tướng suy hao hiện, hoặc thấy hình tượng của Ngài Địa Tạng Bồ tát, hoặc nghe tên Ngài Địa Tạng Bồ tát, rồi một lần chiêm ngưỡng một lần đãnh lễ. Thời các vị trời đó càng thêm lớn phước trời, ưởng sự vui Sướng rất nhiều không bao giờ còn phải bị đọa lạc vào ba ác đạo nữa.
Huống chi là những người thấy hình tượng Bồ tát, nghe danh hiệu Bồ tát rồi đém các thứ hương hoa, đồ y phục, đồ uống ăn, vật báu, chuỗi ngọc… mà bố thí cúng dường, thời ngngười này đặng vô lượng vô biên công đức phước lợi.”

5/ NGƯỜI BỊNH ĐƯỢC LỢI.
Lại vầy nữa này Ngài Quán Thế Âm! Trong các thế giới về thuở hiện tại nay và vị lai sau, những hàng chúng sanh trong sáu đường, như có kẻ sắp mạng chung mà đặng nghe một tiếng danh hiệu của Ngài Địa Tạng Bồ tát thoáng qua lỗ tai, thì kẻ mạng chung đó không còn bị đọa vào chốn khổ ba ác đạo.
Huống chi là lúc sắp mạng chung, cha mẹ cùng hàng thân quyến đem của cải nhà cửa, vật báu y phục v.v… của người sắp mạng chung đó mà làm của chi phí để tô đắp hay họa vẽ hình tượng của Ngài Địa Tạng Bồ tát.
Rồi làm cho người bịnh lúc chưa chết, hoặc mắt thấy tai nghe biết rằng hàng thân quyến đem nhà cửa vật báu v.v… vì mình mà tô vẽ hình tượng của Ngài Địa Tạng Bồ tát.
Người bịnh đó nếu có nghiệp báo phải mang lấy bịnh nặng, thời nhờ công đức này liền được lành mạnh, tuổi thọ thêm lâu.
Còn nếu người bịnh đó có nghiệp báo số mạng đã hết, lại có đủ tất cả tội chướng nghiệp chướng đáng lẽ phải đọa vào chốn ác đạo, song vì nhờ công đức này nên sau khi mạng chung, liền được sanh vào cõi trời, cõi người hưởng quả vui thù thắng vi diệu, tất cả tội chướng thảy đều tiêu sạch.

6/ TIÊN VONG ĐƯỢC PHƯỚC.
Lại vầy nữa, này Quán Thế Âm Bồ tát! Về đời sau, nếu có kẻ nam tử, người nữ nhơn nào, hoặc lúc còn bú mớm, hoặc lúc lên ba tuổi, hoặc lúc lên năm tuổi, mười tuổi trở xuống mà chết mất cha mẹ, cho đến chết mất anh em, chị em.
Đến khi người đó khôn lớn nhớ tưởng đến cha mẹ cùng hàng thân quyến không rõ đọa lạc vào chốn nào, hay sanh về thế giới nào, hoặc sanh lên cõi trời nào?
Người đó như có thể tô vẽ hình tượng của Ngài Địa Tạng Bồ tát, nhẫn đến nghe danh hiệu của Ngài rồi một lần chiêm ngưỡng một lần đảnh lễ, từ một ngày cho đến bảy ngày đừng thối thất tâm ban đầu, nghe danh hiệu thấy hình tượng chiêm ngưỡng cúng dường.
Thời quyến thuộc đã sớm khuất của người đó nếu do ác nghiệp mà bị đọa vào ác đạo tính ra phải chịu đến số kiếp, nay nhờ công đức tô vẽ hình tượng của Ngài Địa Tạng Bồ tát và chiêm lễ cúng dường của con cái, hay của anh em chị em, nên liền đặng giải thoát, được sanh lên cõi người hưởng quả vui thù thắng vi diệu.
Còn như quyến thuộc đã sớm khuất của người đó có phước lành, đã được sanh lên cõi trời cõi người hưởng thọ quả vui thù thắng vi diệu rồi, thời nhờ công đức này càng thêm lớn nghiệp nhân về bực Thánh, hưởng vô lượng quả vui.
Như người đó lại có thể trong hai mươi mốt ngày, chuyên lòng chiêm lễ hình tượng của Ngài Địa Tạng Bồ tát và niệm lấy danh hiệu của Ngài đủ số một muôn biến, sẽ đặng Địa Tạng Bồ tát hiện vô biên thân, mách cho người đó rõ nơi cõi của hàng thân quyến sớm khuất kia đã sanh về.
Hoặc trong giấc mộng, Địa Tạng Bồ tát hiện sức thần thông lớn, tự dắt người đó đến các thế giới thấy hàng quyến thuộc.
Nếu người đó lại có thể trong mỗi ngày niệm danh hiệu của Bồ tát một nghìn biến luôn đến một nghìn ngày. Thời người đó sẽ được Bồ tát sai các vị Quỷ Thần ở tại chỗ đó hộ vệ trọn đời, hiện đời món ăn đồ mặc dư dật, không có các thứ bịnh khổ, cho đến các sự tai vạ còn không hề vào đến cửa, huống nữa là đến nơi thân. Rốt ráo rồi người đó được Ngài Địa Tạng Bồ tát xoa đảnh thọ ký cho.

7/ NGUYỆN LỚN SỚM THÀNH.
Lại vầy nữa, này Quán Thế Âm Bồ tát! Về đời sau, như có kẻ thiện nam người thiện nữ nào muốn phát lòng từ rộng lớn để cứu độ tất cả chúng sanh, muốn tu đạo vô thượng chánh giác, muốn thoát khỏi tam giới.
Những người đó thấy hình tượng và nghe danh hiệu của Ngài Địa Tạng Bồ tát, rồi chí tâm quy y hoặc đem hương hoa, y phục, vật báu, đồ ăn uống, v.v… để cúng dường chiêm ngưỡng đảnh lễ thời chỗ nguyện cầu của kẻ thiện nam cùng thiện nữ đó mau được thành tựu không bao giờ bị chướng ngại.
Lại vầy nữa, này Quán Thế Âm Bồ tát! Trong đời sau, như có kẻ thiện nam, người thiện nữ nào, muốn cầu trăm nghìn muôn ức điều nguyện trăm nghìn muôn ức sự về hiện tại cùng vị lai, thời chỉ nên quy y chiêm ngưỡng đảnh lễ, cúng dường, ngợi khen hình tượng của Ngài Địa Tạng Bồ tát. Được như thế thời nguyện những chi và cầu những chi thảy đến thành tựu cả.
Lại cầu mong Địa Tạng Bồ tát, vận đức từ bi rộng lớn ủng hộ mãi cho, người đó trong giấc chiêm bao liền đặng Ngài Địa Tạng Bồ tát xoa đảnh thọ ký.

8/ ĐƯỢC TRÍ HUỆ.
Lại vầy nữa này Quán Thế Âm Bồ tát! Trong đời sau, như có người thiện nam, kẻ thiện nữ nào sanh lòng rất trân trọng đối với kinh điển Đại thừa, phát tâm bất tư nghị muốn đọc muốn tụng kinh điển ấy.
Dầu gặp đặng bực minh Sư truyền dạy cho những người đó học tập, nhưng đọc rồi quên rồi, trải đến cả tháng, cả năm vẫn không đọc tụng được.
Những kẻ thiện nam đó vì có nghiệp chướng đời trước chưa trừ sạch, cho nên ở nơi kinh điển Đại thừa không có công năng đọc tụng được.
Những hạng người này khi nghe danh hiệu của Ngài Địa Tạng Bồ tát, cùng thấy hình tượng của Ngài Địa Tạng Bồ tát đem hết bổn tâm cung kính bày tỏ với Bồ tát, rồi dùng hương hoa, y phục đồ ăn, tất cả đồ ngọa cụ v.v… cúng dường hình tượng Bồ tát.
Dùng một chén nước trong để trước tượng Bồ tát một ngày một đêm, sau đó cung kính chắp tay thỉnh để uống, xây mặt về hướng Nam.
Khi nước vào miệng phải chí tâm trịnh trọng, uống nước xong, phải cữ ngũ tân, rượu, thịt, tà dâm, vọng ngữ và các việc giết hại trong bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày.
Người thiện nam cùng thiện nữ đó trong giấc chiêm bao thấy Địa Tạng Bồ tát hiện thân vô biên rưới nước trên đảnh của người đó.
Sau khi thức dậy, người đó liền đặng thông minh, một phen nghe đến những kinh điển Đại thừa ấy liền sẽ nhớ mãi, không bao giờ còn quên một câu kệ nữa.

9/ TAI NẠN TIÊU TRỪ.
Lại vầy nữa, này Quán Thế Âm Bồ tát! Về trong đời sau, như có những người nào ăn mặc không đủ, cầu chi cũng không toại nguyện, hoặc thân nhiều tật bịnh, hoặc nhiều sự hung suy, nhà cửa không yên ổn, quyến thuộc chia lìa, hoặc các sự tai vạ cứ đến khuấy nhiễu nơi thân luôn, trong giấc mộng thường phải kinh sợ.
Những người như thế đó, khi nghe danh hiệu của Ngài Địa Tạng Bồ tát, thấy hình tượng của Địa Tạng Bồ tát nên chí tâm cung kính niệm đủ một muôn biến, thời những sự không toại ý trên đó sẽ tiêu sạch lần lần, liền đặng yên vui, đồ ăn mặc dư dật, cho đến trong giấc mộng thảy đều an ổn vui vẻ.

10/ KHỎI HIỂM NGUY.
Lại vầy nữa, này Quán Thế Âm Bồ tát! Về đời sau, nếu có người thiện nam thiện nữ nào, hoặc nhơn sự làm ăn, hoặc nhơn sự công chuyện tư, hoặc nhơn sự sanh cùng tử, hoặc nhơn việc gấp mà phải vào trong rừng núi, hay là qua sông vượt biển hoặc gặp nước lụt lớn, hoặc đi ngang đường hiểm trở.
Người ấy trước khi đi nên niệm danh hiệu của Ngài Địa Tạng Bồ tát một muôn biến, được thế thời đi qua nơi nào chốn nào cũng có các vị Quỷ Thần hộ vệ, lúc đi đứng, khi nằm ngồi, đều được an ổn vui vẻ luôn, cho đến dầu gặp loài hùm sói Sư tử… nhưng tất cả thứ độc hại đều không thể phạm đến người đó được.
Đức Phật bào Ngài Quán Thế Âm Bồ tát: “”Ngài Địa Tạng Bồ tát có nhơn duyên rất lớn với cõi Diêm Phù Đề. Nếu nói về những sự mà các hàng chúng sanh thấy hình nghe tên của Ngài Địa Tạng Bồ tát được lợi ích, thời dầu nói đến trong trăm nghìn kiếp cũng không hết được.
Này Quán Thế Âm Bồ tát! Vì thế ông nên dùng thần lực mà lưu tuyền kinh này làm cho chúng sanh trong cõi Ta Bà đây mãi đến trăm nghìn kiếp được hưởng những sự an vui luôn.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
- Ta xem Địa Tạng sức oai thần
Kiếp số hằng sa khó tỏ trần,
Thấy nghe một niệm chiêm ngưỡng lễ,
Trời, người lợi ích sự không ngằn,

- Hoặc Rồng hoặc Thần cùng nam nữ
Báo tận sẽ sa vào đường dữ,
Chí tâm quy mạng Đại Sĩ thân,
Tuổi thọ thêm nhiều trừ tội dữ.

- Trẻ thơ chết mất mẹ cùng cha,
Huynh đệ chị em kẻ ruột rà,
Lớn khôn nghĩ đến đều không biết,
Nẻo dữ đường lành ở đâu là?
Hoặc vẽ hoặc to Đại Sỹ hình
Cảm thương chiêm lễ biệt chẳng đành,
Hăm mốt ngày luôn niệm danh hiệu.
Bồ tát hiện thân đến bên mình:
Chỉ rành quyến thuộc ở nơi nào,
Dầu sa ác thú cũng ra mau,
Nếu được không lui lòng kính ngưỡng,
Thánh ký, Bồ tát vuốt đầu trao.

- Bồ đề vô thượng muốn tu hành,
Mong ra ba cõi khỏi tử sanh,
Người này đã phát lòng bi lớn
Trước nên chiêm lễ Đại Sỹ hình.
Nghe tên quy y đấng trọng lành,
Cúng dường cung kính phát lòng thành,
Nghiệp chướng chẳng hề ngăn chướng đặng
Bao nhiêu mong ước sớm viên thành.

- Có kẻ phát tâm tụng kinh sách
Muốn độ chúng sanh khỏi tai ách
Dầu lập nguyện lớn chẳng nghĩ bàn
Đọc rồi quên rồi luôn sót mất.
Người này nghiệp chướng nó làm mê
Học Đại thừa kinh khó mọi bề
Y phục, uống ăn, các ngọa cụ,
Cúng dường Địa Tạng với hương hoa.
Dùng chén nước trong bày trước tượng,
Cách một ngày đêm bưng lấy uống,
Sanh lòng ân trọng cữ ngũ tân
Rượu thịt, tà dâm cùng dối luống.
Trong hăm mốt ngày chớ sát sanh,
Chuyên lòng tưởng niệm Thượng Nhơn danh,
Chiêm bao thấy rõ Tôn dung hiện,
Thức rồi, liền đặng trí khôn lanh.
Đại Thừa kinh giáo nghe qua tai,
Nghìn vạn đời sau nhớ chẳng sai,
Chính nhờ Đại Sỹ oai thần lớn
Thầm giúp người kia có huệ tài.

- Chúng sanh nghèo khổ lại ốm đau,
Cửa nhà họa hoạn, người lìa nhau
Ngủ mê mộng mị không an giấc,
Cầu muốn hỏng hư chẳng được nào!
Dốc lòng chiêm lễ Địa Tạng Ngài,
Bao nhiêu việc ác thảy tiêu ngay
Nhẫn đến chiêm bao đều an cả,
Quỷ Thần phò hộ, của dư xài.

- Muốn qua sông biển, đến núi rừng,
Cầm thú độc nguy, giặc đón đường,
Ác Thần, ác Quỷ, mưa gió dữ,
Nhiều nỗi gian nan khốn không lường,
Sắp sửa ra đi đối trước tượng
Cùng dường kính lễ cùng chiêm ngưỡng.
Núi rừng biển cả có vào trong
Ác tai tiêu sạch thường an sướng.

- Quán Âm lóng nghe ta nói rõ
Địa Tạng Vô lượng oai thần đó,
Trăm nghìn muôn kiếp thuật chẳng rồi,
Rộng tuyên Đại Sỹ đầy sức nọ!

- Như người nghe đến Địa Tạng danh,
Thấy hình chiêm lễ hết lòng thành,
Hương hoa, ăn uống, dâng y phục,
Trăm nghìn báo đẹp hưởng điều lành.

- Nếu hay đem công hồi pháp giới,
Rốt ráo thành Phật, sanh tử khỏi,
Quán Âm nên biết gắng tuyên bày,
Tuyền khắp Hằng sa nhiều nước cõi!

---------------------------------------------------------------

(19) Năm tướng suy hao: khi một vị trời nào số thọ đã mãn, thì trước khi chết có năm tướng này hiện ra:
1. Hoa trên mão khô héo
2. Mất hào quang nơi thân
3. Mình rịn chất hôi
4. Ở không an
5. Quyến thuộc nhàm lánh

Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện - Phẩm Thứ Mười Một

ĐỊA THẦN HỘ PHÁP
Lúc đó vị Kiên Lao Địa Thần bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Từ trước đến nay, con từng chiêm ngưỡng đảnh lễ vô lượng vị đại Bồ tát, đều là những bực trí huệ thần thông lớn không thể nghĩ bàn độ khắp mọi loài chúng sanh.
Ngài Địa Tạng Bồ tát đây so với các vị Bồ tát, chỗ thệ nguyện rất là sâu rộng.
Bạch đức Thế Tôn! Ngài Địa Tạng Bồ tát đây có nhơn duyên lớn với chúng sanh trong Diêm Phù Đề.
Như Ngài Văn Thù, Ngài Phổ Hiền, Ngài Quan Âm, Ngài Di Lặc cũng hóa hiện trăm nghìn thân hình để hóa độ chúng sanh trong sáu đường, nhưng chỗ phát nguyện của các ngài còn có lúc hoàn mãn.
Ngài Địa Tạng Bồ tát đây phát thệ nguyện giáo hóa tất cả chúng sanh trong sáu đường trải đến kiếp số như số cát trong trăm nghìn ức sông Hằng.
Bạch đức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh ở hiện tại nay và về vị lai sau, nơi chỗ sạch sẽ ở phương nam trong cuộc đất của mình ở, dùng đất đá tre gỗ mà dựng cất cái khám cái thất.
Trong đó có thể họa vẽ, cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt đúc nắn hình tượng Địa Tạng Bồ tát, đốt hương cúng dường, chiêm lễ ngợi khen, thời chỗ người đó ở được mười điều lợi ích.
Những gì là mười điều?
Một là đất cát tốt màu,
Hai là nhà cửa an ổn mãi mãi,
Ba là người chết được sanh lên cõi trời,
Bốn là những người hiện còn hưởng sự lợi ích,
Năm là cầu chi cũng toại ý cả.
Sáu là không có tai họa về nước và lửa,
Bảy là trừ sạch việc hư hao,
Tám là dứt hẳn ác mộng,
Chín là khi ra lúc vào có thần theo hộ vệ,
Mười là thường gặp bậc Thánh Nhơn.
Bạch đức Thế Tôn! Chúng sanh trong đời sau cùng hiện tại nay, nếu ở nơi phần đất của mình cư trụ mà có thể làm ra sự cúng dường Ngài Địa Tạng như thế, thời được sự lợi ích như vậy.”
Vị Kiên Lao Địa Thần lại bạch với đức Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Trong đời sau này, như có người thiện nam kẻ thiện nữ nào ở trong chỗ của mình cư trụ mà có kinh điển này cùng hình tượng của đức Địa Tạng Bồ tát, người đó lại có thể đọc tụng kinh điển này và cúng dường hình tượng Bồ tát.
Thời con dùng thần lực của con thường hộ vệ người đó, cho đến tất cả sự tai họa như nước, lửa, trộm, cướp, nạn lớn, nạn nhỏ v.v… thảy đều tiêu sạch.”
Đức Phật bảo Kiên Lao Địa Thần rằng: “Thần lực rộng lớn của ông, các thần khác ít ai bằng.
Vì cớ sao? Vì đất đai trong cõi Diêm Phù Đề đều nhờ ông hộ trợ, cho đến cỏ cây, cát đá, lúa mè, tre lau, gạo thóc, của báu, tất cả những thứ từ đất mà có ra đều nhờ nơi sức thần của ông cả.
Nay ông lại tuyên bài những sự lợi ích của ngài Địa Tạng Bồ tát, thời công đức và thần thông của ông lại càng thêm trăm nghìn lần trội hơn lúc thường.
Này Địa Thần! Trong đời sau như có kẻ thiện nam người thiện nữ nào cúng dường Địa Tạng Bồ tát cùng đọc tụng kinh điển này, chỉ có thể tu hành theo một việc mà trong kinh “Địa Tạng Bồ tát Bổn Nguyện” đã dạy.
Thời ông nên dùng thần lực của ông mà ủng hộ người đó, chớ để tất cả sự tai hại cùng sự không vừa ý đến nghe nơi tai, huống nữa là để cho phải chịu.
Chẳng phải chỉ riêng mình ông hộ trì người đó, cũng có hàng quyến thuộc của Phạm Vương, Đế Thích, quyến thuộc của chư Thiên ủng hộ người đó.
Tại sao lại đặng các vị Hiền Thánh ủng hộ như thế?
Đều do vì những người ấy chiêm lễ hình tượng của Địa Tạng Bồ tát và đọc tụng kinh “Bổn Nguyện” này, tự nhiên được rốt ráo xa lìa biển khổ chứng đạo Niết Bàn an vui, vì thế nên đặng ủng hộ một cách lớn lao như thế.”

Wednesday, October 15, 2014

Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện - Phẩm Thứ Mười

SO SÁNH NHƠN DUYÊN CÔNG ĐỨC CỦA SỰ BỐ THÍ
Lúc đó Ngài Địa Tạng Bồ tát Ma ha tát nương oai thần của đức Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chắp tay bạch cùng Đức Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Con xem xét chúng sanh trong nghiệp đạo so sánh về sự bố thí có nhẹ có nặng. Có người hưởng phước trong một đời. Có người hưởng phước trong mười đời, hoặc đến hưởng phước lợi lớn trong trăm đời, nghìn đời. Những sự ấy tại làm sao thế? Cúi xin đức Thế Tôn dạy cho.”
Bấy giờ Đức Phật bảo ngài Địa Tạng Bồ tát rằng: “Nay ta ở trong toàn thể chúng hội nơi cung trời Đao Lợi này, giảng về sự so sánh công đức khinh trọng của việc bố thí ở Diêm Phù Đề. Ông phải lóng nghe, Ta sẽ vì ông mà nói!”
Ngài Địa Tạng Bồ tát bạch cùng Đức Phật rằng: “Chính con nghi ngờ về việc ấy. Con xin ưa muốn nghe.”
Đức Phật bảo Ngài Địa Tạng Bồ tát rằng: “Trong cõi Nam Diêm Phù Đề có các vị Quốc Vương, hàng Tể Phụ quan chức lớn, hàng đại Trưởng Giả, hàng đại Sát Đế Lợi, hàng đại Bà La Môn v.v…
Nếu gặp kẻ hết sức nghèo túng, nhẫn đến kẻ tật nguyền câm ngọng, kẻ điếc ngây mù quáng, gặp những hạng người thân thể không được vẹn toàn như thế.
Lúc các vị Quốc Vương đó v.v… muốn bố thí, nếu có thể đủ tâm từ bi lớn, lại có lòng vui vẻ tự hạ mình, tự tay mình đem của ra bố thí cho tất cả những kẻ đó, hoặc bảo người khác đem cho, lại dùng lời ôn hòa dịu dàng an ủi.
Các vị Quốc Vương, Đại Thần đó v.v… đặng phước lợi bằng phước lợi công đức cúng dường cho một trăm Hằng hà sa chư Phật vậy.
Tại làm sao? Chính bởi vị Quốc Vương đó v.v… phát tâm đại từ bi đối với kẻ rất mực nghèo cùng và với những người tàn tật kia, cho nên phước lành được hưởng quả báo như thế này, trong tăm nghìn đời thường được đầy đủ những đồ thất bảo, huống là những thứ để thọ dùng như y phục, đồ uống ăn v.v…
Lại vầy nữa, này Địa Tạng Bồ tát! Trong đời sau, như có vị Quốc Vương cho đến hàng Bà La Môn v.v… gặp chùa tháp thờ Phật, hoặc hình tượng Phật, cho đến hình tượng Bồ tát, Thanh Văn hay Bích Chi Phật, đích thân tự sửa sang, cúng dường bố thí.
Vị Quốc Vương đó, sẽ đặng trong ba kiếp làm vị trời Đế Thích hưởng sự vui sướng tốt lạ.
Nếu có thể đem phước lành bố thí đó mà hồi hướng cho tất cả chúng sanh trong pháp giới, thời vị Quốc Vương đó, trong mười kiếp thường được làm vị trời Đại Phạm Thiên Vương.
Lại thế này nữa, này Địa Tạng Bồ tát! Trong đời sau, nếu có vị Quốc Vương cho đến hàng Bà La Môn v.v… gặp chùa tháp của đức Phật thuở trước, hoặc là kinh điển hay hình tượng bị hư sụp rách rã, liền có thể phát tâm tu bổ lại.
Vị Quốc Vương đó, hoặc tự mình đích thân lo sửa sang, hoặc khuyến hóa người khác cho đến khuyến hóa trăm nghìn người khác cùng chung bố thí cúng dường để kết duyên lành.
Vị Quốc Vương đó, trong trăm nghìn đời thường làm vua Chuyển Luân, còn những người khác chung cùng làm việc bố thí đó, trong trăm nghìn đời thường làm vua nước nhỏ.
Nếu lại ở trước chùa tháp có thể phát tâm đem công đức cúng dường bố thí đó mà hồi hướng về đạo vô thượng chánh giác, được như vậy thời vị Quốc Vương đó cho đến tất cả mọi người đều thành Phật cả, bởi quả báo ấy rộng lớn vô lượng vô biên.
Lại vầy nữa, này Địa Tạng Bồ tát! Trong đời sau như có vị Quốc Vương hay hàng Bà La Môn, gặp những người già yếu tật bịnh và kẻ phụ nữ sanh đẻ, nếu trong khoảng chừng một niệm sanh lòng từ lớn, đem thuốc men, cơm nước, giường chiếu bố thí, làm cho những kẻ ấy được an vui.
Phước đức đó rất không thể nghĩ bàn đến được, trong một trăm kiếp thường làm Vua Trời Tịnh Cư, trong hai trăm kiếp thường làm Vua sáu từng trời cõi Dục, không bao giờ còn đọa vào ác đạo, cho đến trong trăm nghìn đời, lỗ tai không hề nghe đến tiếng khổ, rốt ráo sẽ thành Phật đạo.
Lại vầy nữa, này Địa Tạng Bồ tát! Trong đời sau như có vị Quốc Vương và Bà La Môn, có thể làm những việc bố thí như thế sẽ đặng vô lượng phước lành.
Nếu lại có thể đem phước đức đó hồi hướng đạo Bồ Đề, thời không luận là nhiều hay ít, rốt ráo sẽ thành Phật cả, huống gì là những quả trời Phạm Vương, trời Đế Thích, Vua Chuyển Luân.
Này Địa Tạng Bồ tát, vì thế nên khuyến hóa tất cả chúng sanh đều phải học theo như thế.
Lại vầy nữa, này Địa Tạng Bồ tát! Trong đời sau, như có thiện nam kẻ thiện nữ nào ở trong Phật pháp mà gieo trồng chút ít cội phước lành chừng bằng cái lông, sợi tóc, hột cát, mảy bụi, phước lợi của những người đó sẽ hưởng thọ không thể ví dụ thế nào cho được.
Lại vầy nữa, này Địa Tạng Bồ tát? Trong đời sau, như có kẻ thiện nam cùng người thiện nữ nào gặp hình tượng Phật, hình tượng Bồ tát, hình tượng Bích Chi Phật, hình tượng vua Chuyển Luân mà bố thí cúng dường, thời đặng vô lượng phước lành, thường sanh ở cõi người, cõi trời hưởng sự vui thù thắng vi diệu.
Như có thể đem công đức hồi hướng cho cả pháp giới chúng sanh thời phước lợi của người ấy không thể ví dụ thế nào cho được.
Lại vầy nữa, này Địa Tạng Bồ tát! Trong đời sau, như có kẻ thiện nam người thiện nữ nào gặp kinh điển Đại thừa hoặc nghe thấy một bài kệ một câu kinh, rồi phát tâm ân cần trân trọng cung kính ngợi khen, bố thí cúng dường, người ấy được quả báo lớn vô lượng vô biên.
Nếu có thể đem phước đức hồi hướng cho khắp pháp giới chúng sanh thời phước lợi này không thể ví dụ thế nào cho được.
Lại vầy nữa, này Địa Tạng Bồ tát! Trong đời sau, như có kẻ thiện nam người thiện nữ nào gặp chùa pháp và kinh điển Đại thừa, nếu là kinh tháp mới thời bố thí cúng dường, chiêm ngưỡng lễ lạy ngợi khen chắp tay cung kính.
Nếu gặp kinh tháp cũ, hoặc hư rách thời sửa sang tu bổ, hoặc riêng mình phát tâm làm, hoặc khuyến người khác cùng đồng phát tâm.
Những người đồng phát tâm đây, trong ba mươi đời thường làm vua các nước nhỏ. Còn vị đàn việt chánh đó thường làm vua Chuyển Luân, lại dùng pháp lành mà giáo hóa vua các nước nhỏ.
Lại vầy nữa Địa Tạng Bồ tát! Trong đời sau như có người thiện nam kẻ thiện nữ nào ở nơi cội phước lành đã gieo trồng trong Phật pháp, hoặc là bố thí cúng dường, hoặc là tu bổ chùa tháp, hoặc sửa sang kinh điển, cho đến chừng bằng một sợi lông, một mảy bụi, một hột cát, một giọt nước.
Những sự lành như thế không luận nhiều ít, chỉ có thể đem hồi hướng cho khắp pháp giới chúng sanh, thời công đức của người đó trong nghìn đời thường hưởng thọ sự vui thượng diệu.
Còn như chỉ hồi hướng cho thân quyến trong nhà hoặc tự mình được lợi ích thôi, như thế thời sẽ hưởng quả vui trong ba đời, cứ làm một phần sự lành, thời được hưởng báo tốt một muôn phần trội hơn.
Này Địa Tạng Bồ tát! Những nhơn duyên công đức về sự bố thí như thế đó.”

Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện - Quyển Trung Hết

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
QUYỂN TRUNG HẾT
Bổn hạnh Địa Tạng,
Thệ nguyện rộng sâu,
Gậy vàng châu sáng độ chúng sanh,
Địa ngục khổ không ngằn,
Tinh tấn kiền thành,
Khỏi mắc khổ trầm luân.
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Pháp. (3 lần)
Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)

Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện - Phẩm Thứ Chín

XƯNG DANH HIỆU CHƯ PHẬT
Lúc đó Ngài Địa Tạng Bồ tát bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay con vì chúng sanh trong đời sau mà phô bày sự lợi ích, làm cho trong vòng sanh tử đặng nhiều lợi ích lớn. Cúi xin đức Thế Tôn cho phép con nói đó.”
Đức Phật bảo Ngài Địa Tạng Bồ tát rằng: “Nay ông muốn khởi lòng từ bi cứu vớt tất cả chúng sanh mắc phải tội khổ trong sáu đường, mà diễn nói sự chẳng thể nghĩ bàn, bây giờ chính đã phải lúc, vậy ông nên nói ngay đi.
Giả sử ông có thể sớm làm xong nguyện đó, Ta dầu có vào Niết bàn cũng không còn phải lo ngại gì đến tất cả chúng sanh ở hiện tại và vị lai nữa.”
Ngài Địa Tạng bạch cùng Đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Vô lượng vô số kiếp về thuở quá khứ, có Đức Phật ra đời hiệu là Vô Biên Thân Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe danh hiệu của đức Phật đây mà tạm thời sanh lòng cung kính, liền đặng siêu việt tội nặng sanh tử trong bốn mươi kiếp, huống là vẻ đắp hình tượng cúng dường tán thán! Người này được vô lượng vô biên phước lợi.
Lại hằng hà sa kiếp về thuở quá khứ, có Đức Phật ra đời hiệu là Bửu Thắng Như Lai. Như có người nam người nữ nào được nghe danh hiệu của Đức Phật đây, phát tâm quy y với Phật trong khoảng khảy móng tay, người này trọn hẳn không còn thối chuyển nơi đạo vô thượng chánh giác.
Lại về thuở quá khứ, có Đức Phật ra đời hiệu là Ba Đầu Ma Thắng Như Lai. Như có người nam người nữ nào, nghe đến danh hiệu của Đức Phật đây thoát qua lỗ tai, người này sẽ được một nghìn lần sanh lên sáu từng trời cõi dục, huống nữa là chí tâm xưng niệm!
Lại bất khả thuyết bất khả thuyết vô số kiếp về thuở quá khứ có đức Phật ra đời hiệu là Sư Tử Hống Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của đức Phật đây, mà phát tâm quy y chừng trong một niệm, người này sẽ đặng gặp vô lượng các đức Phật xoa đảnh thọ ký cho.
Lại về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Câu Lưu Tôn Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của đức Phật đây, chí tâm chiêm ngưỡng lễ bái, hoặc lại tán thán, người này nơi pháp hội của một nghìn đức Phật trong hiền kiếp làm vị đại Phạm Vương, đặng Phật thọ ký đạo vô thượng cho.
Lại trở về thuở quá khứ có đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai. Như có người nam người nữ nào được nghe danh hiệu của đức Phật đây, thời mãi không còn sa đọa vào chốn ác đạo, thường được sanh vào chốn trời người, hưởng lấy sự vui thù thắng vi diệu.
Lại vô lượng vô số hằng hà sa kiếp về thuở quá khứ có đức Phật ra đời hiệu là Đa Bửu Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của đức Phật đây, liền khỏi đọa vào ác đạo, thường ở tại cung trời hưởng sự vui thù thắng vi diệu.
Lại về thuở quá có đức Phật ra đời hiệu Bửu Tướng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của đức Phật đây, sanh lòng cung kính, không bao lâu người ấy sẽ đặng quả A La Hán.
Lại vô lượng vô số kiếp về thuở quá khứ có đức Phật ra đời hiệu là Ca Sa Tràng Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của đức Phật đây, thời người này sẽ siêu thoát tội sanh tử trong một trăm đại kiếp.
Lại về thuở quá khứ có đức Phật ra đời hiệu là Đại Thông Sơn Vương Như Lai. Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của đức Phật đây, thời người này đặng gặp hằng hà chư Phật nói nhiều pháp màu cho, đều đặng thành đạo Bồ Đề.
Lại về thuở quá khứ, có đức Tịnh Nguyệt Phật, đức Sơn Vương Phật, đức Trí Thắng Phật, đức Tịnh Danh Vương Phật, đức Trí Thành Tựu Phật, đức Vô Thượng Phật, đức Diệu Thinh Phật, đức Mãn Nguyệt Phật, đức Nguyệt Diện Phật có bất khả thuyết đức Phật Thế Tôn như thế. Tất cả chúng sanh trong thời hiện tại cùng thuở vị lai: hoặc là Trời, hoặc là người, hoặc là người nam, hoặc người nữ chỉ niệm được danh hiệu của một đức Phật thôi, sẽ được vô lượng công đức, huống nữa là niệm được nhiều danh hiệu. Những chúng sanh đó lúc sanh lúc tử đặng nhiều phước lợi, không còn phải đọa vào ác đạo nữa.
Như có người nào sắp mạng chung, hàng thân quyến trong nhà nhẫn đến một người vì người bịnh sắp chết đó mà niệm lớn danh hiệu của một đức Phật, thời người chết đó, trừ năm tội lớn vô gián, các nghiệp báo khác đều tiêu sạch cả.
Năm tội lớn vô gián kia dầu rất nặng nề đáng lẽ trải qua ức kiếp hẳn không ra khỏi đặng quả khổ, nhưng bởi lúc lâm chung, nhờ người khác vì đó mà xưng niệm danh hiệu của Phật cho nên những tội nặng đó cũng lần lần tiêu sạch.
Huống là chúng sanh tự mình xưng danh hiệu của chư Phật, người này đặng vô lượng phước lành, trừ diệt vô lượng khổ.”

Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện - Phẩm Thứ Tám

CÁC VUA DIÊM LA KHEN NGỢI
1/ DIÊM LA VƯƠNG CÙNG QUỶ VƯƠNG VÂN TẬP.
Lúc đó trong dãy núi Thiết Vi có vô lượng Quỷ vương cùng với Vua Diêm La đồng lên cung trời Đao Lợi đến chỗ của Đức Phật.
Các vị Quỷ vương đó tên là: Ác Độc Quỷ vương, Đa Ác Quỷ vương, Đại Tránh Quỷ vương, Bạch Hổ Quỷ vương, Huyết Hổ Quỷ vương, Xích Hổ Quỷ vương, Tán Ương Quỷ vương, Phi Thân Quỷ vương, Điển Quang Quỷ vương, Lang Nha Quỷ vương, Đạm Thú Quỷ vương, Phụ Trạch Quỷ vương, Chủ Hao Quỷ vương, Chủ Họa Quỷ vương, Chủ Phước Quỷ vương, Chủ Thực Quỷ vương, Chủ Tài Quỷ vương, Chủ Súc Quỷ vương, Chủ Cầm Quỷ vương, Chủ Thú Quỷ vương, Chủ Mị Quỷ vương, Chủ Sản Quỷ vương, Chủ Mạng Quỷ vương, Chủ Tật Quỷ vương, Chủ Hiểm Quỷ vương, Tam Mục Quỷ vương, Tứ Mục Quỷ vương, Ngũ Mục Quỷ vương, Kỳ Lợi Thất Vương, Đại Kỳ Lợi Thất Vương, Kỳ Lợi Xoa Vương, Đại Kỳ Lợi Xoa Vương, A Na Tra Vương, Đại A Na Tra Vương.
Những vị Đại Quỷ Vương như thế v.v… mỗi vị cùng với trăm nghìn Tiểu Quỷ Vương, cả thảy ở trong cõi Diêm Phù Đề, đều có chức trách, đều có phần chủ trị.
Các vị Quỷ Vương đó cùng với Vua Diêm La nương sức oai thần của Đức Phật và oai lực của Ngài Địa Tạng Đại Bồ tát, đồng lên đến cung trời Đao Lợi đứng qua một phía.

2/ VUA DIÊM LA BẠCH PHẬT.
Bấy giờ Vua Diêm La quỳ gối chắp tay bạch cùng đức Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Nay chúng con cùng các vị Quỷ Vương nương sức oai thần của đức Phật và oai lực của Ngài Địa Tạng Bồ tát mới được lên đến đại hội nơi cung trời Đao Lợi này, mà cũng là vì chúng con đặng phước lành vậy. Nay chúng con có chút việc nghi ngờ, dám bạch hỏi đức Thế Tôn cúi xin đức Thế Tôn từ bi vì chúng con mà chỉ dạy cho.”
Đức Phật bảo Vua Diêm La rằng: “Cho phép ông hỏi, Ta sẽ vì ông mà dạy rõ.”
Bấy giờ, Vua Diêm La chiêm ngưỡng đảnh lễ đức Thế Tôn và ngó ngoái lại Ngài Địa Tạng Bồ tát, rồi bạch cùng đức Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Con xem xét Ngài Địa Tạng Bồ tát ở trong sáu đường dùng trăm nghìn phương chước để cứu độ những chúng sanh mắc phải tội khổ, Ngài không từ mệt nhọc.
Ngài Địa Tạng Bồ tát đây có những sự thần thông không thể nghĩ bàn được như thế, nhưng sao hàng chúng sanh vừa đặng thoát khỏi tội báo, không bao lâu lại phải bị đọa vào ác đạo nữa?
Bạch đức Thế Tôn! Ngài Địa Tạng Bồ tát đã có thần lực chẳng thể nghĩ bàn như thế, nhưng tại vì cớ sao hàng chúng sanh chẳng chịu nương về đường lành để được giải thoát mãi mãi? Cúi xin đức Thế Tôn dạy rõ việc đó cho chúng con.”

3/ PHẬT GIẢNG SỞ NHƠN.
Đức Phật bảo Vua Diêm La rằng: “Chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Đề tánh tình cứng cỏi khó dạy khó sửa. Ngài Địa Tạng đại Bồ tát đây trong trăm nghìn kiếp đã từng cứu vớt những chúng sanh đó làm cho sớm được giải thoát.”
Những người bị tội báo cho đến bị đọa vào đường ác lớn, Ngài Địa Tạng Bồ tát dùng sức phương tiện nhổ sạch cội gốc nghiệp duyên, mà làm cho chúng sanh đó nhớ biết những công việc ở đời trước.
Tại vì chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề kết nghiệp dữ, phạm tội nặng, nên vừa ra khỏi ác đạo, rồi trở vào lại, làm nhọc cho ngài Địa Tạng Bồ tát phải trải qua nhiều số kiếp lo lắng để cứu độ chúng nó.
Ví như có người quên mất nhà mình, đi lạc vào con đường hiểm, trong con đường hiểm đó có rất nhiều thứ Quỷ Dạ Xoa, cùng hùm sói, sư tử, rắn độc, bò cạp.
Người quên đường đó ở trong đường hiểm chừng giây lát nữa sẽ bị hại.
Có một vị tri thức hiểu nhiều Pháp thuật lạ, có thể trừ sự độc hại đó, cho đến có thể trừ quỷ Dạ Xoa, các loài rắn độc v.v… chợt gặp người quên lạc đường kia đương muốn đi thẳng vào con đường hiểm nạn, bèn vội bảo rằng:
“Ô hay! Này ông kia! Có duyên sự gì mà vào con đường hiểm nạn này? Ông có pháp thuật lạ gì có thể ngăn trừ các sự độc hại chăng?”
Người lạc đường đó, bỗng nghe lời hỏi trên mới rõ là đường hiểm nạn, bèn liền lui trở lại muốn ra khỏi đường hiểm nạn đó.
Vị thiện tri thức ấy nắm tay dìu dắt, dẫn người lạc lối đó ra ngoài đường hiểm nạn, khỏi các sự độc hại đến nơi con đường tốt, làm cho được an ổn rồi bảo rằng:
“Này người lạc đường! Từ nay về sau chớ có đi vào con đường hiểm nạn đó nữa, ai mà vào con đường hiểm đó, ắt khó ra khỏi đặng, lại còn bị tổn tánh mạng.”
Người lạc đường đó cũng sanh lòng cảm trọng. Lúc từ biệt nhau, vị thiện tri thức lại dặn thêm:
“Nếu ông có gặp kẻ quen người thân cùng những người đi đường hoặc trai hay gái, thời ông bảo cho họ biết con đường đó có rất nhiều sự độc hại, vào đó ắt phải tổn tánh mạng, chớ để cho những người ấy tự vào chỗ chết!”
Vì thế nên ngài Địa Tạng Bồ tát đủ đức từ bi lớn, cứu vớt chúng sanh mắc tội khổ muốn cho chúng nó sanh lên cõi trời cõi người để hưởng lấy sự vui sướng tốt đẹp.
Những chúng sanh tội khổ đó rõ biết sự khốn khổ trong con đường ác nghiệp rồi, khi đã được ra khỏi, chẳng còn trở vào nữa.
Như người quên đường kia lạc vào đường hiểm, gặp vị thiện tri thức dẫn dắt cho ra khỏi không bao giờ còn lạc vào nữa.
Gặp gỡ người khác lại bảo chớ vào đường ấy, tự nói rằng mình là quên đường nên đi lạc vào đó, nay đặng thoát khỏi rồi, trọn hẳn không còn trở vào đường đó nữa.
Nếu còn đi vào đường ấy nữa, thời là còn mê lầm không biết đó là con đường hiểm nạn mà mình đã từng sa lạc rồi, hoặc đến nỗi phải mất mạng.
Như chúng sanh bị đọa vào chốn ác đạo, Ngài Địa Tạng Bồ tát dùng sức phương tiện cứu vớt cho được thoát khỏi, sanh vào cõi trời, rồi cũng vẫn trở vào ác đạo nữa.
Nếu chúng sanh đó kết nghiệp ác quá nặng, thời ở mãi chốn địa ngục không lúc nào được thoát khỏi.

4/ QUỶ  VƯƠNG BÀY THIỆN NGUYỆN.
Bấy giờ Ác Độc Quỷ Vương chắp tay cung kính bạch cùng đức Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Chúng con là hàng Quỷ Vương số đông vô lượng, ở trong cõi Diêm Phù Đề, hoặc có vị làm lợi ích cho người, hoặc có vị làm tổn hại cho người mỗi mỗi đều không đồng nhau. Nhưng vì nghiệp báo khiến quyến thuộc chúng con đi qua thế giới, ác nhiều lành ít. Đi qua sân nhà người, hoặc thành ấp, xóm làng, trại vườn, buồng nhà, trong đó như có người trai, kẻ gái nào tu được chút phước lành bằng mảy lông sợi tóc, cho đến treo một lá phan, một bảo cái, chút hương, chút hoa cúng dường tượng Phật cùng tượng Bồ tát, hoặc đọc tụng Tôn kinh, đốt hương cúng dường một bài kệ một câu kinh v.v…
Hàng Quỷ Vương chúng con cung kính làm lễ người đó như kính lễ các đức Phật thuở quá khứ, đương hiện tại cùng lúc vị lai.
Chúng con truyền các hàng Tiểu Quỷ có oai lực lớn, và kẻ có phần chức trách về cuộc đất đai đó, đều phải hộ trợ giữ gìn, còn chẳng cho việc dữ cùng sự tai nạn bất kỳ, bịnh tật hiểm nghèo thình lình, cho đến những việc không vừa ý đến gần chỗ của các nhà đó, huống là để vào cửa!”
Đức Phật khen Quỷ Vương rằng: “Hay thay! Hay thay! Các ông cùng với Vua Diêm La có thể ủng hộ kẻ thiện nam người thiện nữ như thế! Ta cũng truyền cho các vị trời Phạm Vương, Đế Thích hộ vệ các ông.”

5/ CHỦ MẠNG TRÌNH THƯA.
Khi đức Phật nói lời ấy xong, trong pháp hội có một vị Quỷ Vương tên là Chủ Mạng bạch cùng đức Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Bổn nghiệp duyên của con là cai quản về tuổi thọ của người trong cõi Diêm Phù Đề, khi sanh khi tử con đều coi biết đó, cứ theo nơi bổn nguyện của con thời có lợi ích rất lớn cho mọi người.
Nhưng tại vì chúng sanh không hiểu ý của con nên đến đỗi khi sanh khi tử đều không được an ổn. Tại làm sao thế?”

6/ KHI SANH NỞ NÊN LÀM LÀNH KIÊNG ÁC.
Người trong cõi Diêm Phù Đề lúc mới sanh, không luận là con trai hay con gái, khi sắp sanh ra chỉ nên làm việc phước lành thêm sự lợi ích cho nhà cửa, thời Thổ Địa vui mừng không xiết, ủng hộ cả mẹ lẫn con đều đặng nhiều sự an vui, hàng thân quyến cũng được phước lợi.
Hoặc khi đã hạ sanh rồi, nên cẩn thận chớ có giết hại sanh vật để lấy những vị tươi ngon cung cấp cho người sản mẫu ăn, cùng nhóm họp cả hàng quyến thuộc lại để uống rượu, ăn thịt, ca xang, đờn sáo, nếu làm những việc trên đó có thể làm cho người mẹ đứa con chẳng đặng an vui.
Vì sao thế? Vì lúc sanh sản nguy hiểm đó có vô số loài quỷ dữ cùng ma quái tinh mị muốn ăn huyết tanh.
Nhờ có con sớm đã sai các vị Thần Linh xá trạch Thổ Địa, bảo hộ mẹ con người ấy, làm cho được an vui mà đặng nhiều lợi ích.
Người ấy thấy mình được an ổn, thời đáng lẽ nên làm việc phước lành để đền đáp công ơn Thổ Địa, mà trái lại giết hại loài sanh vật, hội họp thân quyến, vì lẽ này, đã phạm tội lỗi tất phải tự thọ lấy tai vạ, mẹ con đều tổn.

7/  LÚC CHẾT NÊN TU PHƯỚC.
Lại người trong cõi Diêm Phù Đề đến lúc mạng chung, không luận là người lành hay kẻ dữ, con cũng đều muốn cho họ không bị đọa lạc vào chốn ác đạo.
Huống gì là người lúc sanh tiền biết tu đạo cội phước lành giúp thêm oai lực cho con.
Trong cõi Diêm Phù Đề, những người làm lành đến lúc mạng chung cũng còn có trăm nghìn quỷ thần ác đạo hoặc biến ra hình cha mẹ, nhẫn đến hóa làm người thân quyến dắt dẫn thần hồn người chết làm cho đọa lạc vào chốn ác đạo, huống chi là những kẻ lúc sanh tiền đã sẵn tạo nghiệp ác.
Bạch đức Thế Tôn! Những kẻ nam tử nữ nhơn ở cõi Diêm Phù Đề, lúc lâm chung thời thần thức hôn mê không biện được lẽ lành điều dữ, cho đến mắt cùng tai không còn thấy nghe gì hết.
Hàng thân quyến của người lâm chung đó, nên phải sắm sửa làm sự cúng dường lớn, tụng đọc Tôn kinh, niệm danh hiệu của Phật và Bồ tát, tu tạo nhơn duyên phúc lành như thế, có thể cho người chết thoát khỏi chốn ác đạo, các thứ ma, quỷ, ác thần thảy đều phải lui tan cả hết.
“Bạch đức Thế Tôn! Tất cả chúng sanh lúc lâm chung nếu đặng nghe danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một Bồ tát, hoặc nghe một câu một bài kệ kinh điển Đại thừa, con xem xét thấy hạng người ấy, trừ năm tội Vô Gián cùng tội sát hại, những nghiệp ác nho nhỏ đáng lẽ phải sa vào chốn ác đạo, liền đặng thoát khỏi cả.”

8/ ĐỨC PHẬT CĂN DẶN.
Đức Phật bảo Chủ Mạng Quỷ Vương rằng: “Ông vì có lòng đại từ nên có thể phát ra lời nguyện lớn ở trong sanh tử cứu hộ chúng sanh như thế. Như về trong đời sau này, có kẻ nam người nữ nào đến lúc mạng chung, ông chớ quên lãng lời nguyện trên đó, đều nên làm cho giải thoát mãi mãi được an vui.”
Chủ Mạng Quỷ Vương bạch cùng đức Phật rằng: “Xin đức Thế Tôn chớ lo! Trọn đời của con luôn luôn ủng hộ chúng sanh ở cõi Diêm Phù Đề lúc sanh lúc tử đều làm cho được an vui cả. Chỉ trông mong các chúng sanh trong lúc sanh cùng lúc tử, tin theo lời của con đã nói trên thời đều giải thoát đặng lợi ích lớn.”

9/ ĐỨC PHẬT THỌ KÝ CHO CHỦ MẠNG.
Bấy giờ đức Phật bảo Ngài Địa Tạng Bồ tát rằng: “Vị đại Quỷ Vương cai quản về tuổi thọ của mọi người đây đã từng trải qua trăm nghìn đời làm vị Quỷ Vương, ủng hộ chúng sanh trong lúc sanh cùng khi tử. Đó là bực Bồ tát Đại Sỹ vì lòng từ bi phát nguyện hiện thân đại Quỷ, chớ thiệt thời không phải Quỷ.
Quá một trăm bảy mươi kiếp sau, ông đó sẽ được thành Phật hiệu là Vô Tướng Như Lai, kiếp đó tên là An Lạc. Cõi nước tên là Tịnh Trụ, thọ mạng của đức Phật đó đến số kiếp không thể tính đếm được.
Này Địa Tạng Bồ tát! Những sự của vị đại Quỷ Vương đó không thể nghĩ bàn như thế, hàng Trời cùng người được vị ấy độ thoát cũng đến số không thể hạn lượng.”