Phẩm HIỆN BỆNH thứ mười tám
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Đức Như Lai đã khỏi tất cả tật bệnh, không còn đau khổ, không sợ sệt. Thế Tôn! Tất cả chúng sanh có bốn mũi tên độc: tham - dục, sân - khuể, ngu - si, và kiêu mạn. Bốn thứ độc này là nhân sanh ra bệnh. Nếu có bệnh nhơn, thời có bệnh sanh ra tức là những thứ bệnh hàn, nhiệt, bệnh phổi, ói mửa, da thịt ngứa xót, buồn nôn ngăn nghẹn, đi chảy, bệnh kiết, tiểu dải lâm dịch, nhức tai, xốn mắt, đau lưng, bụng đầy, điên cuồng, ốm gầy, quỷ mị dựa, các thứ thân bệnh tâm bệnh như vậy. Chư Phật, đều không còn có những thứ bệnh ấy. Hôm nay đức Như Lai cớ sao bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng Phật đau lưng, các ông nên vì đại chúng mà thuyết pháp?
Bạch Thế Tôn! Có hai nhơn duyên thời không bệnh khổ! Một là thương xót tất cả chúng sanh, hai là cung cấp thuốc men cho người bệnh. Từ xưa đức Như Lai đã tu đạo Bồ Tát trong vô lượng muôn ức kiếp: thường thật hành lời nói dịu dàng, thân yêu, lợi ích cho chúng sanh chẳng để họ phải khổ não, bố thí các thứ thuốc men cho người bệnh. Cớ sao hôm nay lại tự nói là có bệnh?
Thế Tôn! Trong đời, người có bệnh hoặc ngồi, hoặc nằm chẳng yên, hoặc đòi uống đòi ăn, dặn bảo người nhà coi sóc sản nghiệp. Cớ sao đức Như Lai nằm yên lặng, chẳng dạy bảo hàng Thanh Văn đệ tử những giới luật, thiền định, giải thoát tam muội, tu hạnh chánh cần. Cớ sao chẳng giảng nói kinh điển đại thừa rất sâu vi diệu. Cớ sao đức Như Lai chẳng dùng vô lượng phương tiện dạy ngài Đại Ca Diếp cùng các hàng đại nhơn cho họ đặng bậc bất thối vô thượng bồ đề. Cớ sao chẳng trị phạt các ác Tỳ Kheo nhận chứa tất cả vật bất tịnh. Đức Thế Tôn thiệt không có bệnh tật, sao lại yên lặng nằm nghiêng bên mặt.
Các vị Bồ Tát phàm cung cấp thuốc men cho người bệnh, đem căn lành ấy ban cho chúng sanh, đồng hồi hướng nhứt-thế-chủng-trí. Vì trừ các thứ phiền não chướng, nghiệp chướng, và báo chướng cho chúng sanh. Phiền não chướng là tham dục, sân khuể, ngu si, phẫn nộ, triền cái, tập não, tật đố, xan lẫn, gian trá, siểm khúc, vô tàm, vô quý, mạn, mạn-mạn, đại mạn, bất như mạn, tăng thượng mạn, ngã mạn, tà mạn, kiêu mạn, phóng dật, cống cao, phẫn hận, trách tụng, tà mạn, siểm mị, dối bày tướng lạ, dùng lợi cầu lợi, cầu quấy cầu nhiều, không cung kính, chẳng tùy thuận lời dạy bảo, gần gũi ác hữu, tham lợi không nhàm, ràng buộc khó mở, mong mỏi điều ác, tham lam việc ác, chấp thân chấp có, chấp không, vươn vai ưa ngủ, ngáp dài, chẳng vui, tham uống tham ăn, tâm trí mờ tối, tâm tưởng sai lầm, chẳng khéo suy nghĩ, thân và miệng nhiều lỗi ác, hay mừng, nói nhiều, căn tánh ám độn, lời nói phần nhiều rỗng tuếch, thường bị các giác quán: dục giác, khuể giác, hai giác che đậy. Tất cả trên đây gọi là phiền não chướng.
Nghiệp chướng là năm tội vô gián, những bệnh nặng dữ.
Báo chướng là sanh vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, hủy báng chánh pháp và nhứt-xiển-đề.
Ba chướng như vậy gọi là căn bệnh lớn.
Các vị Bồ Tát lúc tu hạnh bồ đề trong vô lượng kiếp, cung cấp thuốc men cho tất cả người tật bệnh, thường nguyện rằng làm cho tất cả chúng sanh dứt hẳn ba chướng.
Bồ Tát lúc tu hạnh bồ đề cung cấp thuốc men cho tất cả người bệnh thường nguyện rằng: nguyện cho chúng sanh dứt hẳn tật bệnh đặng thân kim cương của Như Lai. Lại nguyện vì tất cả chúng sanh làm diệu dược dứt trừ tất cả những bệnh nặng, bệnh dữ. Nguyện các chúng sanh đặng thuốc A Dà Đà, thuốc này có công hiệu trừ vô lượng độc dữ. Nguyện chúng sanh không thối chuyển nơi vô thượng chánh đẳng chánh giác, mau đặng thành tựu vô thượng Phật đạo, tiêu trừ tất cả mũi tên độc phiền não. Nguyện chúng sanh tinh tấn tu hành, thành tựu thân kim cương của Như Lai, làm thuốc hay vi diệu trị lành các thứ bệnh, chẳng để có người sanh lòng tranh tụng. Cũng nguyện chúng sanh làm dược thọ lớn, trị lành tất cả những bệnh dữ bệnh nặng. Lại nguyện chúng sanh nhổ mũi tên độc đặng thành quang minh vô lượng của Như Lai. Lại nguyện chúng sanh đặng vào trí huệ của Như Lai, thông đạt pháp tạng vi mật.
Thế Tôn! Bồ Tát đã phát nguyện này trong vô lượng trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp làm cho chúng sanh không còn bệnh tật. Cớ sao hôm nay đức Như Lai lại xướng rằng có bệnh.
Thế Tôn, trong đời có người bệnh không ngồi dậy được, không thể cúi ngước, cựa động, ăn uống không đặng, đổ nước chẳng xuống, cũng không thể dặn bảo con cái xem sóc gia nghiệp. Cha mẹ, vợ con, anh em, thân thuộc đều nghĩ rằng: người này quyết định chết. Cũng vậy, hôm nay đức Như Lai nằm nghiêng bên hữu, không nói năng đàm luận, nơi Diêm Phù Đề này, có những người ngu sẽ nghĩ rằng: đức Như Lai chánh giác quyết sẽ diệt tận nhập Niết Bàn. Nhưng thiệt ra tánh Như Lai chẳng rốt ráo nhập niết bàn. Vì Như Lai thường trụ không biến đổi. Do cớ này đức Như Lai chẳng nên nói rằng: nay ta đau lưng.
Thế Tôn! Trong đời có người bệnh, thân thể ốm gầy, hoặc nằm nghiêng nằm ngửa trên giường nệm, gia quyến người đó sanh lòng ghét bỏ, cho rằng người đó ắt chết. Cũng vậy, nay đức Như Lai sẽ bị chín mươi lăm phái ngoại đạo khinh mạn, cho là vô thường. Các ngoại đạo đó sẽ nói rằng: Chẳng bằng chúng ta do ngã tánh thường còn, thời tiết tự tại, các pháp vi trần v.v…, mà làm thường trụ không biến đổi. Sa Môn Cù Đàm bị vô thường thuyên chuyển, đó là biến đổi. Do nghĩa này, hôm nay đức Thế Tôn chẳng nên yên lặng nằm nghiêng bên mặt.
Thế Tôn! Trong đời người có bệnh tứ đại tăng tổn không điều thích, ốm gầy, mất sức. Vì thế nên không thể ngồi đứng tùy ý, phải nằm trên giường nệm. Tứ đại của Như Lai đều hòa thích, sức lực đầy đủ, cũng không ốm gầy.
Thế Tôn! Như sức của mười con trâu nhỏ, chẳng bằng sức của một con trâu lớn. Sức của mười con trâu lớn không bằng sức của một con thanh ngưu. Sức của mười con thanh ngưu không bằng sức của một con voi thường. Sức của mười con voi thường không bằng sức của một con voi rừng. Sức của mười con voi rừng chẳng bằng sức của một con voi hai ngà. Sức của mười con voi hai ngà chẳng bằng sức của một con voi bốn ngà. Sức của mười con voi bốn ngà chẳng bằng sức của bạch tượng ở núi tuyết sơn. Sức của mười bạch tượng ở tuyết sơn chẳng bằng sức của một hương tượng. Sức của mười hương tượng không bằng sức của một thanh tượng. Sức của mười thanh tượng không bằng sức của một huỳnh tượng. Sức của mười huỳnh tượng chẳng bằng sức của một xích tượng. Sức của mười xích tượng không bằng sức của một bạch tượng vương. Sức của mười bạch tượng vương không bằng sức của một sơn tượng. Sức của mười sơn tượng không bằng sức của một ưu-bát-la tượng. Sức của mười ưu-bát-la tượng không bằng sức của ba-đầu-ma tượng. Sức của mười ba-đầu-ma tượng không bằng sức của một câu-vật-đầu tượng. Sức của mười câu-vật-đầu tượng không bằng sức của một phân-đà-lợi tượng. Sức của mười phân-đà-lợi tượng không bằng sức của một đại lực sĩ trong loài người. Sức của mười đại lực sĩ không bằng sức của một bát-kiền-đề. Sức của mười bát-kiền-đề chẳng bằng sức của bát-tý-na-la-diên. Sức của mười na-la-diên không bằng sức một lóng tay của vị thập trụ Bồ Tát.
Các lóng xương trong thân của người thường, đầu xương chẳng đến nhau. Đại lực sĩ trong loài người đầu xương đến nhau. Thân của bát kiền đề các lóng xương tiếp nhau. Thân của na-la-diên đầu xương móc nhau. Thân của Thập trụ Bồ Tát đầu những lóng xương kết liền với nhau. Vì thế nên sức mạnh của Bồ Tát rất lớn. Lúc thế giới thành lập từ kim cang tế có tòa kim cang nổi lên đến đạo tràng dưới cây Bồ Đề. Bồ Tát ngồi trên tòa đó, tâm liền chứng đặng mười trí lực.
Nay đức Như Lai chẳng nên như trẻ con thơ bé. Trẻ nít ngu si không biết nói năng, tùy ý nằm ngửa nằm nghiêng không ai quở trách. Đức Như Lai Thế Tôn có trí huệ lớn hiểu biết tất cả, là bậc tối tôn trong loài người, đầy đủ oai đức lớn, thành tựu đại thần thông, dứt hẳn lưới nghi, đã nhổ tên độc đi đứng an lành, đặng tự tại vô sở úy, giờ đây cớ chi nằm nghiêng bên mặt, làm cho hàng nhơn thiên lo rầu khốn khổ?"
Ca Diếp Bồ Tát liền ở trước Phật mà nói kệ rằng:
Như Lai đại thánh đức
Xin dạy giảng pháp mầu
Chẳng nên như trẻ thơ
Người bệnh nằm giường nệm
Điều Ngự Thiên Nhơn Sư
Nằm dựa nơi song thọ
Kẻ phàm phu nó thấy
Cho rằng ắt niết bàn.
Chẳng biết kinh đại thừa
Hạnh của Phật rất sâu
Chẳng thấy tạng vi mật
Như mù chẳng thấy đường.
Duy các vị Bồ Tát
Văn Thù Sư Lợi thảy
Hiểu được mật tạng này
Ví như người bắn giỏi
Chư Phật trong ba đời
Đại bi làm căn bổn
Đại từ bi như vậy
Nay ở tại chỗ nào?
Nếu là không đại bi
Thời chẳng gọi là Phật
Phật nếu ắt niết bàn
Thời chẳng gọi là thường.
Ngưỡng mong đấng vô thượng
Nhận lời mời của tôi
Lợi ích các chúng sanh
Xô dẹp những ngoại đạo.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn, đại bi huân nơi lòng, rõ biết tâm niệm của đại chúng muốn tùy thuận để đại chúng được lợi ích rốt ráo, liền dậy ngồi kiết già, dung nhan vui vẻ sáng rỡ như vàng ròng, mặt mắt xinh đẹp dường như trăng tròn, hình dung thanh tịnh không có những cấu uế, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp hư không. Ánh sáng đó hơn cả trăm ngàn mặt trời chiếu suốt mười phương thế giới, ban bố trí huệ cho chúng sanh, diệt trừ vô minh hắc ám, làm cho trăm ngàn ức na-do-tha chúng sanh bồ đề tâm vững chắc.
Đức Thế Tôn lòng không nghi lự, như sư tử vương, dùng ba mươi hai tướng đại nhơn, tám mươi thứ tốt trang nghiêm nơi thân. Mỗi lỗ chân lông trên thân đều hiện ra một hoa sen. Hoa sen ấy đủ ngàn cánh thuần màu vàng ròng, cọng bằng lưu ly, tua bằng kim cang, gương bằng ngọc mai khôi, hình lớn tròn như bánh xe. Những hoa sen ấy đều phóng ra ánh sáng nhiều màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, màu tía, màu pha lê, các ánh sáng ấy chiếu suốt đến địa ngục A Tỳ cùng các đại địa ngục, chúng sanh đang bị khổ đốt, nấu, đâm, chém, lột da v.v…, gặp ánh sáng ấy đều được khỏi khổ, an ổn mát mẻ. Trong ánh sáng ấy lại tuyên nói tạng bí mật của Như Lai, nói rằng: tất cả chúng sanh đều có phật tánh. Chúng sanh trong địa ngục nghe pháp âm rồi, liền bỏ thân sanh lên cõi trời hay trong loài người. Chúng sanh trong hàn băng địa ngục ánh sáng của Phật chiếu đến cũng được khỏi khổ, được nghe pháp và được sanh lên cõi trời hay trong loài người. Bao nhiêu địa ngục nơi cõi Diêm Phù Đề này và các thế giới khác thảy đều trống không, không người thọ tội, trừ kẻ nhứt-xiển-đề.
Loài ngạ quỷ khổ vì đói khát, tóc vấn lấy thân, cả trăm ngàn năm chưa từng được nghe tên nước, đồ uống, họ gặp ánh sáng của Phật liền hết đói khát. Trong ánh sáng ấy cũng nói tạng vi mật của Như Lai, nói rằng: tất cả chúng sanh đều có phật tánh.
Nhờ nghe pháp âm này loài ngạ quỷ được sanh lên trời hay trong loài người, trừ những kẻ hủy báng kinh điển Đại thừa Phương Đẳng.
Những loài súc sanh, giết hại ăn nuốt lẫn nhau. Chúng nó gặp ánh sáng của Phật trừ được tâm hung ác. Trong ánh sáng ấy cũng nói tạng vi mật của Như Lai, nói rằng: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Những loài súc sanh nhờ nghe pháp âm sau khi chết sanh lên cõi trời hay trong loài người, trừ những kẻ hủy báng chánh pháp.
Trên mỗi hoa sen đó đều có một đức Phật, Viên Quang rộng một tầm, màu vàng chói sáng, ba mươi hai tướng, tám mươi thứ đẹp trang nghiêm nơi thân. Trong các đức Phật đó có vị thì ngồi, có vị thì đi, có vị thì đứng, có vị thì nằm, có vị nổi tiếng sấm, có vị rưới mưa, có vị phóng chớp sáng, có vị nổi gió, có vị phóng khói lửa, có vị thị hiện những núi bảy báu, suối, ao, sông, ngòi, núi, rừng, cây cối, có vị hiện ra cõi nước bảy báu, thành ấp xóm làng cung điện nhà cửa. Có vị hiện ra voi, ngựa, sư tử, cọp, sói, chim công, phụng hoàng. Có vị làm cho bao nhiêu chúng sanh trong Diêm Phù Đề đều được thấy địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ nhẫn đến thấy sáu cõi trời dục giới. Trong các đức Phật đó lại vị thuyết về ấm, giới, các nhập, nhiều sự tội lỗi. Có vị nói pháp tứ đế. Có vị nói pháp thập nhị nhơn duyên. Có vị nói những phiền não, những nghiệp đều do nhơn duyên sanh. Có vị nói pháp ngã cùng vô ngã. Có vị nói hai pháp khổ và lạc. Có vị nói pháp thường và vô thường. Có vị nói pháp tịnh cùng bất tịnh. Lại có đức Phật vì các vị Bồ Tát nói sáu pháp ba-la-mật. Lại có đức Phật nói công đức của đại Bồ Tát. Lại có đức Phật nói công đức của chư Phật Thế Tôn. Lại có đức Phật nói công đức của hàng Thanh Văn. Lại có đức Phật nói tùy thuận nhứt thừa. Hoặc có đức Phật nói tam thừa thánh đạo. Có đức Phật hông bên trái hiện ra nước, hông bên hữu hiện ra lửa. Có đức Phật thị hiện giánh sanh, xuất gia, ngồi đạo tràng dưới cây bồ đề chuyển pháp luân vi diệu, nhập niết bàn. Lại có đức Phật thuyết pháp làm cho trong đại hội này có người chứng đặng sơ quả, nhị quả, tam quả, nhẫn đến tứ quả. Hoặc có đức Phật nói vô lượng nhơn duyên thoát ly sanh tử.
Những chúng sanh trong Diêm Phù Đề này được ánh sáng của Phật chiếu đến người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm nói được, người què bại đi được, người nghèo được của, kẻ bỏn xẻn phát tâm bố thí, kẻ sân hận sanh lòng từ. Người không chánh tín bèn có chánh tín. Chúng sanh trong thế giới không có ai làm việc ác, trừ hạng nhứt-xiển-đề.
Tất cả trời, rồng, quỷ thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, La Sát, Kiện Đà, Ưu Ma Đà, A Bà Ma La, nhơn, phi nhơn, v.v… đều đồng tiếng xướng rằng: Lành thay! Lành thay! Đấng Vô Thượng Thiên Tôn, làm sự lợi ích lớn. Tất cả đều vui mừng hớn hở, hoặc ca, hoặc múa, đem các thứ hoa rải trên Phật và chúng tăng. Đó là những hoa cõi trời: hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha-mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha-mạn-thù-sa, hoa tán-đà-na, hoa ma-ha-tán-đà-na, hoa lư-chỉ-na, hoa ma-ha-lư-chỉ-na, hoa hương, hoa đại hương, hoa thích ý, hoa đại thích ý, hoa ái kiến, hoa đại ái kiến, hoa đoan nghiêm, hoa đệ nhứt đoan nghiêm.
Lại rải các thứ hương: hương trầm thủy, hương đa-dà-lâu, chiên-đàn, uất-kim, hương pha trộn, hương hải ngạn.
Lại đem tràng phan lộng báu cõi trời, kỹ nhạc cõi trời: đờn tranh, đờn sắt, ống địch, ống sanh, không hầu, khảy, thổi, cúng dường lên Phật, đồng nói kệ rằng:
Tôi nay đảnh lễ đức đại tinh tấn.
Đấng lưỡng túc tôn vô thượng chánh giác.
Đại chúng trời người chẳng thể biết thấu
Chỉ có đức Cù Đàm mới rõ được.
Đức Thế Tôn thuở trước vì chúng tôi
Trong vô lượng kiếp siêng tu khổ hạnh,
Tại sao một mai bỏ thệ nguyện cũ
Mà bèn xả mạng muốn nhập niết bàn?
Tất cả chúng sanh chẳng thể thấy biết
Tạng bí mật của chư Phật Thế Tôn,
Do nhơn duyên này khó đặng xuất ly
Luân chuyển trong sanh tử đọa ác đạo.
Như Phật đã từng nói A La Hán
Tất cả đều sẽ đến nơi niết bàn,
Công hạnh rất sâu của Phật như vậy
Hạng phàm phu ngu mê ai biết được.
Ban pháp cam lồ cho các chúng sanh
Vì muốn dứt trừ hết những phiền não,
Nếu có người uống chất cam lồ này
Chẳng còn lại thọ sanh lão bệnh tử.
Đức Như Lai Thế Tôn vì chữa trị
Trăm ngàn vô lượng tất cả chúng sanh
Bao nhiêu những bệnh nặng của chúng sanh
Đều làm tiêu diệt không còn thừa sót.
Đức Thế Tôn từ lâu khỏi bệnh khổ
Nên đặng gọi là Đức Phật thứ bảy,
Ngưỡng mong ngày nay lại rưới mưa pháp
Nhuần thấm giống công đức của chúng tôi.
Đại chúng trời người trong pháp hội này
Thỉnh cầu như vậy rồi đều yên lặng.
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử, ông đã đầy trí huệ vi diệu rất sâu như vậy, chẳng bị tất cả tà ma ngoại đạo phá hoại.
Này thiện nam tử! Nay ông thành tựu biện tài vô ngại. Ông đã từng cúng dường vô lượng hằng hà sa chư Phật quá khứ, nên có thể hỏi đức Như Lai những nghĩa như vậy.
Này thiện nam tử! Ta đã từ vô lượng vô biên ức na-do-tha trăm ngàn muôn kiếp, trừ hết bệnh căn, lìa hẳn sự dựa nằm. Vô lượng a-tăng-kỳ kiếp về quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Vô Thượng Thắng, đầy đủ mười hiệu. Đức Phật đó vì hàng Thanh Văn nói kinh Đại thừa Đại Niết Bàn này. Thuở đó ta cũng làm Thanh Văn của đức Phật ấy. Ta thọ trì kinh điển Đại Niết Bàn như vậy, đọc tụng thông thuộc, biên chép quyển kinh, rồi ta rộng vì người khác phân biệt giảng thuyết. Ta đem căn lành đó hồi hướng vô thượng Bồ Đề.
Này thiện nam tử! Từ đó trở đi, ta chưa từng có những phiền não nghiệp ác, chẳng đọa nơi ác đạo, chẳng hủy báng chánh pháp làm nhứt xiển đề, chẳng thọ thân hoàng môn, chẳng phạm năm tội nghịch, bốn tội trọng. Từ đó đến nay, thân tâm ta an ổn, không có các sự khổ não.
Này thiện nam tử! Nay ta thiệt không có tất cả tật bệnh. Vì chư Phật Thế Tôn từ lâu đã xa lìa tất cả bệnh khổ. Các chúng sanh chẳng biết giáo pháp bí mật đại thừa Phương Đẳng, bèn cho rằng đức Như Lai thiệt có bệnh.
Này thiện nam tử! Như nói đức Như Lai là sư tử trong loài người nhưng đức Như Lai thiệt chẳng phải là sư tử. Như nói đức Như Lai là rồng lớn trong loài người, nhưng đức Như Lai thiệt chẳng phải rồng. Đức Phật từ vô lượng kiếp đã xa lìa ác nghiệp. Nên biết những lời như vậy chính là giáo pháp bí mật của Như Lai.
Này thiện nam tử! Như nói đức Như Lai là người, là trời, nhưng thiệt ra đức Phật chẳng phải người, chẳng phải trời, cũng chẳng phải quỷ thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, chẳng phải ngã, chẳng phải mạn, chẳng phải dưỡng dục, chẳng phải sĩ phu, chẳng phải làm, chẳng phải không làm, chẳng phải thọ, chẳng phải không thọ, chẳng phải Thế Tôn, chẳng phải Thanh Văn, chẳng phải thuyết, chẳng phải không thuyết. Những lời như vậy đều là giáo pháp bí mật của Như Lai.
Này thiện nam tử! Như nói đức Như Lai dường như biển cả, như núi Tu Di, nhưng đức Như Lai thiệt chẳng phải vị mặn, cũng chẳng phải đồng như đá núi. Phải biết lời nói như vậy là giáo pháp bí mật của Như Lai.
Này thiện nam tử! Như nói đức Như Lai như hoa Phân Đà Lợi, nhưng thiệt ra đức Phật chẳng phải hoa Phân Đà Lợi. Như nói đức Như Lai dường như cha mẹ, nhưng thiệt ra đức Như Lai chẳng phải cha mẹ. Như nói đức Như Lai là Đại thuyền sư, nhưng đức Như Lai chẳng phải Thuyền sư. Như nói đức Như Lai như Thương chủ, nhưng đức Như Lai thiệt chẳng phải Thương chủ. Những lời như vậy cũng là giáo pháp bí mật của Như Lai.
Này thiện nam tử! Như nói đức Như Lai hay trừ dẹp loài ma, nhưng thật đức Như Lai không có ác tâm muốn khiến ma bị xô dẹp. Như nói đức Như Lai trị được ung thư ghẻ độc, nhưng thật ra đức Phật chẳng phải thầy thuốc trị ung nhọt. Những lời như vậy cũng là giáo pháp bí mật của Như Lai.
Này thiện nam tử! Như đức Phật trước kia đã nói, nếu có thiện nam, tín nữ nào có thể khéo tu hành ba nghiệp thân, khẩu, ý, lúc người đó chết, dầu trong thân tộc hoặc đem thi hài thiêu đốt, hoặc ném xuống sông, hoặc bỏ trong gò mả, chồn sói cầm thú cùng nhau đến xé ăn, những tâm ý thức của người đó liền sanh nơi cõi lành. Tâm thức như vậy thiệt không đi, không lại, cũng không chỗ đến, chỉ là trước sau giống nhau, nối nhau, tướng mạo chẳng sai khác. Lời nói như vậy là giáo pháp bí mật của Như Lai.
Này thiện nam tử! Nay ta nói rằng có bệnh cũng như vậy, cũng là giáo pháp bí mật của Như Lai. Đức Như Lai đẳng Chánh Giác thiệt không có bệnh nằm nghiêng bên hữu, cũng không rốt ráo nhập nơi niết bàn. Này Ca Diếp Bồ Tát! Đại Niết Bàn đây thiệt là thiền định rất sâu của chư Phật. Thiền định này chẳng phải cảnh giới của Thanh Văn, Duyên Giác.
Này thiện nam tử! Vừa rồi ông hỏi cớ chi đức Như Lai dựa nằm chẳng ngồi dậy, chẳng đòi uống ăn, chẳng dặn bảo quyến thuộc coi sóc sản nghiệp.
Này thiện nam tử! Tánh hư không cũng chẳng ngồi dậy, chẳng đòi uống ăn, chẳng dặn bảo quyến thuộc coi sóc sản nghiệp, cũng không đi, không lại, không sanh diệt, không già trẻ, không mọc lặn, hư bể, giải thoát, ràng buộc, cũng không nói mình, nói người, cũng không hiểu mình hiểu ngưởi, chẳng phải ăn, chẳng phải bệnh.
Này thiện nam tử! Chư Phật Thế Tôn cũng như vậy, dường như hư không, thế nào sẽ có những bệnh khổ ư?
Này thiện nam tử! Trong đời có ba hạng người bệnh khó trị: một là kẻ hủy báng đại thừa, hai là kẻ phạm tội ngũ nghịch, ba là hạng nhứt-xiển-đề, ba hạng bệnh này là rất nặng ở trong đời. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát đều không thể trị được.
Này thiện nam tử! Ví như có bệnh khó trị chắc chết, dầu có săn sóc, tùy ý thuốc men, hoặc không săn sóc, tùy ý thuốc men, người bệnh ấy chắc chết chẳng nghi. Ba hạng người trên đây cũng như vậy, dầu có Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát thuyết pháp cho, hay chẳng thuyết pháp, đều không thể làm cho họ phát tâm vô thượng bồ đề.
Này thiện nam tử! Ví như người bệnh có sự săn sóc, tùy ý thuốc men, thời có thể lành bệnh, nếu không ba việc này, thời bệnh chẳng lành. Cũng vậy, hàng Thanh Văn, Duyên Giác, theo Phật và Bồ Tát đặng nghe pháp rồi liền có thể phát tâm vô thượng bồ đề. Không phải chẳng nghe pháp mà có thể phát bồ đề tâm.
Này thiện nam tử! Ví như người bệnh, nếu được săn sóc, tùy ý thuốc men, hoặc không săn sóc, tùy ý thuốc men, đều được lành bệnh. Cũng vậy, có một hạng người, hoặc gặp Thanh Văn hay chẳng gặp, hoặc gặp Duyên Giác hay chẳng gặp, hoặc gặp Bồ Tát hay chẳng gặp, hoặc gặp Như Lai hay chẳng gặp, hoặc đặng nghe pháp hay chẳng đặng nghe, tự nhiên đặng thành vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đây là hạng người nào? Chính là người vì thân mình hay vì người khác, hoặc vì sợ sệt hoặc vì lợi dưỡng, hoặc vì dua nịnh, hoặc vì phỉnh gạt người mà biên chép kinh Đại Niết Bàn này, rồi thọ trì đọc tụng cúng dường cung kính, giải nói cho người khác.
Này thiện nam tử! Có năm hạng người đối với kinh điển Đại thừa Đại Niết Bàn này có bệnh mà tu hành, chẳng phải là đức Như Lai. Những gì là năm hạng?
Một là bậc dứt kiến-hoặc trong tam giới đặng quả Tu Đà Hoàn, chẳng đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, bảy lần sanh trong loài người, trên trời, dứt hẳn các sự khổ nhập niết bàn. Đây gọi là hạng người thứ nhứt có bệnh tu hành. Người này thuở vị lai, qua khỏi tám muôn kiếp sẽ đặng thành vô thượng chánh giác.
Bậc thứ hai dứt kiến-hoặc trong tam giới, sân, si, mạn, đặng quả Tư Đà Hàm, còn một lần sanh trong loài người, trên trời, dứt hẳn các khổ nhập niết bàn. Đây gọi là bậc thứ hai có bệnh tu hành. Người này thuở vị lai qua khỏi sáu muôn kiếp, sẽ đặng thành vô thượng chánh giác.
Bậc thứ ba dứt kiến-hoặc trong tam giới, tư-hoặc cõi dục đã dứt, đặng quả A Na Hàm, chẳng còn sanh trong loài người, dứt hẳn các khổ nhập niết bàn. Đây gọi là bậc thứ ba có bệnh tu hành. Người này thuở vị lai qua khỏi bốn muôn kiếp, sẽ đặng quả vô thượng chánh giác.
Bậc thứ tư dứt hẳn tham dục, sân khuể, ngu si, đặng quả A La Hán không còn phiền não nhập niết bàn, cũng chẳng phải hạnh kỳ lân độc nhứt. Đây gọi là bậc thứ tư có bệnh tu hành. Người này thuở vị lai qua khỏi hai muôn kiếp, sẽ đặng quả vô thượng chánh giác.
Bậc thứ năm dứt hẳn tham dục, sân khuể, ngu si, đặng quả Bích Chi Phật, phiền não hết sạch nhập niết bàn, thiệt là hạnh kỳ lân độc nhứt. Đây gọi là bậc thứ năm có bệnh tu hành. Người này thuở vị lai qua khỏi mười ngàn kiếp, sẽ đặng quả vô thượng chánh giác.
Đây gọi là năm hạng người có bệnh tu hành, chẳng phải đức Như Lai vậy."
No comments:
Post a Comment