Sunday, January 24, 2016

Kinh A Di Đà - Thích nghĩa

THÍCH NGHĨA A DI ĐÀ KINH
1. Trong kinh này, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuật nói chánh báo và y báo thù thắng trang nghiêm của Đức Phật A Di Đà.

2. Triều Tấn (Trung Hoa), Diêu Hưng chiếm một phần đất rồi xưng Vương, lấy quốc hiệu là Tần nên gọi là Diêu Tần. Người thông hiểu Tam Tạng Kinh, Luật và Luận, có thể giảng nói để dạy mọi người thì gọi là Tam Tạng Pháp Sư. Ngài Cưu Ma La Thập người xứ Thiên Trúc, qua Trung Hoa dịch kinh chữ Phạn ra chữ Hán, trở thành nhà dịch Kinh có danh tiếng nhất.

3. Trưởng giả Cấp Cô Độc mua khu vườn của Thái tử Kỳ Đà, con vua Ba Tư Nặc, nước Xá Vệ. Thái tử cúng luôn rừng cây trong đó, rồi hai người chung sức nhau dựng tịnh xá để thỉnh Phật cùng chúng Tăng về ở. Do vậy, hiệp cả hai tên của hai người lại để đặt tên chốn ấy nên gọi là "Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên" vậy. Đệ tử của Đức Phật rất đông, không phải chỉ có 1250 người, nhưng vì 1250 vị đại A La Hán này là những vị được Phật độ trước và theo hầu cận bên Phật luôn, nên trong kinh thường ước lược nói số đó.

4. A Dật Đa là tên của Đức Di Lặc Bồ Tát. Càn Đà Ha Đề Bồ Tát là Ngài Bất Hưu Tức Bồ Tát. Thích Đề Hoàn Nhân là tên của Đế Thích, vua cõi trời Đao Lợi.

5. Y báo là chỗ nương ở, nhà cửa, ao vườn… gọi chung là cõi nước. Trong đây y báo là nước Cực Lạc. Chánh báo là quả báo chánh thể, tức là loài người, trời, chim thú… Trong đây chánh báo là Đức Phật A Di Đà cùng Bồ Tát, Thanh Văn…

6. Cõi nước ta đang ở đây gọi là Ta Bà, có không biết bao nhiêu điều khổ lụy, nào tam khổ, bát khổ… Trái lại, bên cõi Cực Lạc chỉ thuần có những điều vui sướng, nào tam lạc, bát lạc.

7. Bốn báu: Vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Trong đây nói bốn báu mà chính là gồm bảy báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu và mã não. Trong Quán Kinh nói: Hoặc có thứ cây thuần bằng vàng, hoặc có thứ cây thuần bằng bạc… hoặc có thứ cây thân vàng lá bạc, nhánh lưu ly… Dù bằng chất thất bửu nhưng vẫn là cây sống, cũng như cây ở đây bằng chất gỗ.

8. Trong đây nói đất là chỉ thuận theo tiếng này mà gọi thế, chớ chính thật cõi Cực Lạc thuần bằng chất vàng. Tuyệt không có thứ đất bùn, cát sỏi. Tám công đức của nước trong ao bên Cực Lạc: trong sạch, nhẹ nhàng, mát mẻ, ngon ngọt, đượm nhuần, êm đềm hòa hoãn, uống vào hết đói khát và bổ khỏe thân tâm.

9. Người nước Cực Lạc đều có Thần túc thông, trong nháy mắt có thể đi qua vô lượng thế giới. Đi kinh hành là đi vòng quanh chậm rãi, vừa đi vừa suy ngẫm, tưởng niệm những pháp lành: Phật, Pháp và Tăng. Đi kinh hành có hai điều lợi ích:
a. Thâu nhiếp tâm tưởng vào chánh niệm, phục trừ tà niệm, loạn tưởng cùng biếng lười, ngủ nghỉ;
b. Điều hòa thân thể, khí huyết lưu thông, tiêu hóa dễ dàng.

10. Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ: Người tu hành có năm đức này thì vững chắc trên đường đạo, như cây có rễ nên gọi là Ngũ căn (năm cội rễ). Nếu tất cả cảnh duyên không thể quấy rối, không làm lay động được, thì năm đức trên gọi là Ngũ lực (năm sức mạnh). Thất Bồ Đề phần cũng gọi là Thất giác chi (bảy chi phần giác ngộ), gồm có: Niệm, Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định, và Xả. Bát chánh đạo phần là: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, và Chánh định. Ở trong cõi Ta Bà này, những loài chim đều thuộc vào súc sanh đạo, một ác đạo trong lục đạo, do ác nghiệp tội khiên mà chiêu cảm ra khổ báo ấy. Chim bên Cực Lạc thì khác hẳn, không phải là loài vật do tội báo cảm vời sanh ra, mà do thần lực của Đức Phật A Di Đà biến hóa ra để làm cho pháp âm được lưu chuyển khắp trong nước.

11. Đức Phật ở cõi Cực Lạc vì có ba điều vô lượng: a. Vô lượng quang; b. Vô lượng thọ; c. Vô lượng công đức. Nên Đức Phật ấy có danh hiệu là A Di Đà.

12. A-bệ-bạt-trí (Phạn âm), Hán dịch là "bất thối chuyển", vào bậc này thì một mực đi trên đường Thánh, thẳng đến thành Phật, không còn bị thối lui hoặc bị trụt xuống phàm phu hay Tiểu thừa nữa. Tất cả mọi người được sanh về cõi Cực Lạc đều vào bậc Bất thối cả, trong hàng Bất thối lại có vô số bậc Nhất sanh bổ xứ Bồ Tát (vị Bồ Tát chỉ còn làm Bồ Tát trong một đời hiện tại, mãn đời hiện tại thì sẽ thành Phật, như hiện nay Đức Di Lặc Bồ Tát ở cung trời Đâu Suất là bậc Nhất sanh bổ xứ Bồ Tát vậy). Các bậc Thượng thiện nhân là chỉ các bậc Nhất sanh bổ xứ Bồ Tát.  

13. Cõi Cực Lạc thù thắng trang nghiêm, phải có nhiều căn lành, phước đức mới được sanh về đó. Niệm Phật được nhất tâm bất loạn thời là thành tựu căn lành, phước đức rất lớn, đến khi lâm chung, Đức Phật A Di Đà cùng Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát… phóng quang đến rước, quyết định được sanh về cõi Cực Lạc. Niệm Phật không còn mộng tưởng gì khác, không có mảy may thanh sắc gì khác xen vào, vững vàng không xao động, gọi là nhất tâm bất loạn.

14. Người tu Tịnh độ phải có đủ ba điều: Tín (tin Phật), Hạnh (chuyên tâm niệm Phật) và Nguyện (thiết tha muốn được sanh về cõi Cực Lạc). Trong ba điều này, lòng tin đứng trước cả mà cũng là nền tảng của tất cả căn lành, vì thế nên chư Phật ở sáu phương đồng khuyên bảo cho mọi người sanh lòng tin chắc chắn quyết định.

15. Hằng hà sa số là số cát ở sông Hằng. Sông Hằng là con sông lớn bên Ấn Độ, bắt nguồn từ dãy núi Hymalaya, chảy ngang xứ Ấn Độ, đổ vào Ấn Độ Dương. Lòng sông và hai bên bờ có  cát rất nhiều và rất mịn. Đương thời Đức Phật thường nói pháp gần bên sông, nên phàm khi muốn chỉ một số lượng rất nhiều thì mượn số cát của sông Hằng mà nói.

16. Tướng lưỡi rộng dài là biểu tượng của sự thành thật. Trong kinh nói người nào chót lưỡi liếm đến đầu mũi, thời người ấy trong ba đời đã qua không hề có một lời nói dối. Lưỡi dài liếm đến đầu mũi còn như thế, huống nữa là rộng dài trùm khắp cả thế giới.

17. Một thái dương hệ là một tiểu thế giới. Một nghìn tiểu thế giới là một tiểu thiên thế giới. Một nghìn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới. Một nghìn trung thiên thế giới là một thế giới trải qua ba lần nhân cho số nghìn, nên gọi là tam thiên đại thiên thế giới [1 Tiểu thế giới x 1000 x 1000 x 1000 = Đại thiên thế giới]. 

18. Đại thiên thế giới của ta ở đây tên là Ta Bà, dịch là "kham năng nhẫn khổ", ngụ ý rằng trong cõi này có vô lượng sự thống khổ, mà chúng sanh trong đó vẫn cam chịu được.

19. Ngũ trược:
a. Kiếp trược: Kiếp là chỉ cho thời đại, thời gian. Trong thời đại nào mà có các món trược dưới đây thì đấy là thời đại đục nhơ;
b. Kiến trược: Những điều mê chấp, tà kiến, điên đảo;
c. Phiền não trược: Các tâm niệm bất thiện, như: tham, sân, si, mạn, nghi;
d. Chúng sanh trược: Năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) hiệp hội sanh diệt chẳng dừng;
e. Mạng trược: Tuổi thọ rất ngắn, sống nay chết mai, mạng sống trong hơi thở. 
Bốn món trên đây tánh cách nhiễu nhương, sai lầm, biến đổi vô thường nên gọi là trược (nhơ đục).

KHỔ Ở CÕI TA BÀ
Tam Khổ:
1. Khổ khổ: mang thân sắc người nặng nề, nhơ uế, sống nay chết mai này đã khổ lắm rồi, mà trên cái khổ đó lại còn chông thêm không biết bao nhiêu là sự khổ khác nữa, như già, bệnh, đói khát, nóng rét v.v…
2. Hoại khổ: Vô thường biến đổi, thân mạng như chỉ mành treo chuông, tang thương xoay chuyển, như sương đầu ngọn cỏ.
3. Hành khổ: Trong mỗi niệm, tâm tưởng, biến chuyển luôn không ngừng.

Bát Khổ:
1. Sanh khổ: Ở trong bào thai tối tăm nhơ uế, lọt lòng khổ trăm bề.
2. Lão khổ: Lụm cụm già nua, mắt mờ, tai điếc, trí lãng, lưng mỏi, gối chùn, mặt nhăn, đầu bạc…
3. Bệnh khổ: Đau rên bứt rứt, nhức nhối xót xa, ngồi nằm không yên, đi đứng không được.
4. Tử khổ: Ngộp mệt, lộn tròng, méo miệng, chuyển xương, gân rút…
5. Cầu bất đắc khổ: Lợi danh không toại, muốn được phước thì lại mang họa, cầu thọ mà yểu vong…
6. Ái biệt ly khổ: Cốt nhục phân tán, sanh ly tử biệt.
7. Oán tắng hội khổ: Oan gia đối đầu, cừu thù gặp gỡ…
8. Ngũ ấm xí thạnh khổ: Thân tâm dời đổi biến diệt, phút phút chẳng dừng, như ngọn lửa phừng phừng không khác…

VUI Ở CÕI CỰC LẠC
Tam lạc:
1. Lạc trung lạc: Thân cùng quốc độ đều thù thắng, thân nhẹ, cõi xinh, ấm no, khang kiện.
2. Bất biến hoại lạc: Thân mạng trường tồn, cõi nước không tiêu diệt.
3. Bất động trí lạc: Định huệ dung thông, chánh trí bất động.

Bát lạc:
1. Sanh lạc: Thác chất liên hoa, thanh tịnh hóa sanh…
2. Vô lão lạc: Mãi mãi trẻ trung, không già không yếu.
3. Vô bệnh lạc: Hằng hằng khang kiện, không bệnh, không đau yếu.
4. Vô tử lạc: Thọ mạng vô cùng, trường sanh bất diệt.
5. Toại nguyện lạc: Tùy ý quả toại, ẩm thực, y phục tự nhiên.
6. Vô ái biệt ly lạc: Bạn lành hải chúng, thân cận không rời…
7. Vô oán tắng hội lạc: Thuần là Thượng thiện nhân, đồng tâm xứng ý.
8. Vô ngũ ấm sanh lạc: Thân tâm thanh tịnh, thường trụ không dời…

Không đâu khổ bằng Ta Bà, không đâu vui bằng Cực Lạc. Vì thế mọi người nên nhàm lìa chốn Ta Bà mà nguyện sanh về chốn Cực Lạc.

***

NAM MÔ HỘ PHÁP TẠNG BỒ TÁT

Kinh A Di Đà -

Bạt Nhứt Thiết Nghiệp Chướng
Căn Bổn Đắc Sanh Tịnh Độ Đà La Ni:
Nam mô A di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa địa dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa, tỳ ca lan đế, a di rị đa, tỳ ca lan đa, già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. (7 lần)

KỆ CA NGỢI PHẬT
Thân Phật Di Đà sắc vàng ròng
Tướng tốt sáng ngời không gì sánh
Bạch hào uyển chuyển năm Tu Di
Mắc biếc lắng trong bốn biển lớn.
Vô số hóa Phật trong hào quang,
Chúng hóa Bồ Tát cũng vô biên.
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.
Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại Từ Đại Bi, tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.
Nam mô A Di Đà Phật. (108 lần)
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)

SÁM DI ĐÀ
Muốn đi có một đường này,
Nhứt tâm niệm Phật khó gì thoát ra.
Vậy khuyên phải niệm Di Đà,
Hồng danh sáu chữ thật là rất cao.
Hay trừ tám vạn trần lao,
Tham thiền quán tưởng pháp nào cũng thua,
Di Đà xưa cũng làm Vua,
Bỏ ngôi bỏ nước vô chùa mà tu,
Xét ra từ kiếp đã lâu,
Hiệu là Pháp Tạng Tỳ Kheo đó mà.
Trong khi Ngài mới xuất gia,
Bốn mươi tám nguyện phát ra một lần. Nguyện nào cũng lắm oai thần,
Nguyện nào cũng trọng về phần độ sanh, Vì thương thế giới bất bình,
Nên chi đầu Phật mà đành bỏ ngôi,
Thầy là Bảo Tạng Như Lai,
Bạn là Bảo Hải tức Ngài Thích Ca
Thích Ca nguyện độ Ta Bà,
Di Đà nguyện mở cửa nhà Lạc Bang,
Mở ao chín phẩm sen vàng,
Xây thành bá đảo đồ đàng thất trân.
Lưu ly quả đất sáng ngần,
Lầu châu gác ngọc mười phần trang nghiêm.
Hoa trời rưới cả ngày đêm,
Có cây rất báu có chim rất kỳ,
Lạ lùng cái cảnh phương Tây,
Mười phương cõi Phật cảnh nào cũng thua.
Phong quang vui vẻ bốn mùa,
Nước reo pháp Phật gió khua nhạc trời.
Di Đà có thệ một lời,
Mở ra cõi ấy tiếp người vãng sanh,
Mười phương ai phát lòng thành,
Nhất tâm mà niệm hồng danh của Ngài. Hằng ngày trong lúc hôm mai,
Niệm từ mười tiếng đến rày ba trăm,
Khi đi, khi đứng, khi nằm,
Chuyên trì niệm Phật, lòng chăm phát nguyền.
Nguyện sanh về cõi Bảo Liên,
Là nơi Cực Lạc ở miền Tây phương,
Đến khi thọ mạng vô thường,
Thì Ngài phóng ngọn hào quang rước liền,
Biết bao phước đức nhơn duyên
Đã về Cực Lạc còn phiền não chi,
Sự vui trời cũng chẳng bì,
Đêm đêm thong thả, ngày ngày vui chơi,
Sống lâu kiếp kiếp đời đời,
Không già, không chết, không dời đi đâu.
Nguyện đến lúc con sắp lâm chung
Sạch trừ tất cả những chướng ngại
Tận mắt thấy Đức A Di Đà
Liền được vãng sanh về Cực Lạc
Phật kia, chúng hội đều thanh tịnh
Con liền từ thẳng hoa sen xanh
Thấy rõ Đức Phật Vô Lượng Quang
Hiện tiền trao con "Bồ Đề ký"
Được Đức Như Lai thọ ký xong
Con hóa vô số trăm ức thân
Sức trí rộng lớn khắp mười phương
Lợi ích tất cả cõi chúng sanh. (C)

HỒI HƯỚNG
Tụng kinh công đức hạnh hơn hết
Phước đức rất nhiều cùng hồi hướng
Nguyện pháp giới rộng lớn cùng chúng sanh
Đều sanh sang nước Phật A Di Đà
Nguyện diệt ba chướng cùng phiền não
Nguyện được trí huệ trong sáng nhất
Tất cả tội chướng đều tiêu hết
Đời đời thường làm đạo Bồ Tát
Nguyện sanh về Tây Phương nước Tịnh
Chín phẩm hoa sen là cha mẹ
Hoa nở thấy Phật được vô sanh
Bậc Bồ Tát là bạn bè không thoái lui

Nguyện đem công đức này
Một lòng phổ biến cho tất cả
Con và tất cả chúng sanh,
Đều được thành Phật đạo cả.

LỄ TAM QUY Y
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (Lạy 1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển. (Lạy 1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (Lạy 1 lạy)

HÒA NAM THÁNH CHÚNG
(Xá 1 xá rồi đọc tiếp)
Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả,
Đệ tử và chúng sanh,
Đều trọn thành Phật đạo.

(Xá 3 xá rồi lui ra) 

Kinh A Di Đà - Ma ha Bát nhã Ba la mật đa Tâm Kinh

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa pháp Bát nhã Ba la mật đa. Ngài soi thấy năm uẩn đều không, vượt qua hết thảy khổ ách.
Này ông Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, thụ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế.
Này ông Xá Lợi Tử! Tướng chân không của mọi pháp, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt. Cho nên trong chân không ấy, không có sắc, không có thụ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới. Không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến già, chết, cũng không có cái hết già, chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí huệ, cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc.
Bồ Tát nương theo Bát nhã Ba la mật đa, nên tâm không ngăn ngại, vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu kính Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y vào Bát nhã Ba la mật đa, mà được vào quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Cho nên biết Bát nhã Ba la mật đa là đại Thần chú, là đại Minh chú, là Vô thượng chú, là Vô đẳng chú, trừ được hết thảy khổ đau, chân thực không sai.
Vì vậy nói ra bài chú Bát nhã Ba la mật đa. Liền nói bài chú rằng: "Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề ta bà ha".

Ma ha Bát nhã Ba la mật đa. (3 lần) 

Kinh A Di Đà - Tán dương, đảnh lễ Phật A Di Đà

TÁN DƯƠNG, ĐẢNH LỄ PHẬT A DI ĐÀ
Giáo chủ thế giới Tây phương là bậc Năng Nhơn của Tịnh Độ, bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh, lời phát nguyện thề rất sâu xa. Thượng phẩm thượng sanh, đồng đến Bửu Liên Thành. (C)
1 - Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới  Di Đà hải hội, Vô Lượng Quang Như Lai. (C) (Lạy 1 lạy)
2 - Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Đà hải hội, Vô Biên Quang Như Lai. (C) (Lạy 1 lạy)
3 - Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Đà hải hội, Vô Ngại Quang Như Lai. (C) (Lạy 1 lạy)
4 - Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Đà hải hội, Vô Đối Quang Như Lai. (C) (Lạy 1 lạy)
5 - Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Đà hải hội, Diệm Vương Quang Như Lai. (C) (Lạy 1 lạy)
6 - Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Đà hải hội, Thanh Tịnh Quang Như Lai. (C) (Lạy 1 lạy)
7 - Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Đà hải hội, Hoan Hỷ Quang Như Lai. (C) (Lạy 1 lạy)
8 - Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Đà hải hội, Trí Huệ Quang Như Lai. (C) (Lạy 1 lạy)
9 - Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Đà hải hội, Nan Tư Quang Như Lai. (C) (Lạy 1 lạy)
10 - Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Đà hải hội, Bất Đoạn Quang Như Lai. (C) (Lạy 1 lạy)
11 - Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Đà hải hội, Vô Xưng Quang Như Lai. (C) (Lạy 1 lạy)

12 - Nam mô An Dưỡng quốc, Cực Lạc giới Di Đà hải hội, Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai. (C) (Lạy 1 lạy)

Kinh A Di Đà - Phật nói Kinh A Di Đà

PHẬT NÓI KINH A DI ĐÀ
(Hán dịch, nhà Dao Tần, Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch)

1. KỲ VIÊN ĐẠI HỘI
Ta nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị Đại Tỳ Kheo câu hội, đều là bậc Đại A La Hán, mọi người đều quen biết, như là: Trưởng lão Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, Ma-ha Ca Diên Chiên, Ma-ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma-ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nậu Lâu Đà, những vị đại đệ tử như thế.
Và hàng Đại Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, A Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha Đề Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, cùng với các vị Đại Bồ Tát như thế và với vô lượng chư thiên, như ông Thích Đề Hoàn Nhơn v.v… đại chúng cùng đến dự hội.

2. Y BÁO, CHÁNH BÁO
Bấy giờ Đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá Lợi Phất rằng: "Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có Đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp.

3. Y BÁO TRANG NGHIÊM
Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực Lạc?
Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất.
Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.
Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sáng trắng, mầu nhiệm thơm tho, trong sạch.
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của Đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn-đà-la.
Chúng sanh trong coi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng những hoa tốt, đem cúng dường mười muôn ức Đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc, ăn cơm xong đi kinh hành.
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi đó thường có những giống chim màu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim bạch hạc, khổng tước, anh võ, xá-lợi, ca lăng tần già, cọng mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiến hòa nhã.
Tiếng chim đó diễn nói những pháp như Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ Đề phần, Bát Thánh đạo phần, v.v… Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Xá Lợi Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao?
Vì cõi của Đức Phật đó không có ba đường dữ. Xá Lợi Phất! Cõi của Đức Phật đó tên đường dữ còn không có, huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do Đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi.
Xá Lợi Phất! Trong cõi nước của Đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung.
Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Xá Lợi Phất! Cõi nước của Đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.

4. CHÁNH BÁO VÔ LƯỢNG THÙ THẮNG
Xá Lợi Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?
Xá Lợi Phất! Đức Phật đó hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương, không bị chướng ngại, vì thế nên hiệu là A Di Đà.
Xá Lợi Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà.
Xá Lợi Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn lại đến nay đã được mười kiếp.
Xá Lợi Phất! Lại Đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bậc A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ Tát chúng cũng đông như thế.
Xá Lợi Phất! Cõi nước của Đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bậc bất thối chuyển.
Trong đó có rất nhiều vị bậc Nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a tăng kỳ để nói thôi.
Xá Lợi Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó.
Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhân như thế câu hội một chỗ.

5. NHƠN HẠNG VÃNG SANH
Xá Lợi Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh về cõi đó.
Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói Đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung, Đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh chúng hiện thân ở trước người đó.
Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền đặng vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.
Xá Lợi Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế.
Nếu có chúng sanh nào nghe được những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.

6. SÁU PHƯƠNG PHẬT ĐỒNG KHUYÊN TIN
Xá Lợi Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức, lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của Đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có Đức A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật… Hằng hà sa số những Đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh 'Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm' này".
Xá Lợi Phất! Thế giới phương Nam có Đức Phật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật… Hằng hà sa số những Đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi nên phải tin kinh 'Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm' này".
Xá Lợi Phất! Thế giới phương Tây có Đức Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang Phật… Hằng hà sa số những Đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh 'Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm' này".
Xá Lợi Phất! Thế giới phương Bắc có Đức Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhựt Sanh Phật, Võng Minh Phật… Hằng hà sa số những Đức Phật như thế, đều ở tại nước mình hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh 'Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm' này".
Xá Lợi Phất! Thế giới phương dưới có Đức Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Mạ Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật… Hằng hà sa số những Đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh 'Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm' này".
Xá Lợi Phất! Thế giới phương trên có Đức Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bửu Hoa Nghiêm Thân Phật, Ta La Thọ Vương Phật, Bảo Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật… Hằng hà sa số những Đức Phật như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh 'Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm' này".
Xá Lợi Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào. vì sao tên là kinh "Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm"?
Xá Lợi Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của các Đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các Đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Xá Lợi Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các Đức Phật nói.
Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của Đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về.
Xá Lợi Phất! Cho nên các thiện nam tử, thiện nữ nhân, nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.

7. THUYẾT KINH RẤT KHÓ
Xá Lợi Phất! Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các Đức Phật, các Đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của ta mà nói lời này: "Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hy hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược, mà Ngài chứng được ngôi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này".
Xá Lợi Phất! Phải biết rằng, ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: Đặng thành bậc Vô thượng Chánh giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó!"
Đức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá Lợi Phất cùng các vị Tỳ Kheo, tất cả trong đời: trời, người, a-tu-la, v.v… nghe lời của Đức Phật dạy đều vui mừng tin nhận, đảnh lễ Phật mà lui ra.

Phật nói Kinh A Di Đà. (C)

Kinh A Di Đà - Nghi thức trì tụng

NGHI THỨC TRÌ TỤNG
KINH A DI ĐÀ

CÚNG HƯƠNG
(Thắp 3 cây hương quỳ ngay ngắn, cầm hương ngang trán niệm bài cúng hương cầu nguyện)
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phưởng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Chí tu học vững bền
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ giác
(Xá rồi đọc tiếp bài Kỳ Nguyện)

XƯNG TÁN ĐỨC PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loài
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận. (C)

QUÁN TƯỞNG
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (C)

ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không, biến pháp giới, quá hiện vị lai, thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trú Tam Bảo. (C) (Lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo chủ Điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (C) (Lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Di Tiếp Dẫn Đại Sư A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (C) (Lạy 1 lạy)

CHÚNG CON XIN CHÍ THÀNH SÁM HỐI
Xưa kia gây nên bao ác nghiệp
Đều vì vô thỉ tham sân si
Bởi thân, miệng, ý phát sanh ra
Hết thảy từ nay xin sám hối.

TÁN LƯ HƯƠNG
Kim lư vừa bén chiên đàn
Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương
Hiện thành mây báu kiết tường
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền
Pháp thân toàn thể hiện tiền
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát. (3 lần) (C)

CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi hội thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô kiết đế thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất bà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần) (C)

NGHI THỨC TRÌ TỤNG
CHƠN NGÔN TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam. (7 lần)

CHƠN NGÔN TỊNH BA NGHIỆP
Án, ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)

CHƠN NGÔN PHỔ CÚNG DƯỜNG
Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)

VĂN PHÁT NGUYỆN
Nam mô Thập phương Thường trụ Tam Bảo. (3 lần) (C )
Lạy đấng Tam Giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Nay con phát nguyện lớn
Trì tụng Kinh A Di Đà
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát Bồ Đề tâm
Khi mãn báo thân này
Sanh qua cõi Cực lạc.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần) (C)

KỆ KHAI KINH
Phật pháp cao siêu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Nay con nghe thấy chuyên trì niệm,
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát. (3 lần) (C)

Kinh A Di Đà - Tựa

KINH A DI ĐÀ
NGHĨA

HT: Thích Trí Tịnh

NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO

PL 2554 - DL 2010

Kinh A Di Đà (Nghĩa)

Tuesday, January 19, 2016

Kinh Phúc Đức

Ebook: .epub, .mobi (tìm trong dropbox folder này: Kinh_Phuc_Duc)

------------------------------------------------------

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
THÀNH HỘI PHẬT GIÁO HÀ NỘI

KINH PHÚC ĐỨC

CHÙA BẰNG A
HÀ NỘI

PL 2558 - DL 2014

***

CÚNG HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính
Gửi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Xa bể khổ vòng mê
Chóng quay về bờ giác.
Nam mô Bồ Tát cúng dường hương (3 lần)

***

ĐẢNH LỄ
(Xá 3 xá rồi xướng lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai Thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát. (1 lạy rồi đứng hay ngồi tụng tùy ý)

***

SÁM HỐI
Con đã gây ra bao lầm lỗi
Khi nói, khi làm, khi tư duy
Đam mê hờn giận và ngu si
Nay con cúi đầu xin sám hối
Một lòng con cầu Bụt chứng tri
Bắt đầu hôm nay nguyện làm mới
Nguyện sống đêm ngày trong chánh niệm
Nguyện không lặp lại lỗi lầm xưa
Nam Mô Bồ Tát Cầu Sám Hối. (3 lần)

***

TRÌ TỤNG
Lò hương vừa đốt
Cõi Pháp thơm lây
Chư Phật bốn biển đều xa hay
Thấu tâm thành này
Chư Phật hiện thân ngay.
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

Chú sạch nghiệp miệng
Tu lị, tu lị, ma ha tu lị, tu tu lị, sa bà ha. (3 lần)

Chú sạch nghiệp thân
Tu đa lị, tu đa lị, tu ma lị, sa bà ha. (3 lần)

Chú sạch ba nghiệp
Úm, sa phạ bà phạ, chuật đà sa phạ, đạt ma sa phạ, bà phạ chuật độ hám. (3 lần)

Chú an tâm
Nam Mô tam mãn đá một đà nẫm
Úm độ rô, độ rô, địa vĩ sa bà ha. (3 lần)

Chú phả cúng dường
Úm nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhật ra hộc. (3 lần)

***

KHAI KINH KỆ
Phép Phật cao siêu mầu nhiệm
Nghìn muôn ức kiếp dễ hay đâu?
Con nay nghe, thấy, xin vâng giữ
Chân nghĩa Như Lai hiểu thất sâu.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

***

BÀI TỤNG
PHÒNG HỘ CHUYỂN HÓA
Đệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao nghiệp chướng bởi lầm mê
Vào ra sinh tử biết bao lần
Nay đến trước đài Vô Thượng Giác.
Biển trần khổ lâu đời trôi giạt
Hôm nay trông thấy Đạo huy hoàng
Con hướng về theo ánh từ quang
Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước. (C)

Bao tội khổ trong đời ác trược
Vì tham, sân, si, mạn gây nên
Hôm nay đây khẩn thiết thệ nguyền
Xin sám hối để lòng thanh thoát
Trí tuệ quang minh như nhật nguyệt
Từ bi vô lượng cứu quần sinh
Con nhất tâm nguyện sống đời lành
Đem thân mạng nương nhờ Tam Bảo
Lên thuyền Từ vượt qua biển Khổ
Cầm đuốc thiêng ra khỏi rừng Mê
Văn, Tư, Tu xin quyết hành trì
Thân, Miệng, Ý noi về chính kiến
Đi đứng nằm ngồi trong chính niệm
Vào ra cười nói tướng đoan nghiêm
Mỗi khi tâm buồn giận lo phiền
Nguyện nhiếp niệm trở về hơi thở
Mỗi bước chân đi vào Tịnh Độ
Mỗi cái nhìn thấy được Pháp thân.

Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần
Đem ý thức tinh chuyên phòng hộ
Tập khí năm xưa rồi chuyển hóa
Vườn tâm tuệ giác nở trăm hoa
Niềm an vui đem khắp mọi nhà
Hạt giống tốt gieo về muôn lối
Cùng tăng thân xin nguyền ở lại
Nơi cõi đời làm việc độ sinh
Giờ phút này sông núi chứng minh
Cúi xin đức Từ Bi nhiếp thụ. (CC) 

***

KINH PHÚC ĐỨC (C)
Đây là những điều tôi được nghe hồi đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya, có một thiên giả hiện xuống thăm Người, hào quang và vẻ đẹp của thiên giả làm sáng cả vườn cây. Sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn, vị thiên giả xin tham vấn Người bằng một bài kệ:
"Thiên và nhân thao thức
Muốn biết về phúc đức
Để sống đời an lành
Xin Thế Tôn chỉ dạy."
Và sau đây là lời đức Thế Tôn:
"Lánh xa kẻ xấu ác
Được thân cận người hiền
Tôn kính bậc đáng kính
Là phúc đức lớn nhất."
"Sống trong môi trường tốt
Được tạo tác nhân lành
Được đi trên đường chính
Là phúc đức lớn nhất."
"Có học, có nghề hay
Biết hành trì giới luật
Biết nói lời ái ngữ
Là phúc đức lớn nhất."
"Được cung phụng mẹ cha
Yêu thương gia đình mình
Được hành nghề thích hợp
Là phúc đức lớn nhất."
"Sống ngay thẳng, bố thí,
Giúp quyến thuộc, thân bằng
Hành xử không tỳ vết
Là phúc đức lớn nhất."
"Tránh không làm điều ác
Không say sưa nghiện ngập
Tinh cần làm việc lành
Là phúc đức lớn nhất."
"Biết khiêm cung lễ độ
Tri túc và biết ơn
Không bỏ dịp học đạo
Là phúc đức lớn nhất."
"Biết kiên trì, phục thiện
Thân cận giới xuất gia
Dự pháp đàm học hỏi
Là phúc đức lớn nhất."
"Sống tinh cần, tỉnh thức
Học chân lý nhiệm mầu
Thực chứng được Niết Bàn
Là phúc đức lớn nhất."
"Chung đụng trong nhân gian
Tâm không hề lay chuyển
Phiền não hết, an nhiên,
Là phúc đức lớn nhất."
Ai sống được như thế
Đi đâu cũng an toàn
Tới đâu cũng vững mạnh
Phúc đức của tự thân (CC)

***

SÁM NGUYỆN
Trang nghiêm đài sen ngự tọa
Đại hùng từ phụ Thích Ca
Đệ tử lắng lòng thanh tịnh
Bàn tay chắp thành liên hoa
Cung kính hướng về Điều Ngự
Dâng lời sám nguyện thiết tha. (C)

Đệ tử phúc duyên thiếu kém
Sống trong thất niệm lâu dài
Không được sớm gặp chính pháp
Bao nhiêu phiền lụy đã gây
Bao nhiêu lỡ lầm vụng dại
Vô minh che lấp tháng ngày
Vườn tâm gieo hạt giống xấu
Tham, sân, tự ái dẫy đầy
Những nghiệp sát, đạo, dâm, vọng
Gây nên từ trước đến nay
Những điều đã làm, đã nói
Thường gây đổ vỡ hằng ngày
Bao nhiêu não phiền nghiệp chướng
Nguyện xin sám hối từ đây. (C)

Đệ tử thấy mình nông nổi
Con đường chính niệm lãng xao
Chất chứa vô minh phiền não
Tạo nên bao nỗi hận sầu;
Có lúc tâm tư buồn chán
Mang đầy dằn vặt lo âu,
Vì không hiểu được kẻ khác
Cho nên hờn giận, oán cừu;
Lý luận xong rồi trách móc
Mỗi ngày mỗi chuốc khổ đau
Chia cách hố kia càng rộng
Có ngày không nói với nhau
Cũng không muốn nhìn thấy mặt
Gây nên nội kết dài lâu;
Nay con hướng về Tam Bảo
Ăn năn khẩn thiết cúi đầu. (C)

Đệ tử biết trong tâm thức
Bao nhiêu hạt tốt lấp vùi:
Hạt giống thương yêu, hiểu biết
Và bao hạt giống an vui.
Nhưng vì chưa biết tưới tẩm
Hạt lành không mọc tốt tươi
Cứ để khổ đau tràn lấp
Làm cho đen tối cuộc đời
Quen lối bỏ hình bắt bóng
Đuổi theo hạnh phúc xa vời
Tâm cứ bận về quá khứ
Hoặc lo rong ruổi tương lai
Quanh quẩn trong vòng buồn giận
Xem thường bảo vật trong tay
Dày đạp lên trên hạnh phúc
Tháng năm sầu khổ miệt mài;
Giờ đây trầm xông bảo điện
Con nguyền sám hối đổi thay. (C)

Đệ tử tâm thành quy ngưỡng
Hướng về chư Bụt mười phương
Cùng với các vị Bồ Tát
Thanh văn, Duyên giác, thánh hiền
Chí thành cầu xin sám hối
Bao nhiêu lầm lỡ triền miên
Xin lấy cam lồ tịnh thủy
Tưới lên dập tắt não phiền
Xin lấy con thuyền chính pháp
Đưa con vượt nẻo oan khiên
Xin nguyện sống đời tỉnh thức
Học theo đạo lý chân truyền
Thực tập nụ cười hơi thở
Sống đời chính niệm tinh chuyên. (C)

Đệ tử xin nguyện trở lại
Sống trong hiện tại nhiệm mầu
Vườn tâm ươm hạt giống tốt
Vun trồng hiểu biết, thương yêu.
Xin nguyện học phép quán chiếu
Tập nhìn tập hiểu thật sâu
Thấy được tự tính các pháp
Thoát ngoài sinh tử trần lao
Nguyện học nói lời ái ngữ
Thương yêu, chăm sóc sớm chiều
Đem nguồn vui tới mọi nẻo
Giúp người vơi nỗi sầu đau
Đền đáp công ơn cha mẹ
Ơn thầy nghĩa bạn dày sâu.
Tín thành tâm hương một nén
Đài sen con nguyện hồi đầu
Nguyện đức từ bi che chở
Trên con đường đạo nhiệm mầu
Nguyện xin chuyên cần tu tập
Vuông tròn đạo quả về sau. (C)

***

TỰ QUY Y
Con về nương tựa Phật, Người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời
Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.
Con về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức (C)
Đã về nương tựa Phật, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.
Đã về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các Pháp môn chuyển hóa.
Đã về nương tựa Tăng, con đang được Tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)
Về nương Phật trong con, xin nguyện cho mọi người thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ Đề.
Về nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển hóa.
Về nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. (CC)

***

HỒI HƯỚNG
Tụng kinh pháp thân diệu
Tạo công đức vô biên
Đệ tử xin hồi hướng
Cho chúng sinh mọi miền. (C)

Pháp môn xin nguyện học
Ơn nghĩa xin nguyện đền
Phiền não xin nguyện đoạn
Quả Phật xin chứng nên. (CC)