THÍCH NGHĨA A DI ĐÀ KINH
1. Trong kinh này, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuật nói chánh báo và y báo thù thắng trang nghiêm của Đức Phật A Di Đà.
2. Triều Tấn (Trung Hoa), Diêu Hưng chiếm một phần đất rồi xưng Vương, lấy quốc hiệu là Tần nên gọi là Diêu Tần. Người thông hiểu Tam Tạng Kinh, Luật và Luận, có thể giảng nói để dạy mọi người thì gọi là Tam Tạng Pháp Sư. Ngài Cưu Ma La Thập người xứ Thiên Trúc, qua Trung Hoa dịch kinh chữ Phạn ra chữ Hán, trở thành nhà dịch Kinh có danh tiếng nhất.
3. Trưởng giả Cấp Cô Độc mua khu vườn của Thái tử Kỳ Đà, con vua Ba Tư Nặc, nước Xá Vệ. Thái tử cúng luôn rừng cây trong đó, rồi hai người chung sức nhau dựng tịnh xá để thỉnh Phật cùng chúng Tăng về ở. Do vậy, hiệp cả hai tên của hai người lại để đặt tên chốn ấy nên gọi là "Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên" vậy. Đệ tử của Đức Phật rất đông, không phải chỉ có 1250 người, nhưng vì 1250 vị đại A La Hán này là những vị được Phật độ trước và theo hầu cận bên Phật luôn, nên trong kinh thường ước lược nói số đó.
4. A Dật Đa là tên của Đức Di Lặc Bồ Tát. Càn Đà Ha Đề Bồ Tát là Ngài Bất Hưu Tức Bồ Tát. Thích Đề Hoàn Nhân là tên của Đế Thích, vua cõi trời Đao Lợi.
5. Y báo là chỗ nương ở, nhà cửa, ao vườn… gọi chung là cõi nước. Trong đây y báo là nước Cực Lạc. Chánh báo là quả báo chánh thể, tức là loài người, trời, chim thú… Trong đây chánh báo là Đức Phật A Di Đà cùng Bồ Tát, Thanh Văn…
6. Cõi nước ta đang ở đây gọi là Ta Bà, có không biết bao nhiêu điều khổ lụy, nào tam khổ, bát khổ… Trái lại, bên cõi Cực Lạc chỉ thuần có những điều vui sướng, nào tam lạc, bát lạc.
7. Bốn báu: Vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Trong đây nói bốn báu mà chính là gồm bảy báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu và mã não. Trong Quán Kinh nói: Hoặc có thứ cây thuần bằng vàng, hoặc có thứ cây thuần bằng bạc… hoặc có thứ cây thân vàng lá bạc, nhánh lưu ly… Dù bằng chất thất bửu nhưng vẫn là cây sống, cũng như cây ở đây bằng chất gỗ.
8. Trong đây nói đất là chỉ thuận theo tiếng này mà gọi thế, chớ chính thật cõi Cực Lạc thuần bằng chất vàng. Tuyệt không có thứ đất bùn, cát sỏi. Tám công đức của nước trong ao bên Cực Lạc: trong sạch, nhẹ nhàng, mát mẻ, ngon ngọt, đượm nhuần, êm đềm hòa hoãn, uống vào hết đói khát và bổ khỏe thân tâm.
9. Người nước Cực Lạc đều có Thần túc thông, trong nháy mắt có thể đi qua vô lượng thế giới. Đi kinh hành là đi vòng quanh chậm rãi, vừa đi vừa suy ngẫm, tưởng niệm những pháp lành: Phật, Pháp và Tăng. Đi kinh hành có hai điều lợi ích:
a. Thâu nhiếp tâm tưởng vào chánh niệm, phục trừ tà niệm, loạn tưởng cùng biếng lười, ngủ nghỉ;
b. Điều hòa thân thể, khí huyết lưu thông, tiêu hóa dễ dàng.
10. Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ: Người tu hành có năm đức này thì vững chắc trên đường đạo, như cây có rễ nên gọi là Ngũ căn (năm cội rễ). Nếu tất cả cảnh duyên không thể quấy rối, không làm lay động được, thì năm đức trên gọi là Ngũ lực (năm sức mạnh). Thất Bồ Đề phần cũng gọi là Thất giác chi (bảy chi phần giác ngộ), gồm có: Niệm, Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định, và Xả. Bát chánh đạo phần là: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và Chánh định. Ở trong cõi Ta Bà này, những loài chim đều thuộc vào súc sanh đạo, một ác đạo trong lục đạo, do ác nghiệp tội khiên mà chiêu cảm ra khổ báo ấy. Chim bên Cực Lạc thì khác hẳn, không phải là loài vật do tội báo cảm vời sanh ra, mà do thần lực của Đức Phật A Di Đà biến hóa ra để làm cho pháp âm được lưu chuyển khắp trong nước.
11. Đức Phật ở cõi Cực Lạc vì có ba điều vô lượng: a. Vô lượng quang; b. Vô lượng thọ; c. Vô lượng công đức. Nên Đức Phật ấy có danh hiệu là A Di Đà.
12. A-bệ-bạt-trí (Phạn âm), Hán dịch là "bất thối chuyển", vào bậc này thì một mực đi trên đường Thánh, thẳng đến thành Phật, không còn bị thối lui hoặc bị trụt xuống phàm phu hay Tiểu thừa nữa. Tất cả mọi người được sanh về cõi Cực Lạc đều vào bậc Bất thối cả, trong hàng Bất thối lại có vô số bậc Nhất sanh bổ xứ Bồ Tát (vị Bồ Tát chỉ còn làm Bồ Tát trong một đời hiện tại, mãn đời hiện tại thì sẽ thành Phật, như hiện nay Đức Di Lặc Bồ Tát ở cung trời Đâu Suất là bậc Nhất sanh bổ xứ Bồ Tát vậy). Các bậc Thượng thiện nhân là chỉ các bậc Nhất sanh bổ xứ Bồ Tát.
13. Cõi Cực Lạc thù thắng trang nghiêm, phải có nhiều căn lành, phước đức mới được sanh về đó. Niệm Phật được nhất tâm bất loạn thời là thành tựu căn lành, phước đức rất lớn, đến khi lâm chung, Đức Phật A Di Đà cùng Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát… phóng quang đến rước, quyết định được sanh về cõi Cực Lạc. Niệm Phật không còn mộng tưởng gì khác, không có mảy may thanh sắc gì khác xen vào, vững vàng không xao động, gọi là nhất tâm bất loạn.
14. Người tu Tịnh độ phải có đủ ba điều: Tín (tin Phật), Hạnh (chuyên tâm niệm Phật) và Nguyện (thiết tha muốn được sanh về cõi Cực Lạc). Trong ba điều này, lòng tin đứng trước cả mà cũng là nền tảng của tất cả căn lành, vì thế nên chư Phật ở sáu phương đồng khuyên bảo cho mọi người sanh lòng tin chắc chắn quyết định.
15. Hằng hà sa số là số cát ở sông Hằng. Sông Hằng là con sông lớn bên Ấn Độ, bắt nguồn từ dãy núi Hymalaya, chảy ngang xứ Ấn Độ, đổ vào Ấn Độ Dương. Lòng sông và hai bên bờ có cát rất nhiều và rất mịn. Đương thời Đức Phật thường nói pháp gần bên sông, nên phàm khi muốn chỉ một số lượng rất nhiều thì mượn số cát của sông Hằng mà nói.
16. Tướng lưỡi rộng dài là biểu tượng của sự thành thật. Trong kinh nói người nào chót lưỡi liếm đến đầu mũi, thời người ấy trong ba đời đã qua không hề có một lời nói dối. Lưỡi dài liếm đến đầu mũi còn như thế, huống nữa là rộng dài trùm khắp cả thế giới.
17. Một thái dương hệ là một tiểu thế giới. Một nghìn tiểu thế giới là một tiểu thiên thế giới. Một nghìn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới. Một nghìn trung thiên thế giới là một thế giới trải qua ba lần nhân cho số nghìn, nên gọi là tam thiên đại thiên thế giới [1 Tiểu thế giới x 1000 x 1000 x 1000 = Đại thiên thế giới].
18. Đại thiên thế giới của ta ở đây tên là Ta Bà, dịch là "kham năng nhẫn khổ", ngụ ý rằng trong cõi này có vô lượng sự thống khổ, mà chúng sanh trong đó vẫn cam chịu được.
19. Ngũ trược:
a. Kiếp trược: Kiếp là chỉ cho thời đại, thời gian. Trong thời đại nào mà có các món trược dưới đây thì đấy là thời đại đục nhơ;
b. Kiến trược: Những điều mê chấp, tà kiến, điên đảo;
c. Phiền não trược: Các tâm niệm bất thiện, như: tham, sân, si, mạn, nghi;
d. Chúng sanh trược: Năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) hiệp hội sanh diệt chẳng dừng;
e. Mạng trược: Tuổi thọ rất ngắn, sống nay chết mai, mạng sống trong hơi thở.
Bốn món trên đây tánh cách nhiễu nhương, sai lầm, biến đổi vô thường nên gọi là trược (nhơ đục).
KHỔ Ở CÕI TA BÀ
Tam Khổ:
1. Khổ khổ: mang thân sắc người nặng nề, nhơ uế, sống nay chết mai này đã khổ lắm rồi, mà trên cái khổ đó lại còn chông thêm không biết bao nhiêu là sự khổ khác nữa, như già, bệnh, đói khát, nóng rét v.v…
2. Hoại khổ: Vô thường biến đổi, thân mạng như chỉ mành treo chuông, tang thương xoay chuyển, như sương đầu ngọn cỏ.
3. Hành khổ: Trong mỗi niệm, tâm tưởng, biến chuyển luôn không ngừng.
Bát Khổ:
1. Sanh khổ: Ở trong bào thai tối tăm nhơ uế, lọt lòng khổ trăm bề.
2. Lão khổ: Lụm cụm già nua, mắt mờ, tai điếc, trí lãng, lưng mỏi, gối chùn, mặt nhăn, đầu bạc…
3. Bệnh khổ: Đau rên bứt rứt, nhức nhối xót xa, ngồi nằm không yên, đi đứng không được.
4. Tử khổ: Ngộp mệt, lộn tròng, méo miệng, chuyển xương, gân rút…
5. Cầu bất đắc khổ: Lợi danh không toại, muốn được phước thì lại mang họa, cầu thọ mà yểu vong…
6. Ái biệt ly khổ: Cốt nhục phân tán, sanh ly tử biệt.
7. Oán tắng hội khổ: Oan gia đối đầu, cừu thù gặp gỡ…
8. Ngũ ấm xí thạnh khổ: Thân tâm dời đổi biến diệt, phút phút chẳng dừng, như ngọn lửa phừng phừng không khác…
VUI Ở CÕI CỰC LẠC
Tam lạc:
1. Lạc trung lạc: Thân cùng quốc độ đều thù thắng, thân nhẹ, cõi xinh, ấm no, khang kiện.
2. Bất biến hoại lạc: Thân mạng trường tồn, cõi nước không tiêu diệt.
3. Bất động trí lạc: Định huệ dung thông, chánh trí bất động.
Bát lạc:
1. Sanh lạc: Thác chất liên hoa, thanh tịnh hóa sanh…
2. Vô lão lạc: Mãi mãi trẻ trung, không già không yếu.
3. Vô bệnh lạc: Hằng hằng khang kiện, không bệnh, không đau yếu.
4. Vô tử lạc: Thọ mạng vô cùng, trường sanh bất diệt.
5. Toại nguyện lạc: Tùy ý quả toại, ẩm thực, y phục tự nhiên.
6. Vô ái biệt ly lạc: Bạn lành hải chúng, thân cận không rời…
7. Vô oán tắng hội lạc: Thuần là Thượng thiện nhân, đồng tâm xứng ý.
8. Vô ngũ ấm sanh lạc: Thân tâm thanh tịnh, thường trụ không dời…
Không đâu khổ bằng Ta Bà, không đâu vui bằng Cực Lạc. Vì thế mọi người nên nhàm lìa chốn Ta Bà mà nguyện sanh về chốn Cực Lạc.
***
NAM MÔ HỘ PHÁP TẠNG BỒ TÁT