Sunday, January 11, 2015

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q1) - Phẩm THÁNH HẠNH (phần 2)

Lúc Bồ Tát quán sát như vậy rồi, thời đặng tứ niệm xứ. Đặng tứ niệm xứ rồi thời đặng trụ nơi trong bậc kham nhẫn. Đại Bồ Tát trụ nơi bậc này thời có thể kham nhẫn những sự tham dục, sân khuể, ngu si. Cũng có thể kham nhẫn những sự lạnh, nóng, đói, khát, muỗi, mòng, rận, rệp, gió dữ, đụng chạm, thô cứng, các thứ tật dịch, chửi rủa mắng nhiếc, đánh đập khổ sở tất cả những sự khổ não nơi thân, nơi tâm đều có thể nhẫn. Vì thế nên gọi là trụ bậc kham nhẫn."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Bồ Tát chưa trụ đặng bậc bất động, lúc trì tịnh giới, có nhơn duyên gì đặng phá giới chăng?"
- "Này thiện nam tử! Bồ Tát chưa đặng trụ bậc bất động, vì có nhơn duyên thời có thể đặng phá giới."
- "Bạch Thế Tôn! Nhơn duyên như thế nào?"
- "Này thiện nam tử! Nếu Bồ Tát biết rằng do nhơn duyên phá giới, thời có thể làm cho người ưu thích thọ trì kinh điển đại thừa, lại có thể làm cho người đọc tụng thông thuộc, biên chép quyển kinh, giảng thuyết rộng ra, chẳng thối chuyển nơi vô thượng chánh giác. Vì cớ như vậy nên đặng phá giới. Lúc đó Bồ Tát nên nghĩ rằng: ta thà chịu tội đọa nơi A Tỳ địa ngục một kiếp hoặc dưới một kiếp, cần phải làm cho người như vậy chẳng thối chuyển nơi vô thượng chánh giác. Do nhơn duyên này Bồ Tát đặng phá tịnh giới."
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát nhiếp thủ hộ trì người như vậy, làm cho chẳng thối chuyển tâm bồ đề, quyết không vì duyên cớ ấy phá giới mà bị đọa A Tỳ."
Phật khen Văn Thù Sư Lợi: "Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông vừa nói. Ta nhớ thuở xưa, nơi Diêm Phù Đề này, ta làm đại quốc vương, tên là Tiên Dư. Nhà vua mến ưa kính trọng kinh điển đại thừa, tâm vua thuần thiện, không có tật ác, tật đố, san lẫn, miệng vua thường nói lời dịu dàng, lời lành, thân vua thường nhiếp hộ kẻ nghèo cùng cô độc. Bố thí, tinh tấn, không ngừng nghỉ.
Thuở đó không có Phật ra đời, cũng không Thanh Văn, Duyên Giác. Nhà vua ưa thích kinh điển đại thừa phương đẳng, trong mười hai năm phụng thờ Bà La Môn cung cấp những đồ cần dùng. Qua khỏi mười hai năm, nhà vua bảo Bà La Môn các ngài nay phải phát tâm vô thượng bồ đề. Bà La Môn đáp: tâu Đại vương tánh bồ đề là không chỗ có, kinh điển đại thừa cũng như vậy. Sao Đại vương muốn cho người cùng vật đồng như hư không.
Nhà vua lúc đó tâm tôn trọng đại thừa nghe Bà La Môn hủy báng Phương Đẳng đại thừa, bèn giết Bà La Môn.
Này thiện nam tử! Do nhơn duyên trên đây, từ đó trở đi, ta chẳng bị đọa địa ngục.
Này thiện nam tử! Ủng hộ nhiếp trì kinh điển đại thừa, bèn có vô lượng thế lực như vậy."
Phật lại bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Có thánh hạnh là tứ thánh đế: khổ, tập, diệt, đạo. Khổ là tướng bức bách. Tập là tướng có thể sanh trưởng. Diệt là tướng tịch diệt. Đạo là tướng đại thừa. Lại khổ là hiện tướng. Tập là chuyển tướng. Diệt là trừ tướng. Đạo là năng trừ tướng. Lại khổ có ba tướng: tướng khổ khổ, tướng hành khổ, tướng hoại khổ.Tập là hai mươi lăm cõi. Diệt là diệt dứt hai mươi lăm cõi. Đạo là tu tập giới, định, huệ.
Này thiện nam tử! Pháp hữu lậu có hai thứ: có nhơn, có quả. Pháp vô lậu cũng có hai thứ: có nhơn, có quả
Quả hữu lậu thời gọi là khổ. Nhơn hữu lậu thời gọi là tập. Quả vô lậu thời gọi là diệt. Nhơn vô lậu thời gọi là đạo.
Này thiện nam tử! Có tám tướng gọi là khổ: sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm thạnh khổ. Có thể sanh ra tám thứ khổ như vậy gọi đó là "Tập". Nơi không có tám thứ khổ như vậy đây gọi là "Diệt". Mười trí lực, bốn vô sở úy, ba niệm xứ, đại bi, đây gọi là "Đạo".
Sanh là tướng sanh ra có năm: một là mới sanh ra, hai là đến rốt sau, ba là tăng trưởng, bốn là xuất thai, năm là chủng loại sanh.
Lão có hai thứ: một là niệm niệm lão, hai là chung thân lão. Lại có hai: một là tăng trưởng lão, hai là diệt hoại lão.
Bệnh là nói tứ đại chẳng điều thích lẫn nhau, cũng có hai: một là thân bệnh, hai là tâm bệnh. Thân bệnh có năm: một là nhơn nơi nước, hai là nhơn nơi gió, ba là nhơn nơi nhiệt, bốn là tạp bệnh, năm là khách bệnh. Khách bệnh có bốn: một là chẳng phải phận sự gắng gỗ làm, hai là vì quên lầm mà té ngã, ba là dao, gậy, ngói, đá, bốn là quỷ mị dựa. Tâm bệnh cũng có bốn: một là hớn hở, hai là sợ sệt, ba là lo rầu, bốn là ngu si.
Này thiện nam tử! Thân bệnh, tâm bệnh phàm có ba thứ: một là nghiệp báo, hai là xa lìa chẳng đặng ác đối, ba là thời tiết thay đổi. Sanh ra các thứ nhơn duyên danh tự thọ bệnh sai khác như vậy. Nhơn duyên là những bệnh phong v.v… Danh tự là buồn nôn, phổi sưng, hơi lên, ho hen, tim nhảy, chảy kiết. Thọ sai khác là: nhức đầu, đau mắt, đau tay, đau chân, v.v… Đây gọi là bệnh.
Tử là bỏ thân đã thọ. Bỏ thân cũng có hai: một là căn mạng hết mà chết, hai là do duyên ngoài mà chết. Mạng hết mà chết có ba: một là mạng hết chẳng phải phước hết, hai là phước hết chẳng phải mạng hết, ba là phước mạng đều hết. Duyên ngoài chết cũng có ba: một là chẳng phải phần, tự hại mà chết, hai là bị kẻ khác hại chết, ba là do mình và kẻ khác mà chết. Lại có ba thứ chết: một là phóng dật mà chết, hai là phá giới mà chết, ba là mạng căn hư hoại mà chết. Những gì gọi là phóng dật mà chết? Nếu có hủy báng đại thừa phương đẳng bát nhã ba-la-mật, đây gọi là phóng dật mà chết. Những gì gọi là phá giới mà chết? Hủy phạm giới cấm của chư Phật ba đời, đây gọi là phá giới mà chết. Những gì gọi là mạng căn hư hoại mà chết? Bỏ thân ngũ ấm, đây gọi là mạng căn hư hoại mà chết. Do đây nên gọi rằng chết là rất khổ.
Những gì gọi là ái biệt ly khổ? Những vật mến yêu bị hư hoại lìa tan. Vật mến yêu bị hư hoại lìa tan đó cũng có hai thứ: một là ngũ ấm trong loài người hư hoại, hai là ngũ ấm trong cõi trời hư hoại. Ngũ ấm mến yêu trong cõi người cõi trời phân biệt tính đếm có vô lượng thứ. Đây gọi là ái biệt ly khổ.
Những gì gọi là oán tắng hội khổ? Tức là chẳng yêu thương mà hội họp cùng nhau, chẳng yêu thương hội họp này cũng có ba: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Ba ác thú như vậy phân biệt tính đếm có vô lượng thứ. Đây gọi là oán tắng hội khổ.
Những gì gọi là cầu bất đắc khổ? Cũng có hai thứ: một là chỗ trông mong được mà cầu chẳng được, hai là tốn nhiều công lực mà chẳng đặng kết quả. Đây gọi là cầu bất đắc khổ.
Những gì gọi là ngũ ấm thạnh khổ? Chính là sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ. Đây gọi là ngũ ấm thạnh khổ.
Này thiện nam tử! Sanh làm cội gốc có ra lão khổ nhẫn đến ngũ ấm thạnh khổ, bảy khổ như vậy.
Này thiện nam tử! Luận về sự già suy, chẳng phải tất cả đều có. Phật cùng chư Thiên một bề quyết định không, trong loài người thời chẳng nhứt định, hoặc có hoặc không.
Này thiện nam tử! Thọ thân trong ba cõi không ai chẳng có sanh, cho nên sanh là cội gốc của tất cả thân. Còn già thời chẳng quyết định.
Chúng sanh trong thế gian, do điên đảo che mờ tâm tánh, nên tham đắm nơi sanh mà nhàm lo già chết. Bồ Tát chẳng như vậy. Bồ Tát quán sát thân mới sanh đã thấy nỗi khổ.
Này thiện nam tử! Như có người nữ vào nhà người khác. Người nữ này xinh đẹp chuỗi ngọc trang nghiêm nơi thân. Chủ nhà hỏi rằng: nàng tên gì, thuộc nơi ai? Người nữ đáp rằng: thân tôi tức là công đức đại thiên.
Chủ nhà hỏi: nàng đến để làm gì?
Người nữ đáp: chỗ nào tôi đến, tôi có thể cho các thứ vàng, bạc, lưu ly, pha lê, chơn châu, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ.
Chủ nhà nghe rồi vui mừng hớn hở: nay ta phước đức, nên khiến nàng này đến nhà ta. Liền bèn đốt hương, rải hoa cúng dường, cung kính lễ bái.
Lại thấy ngoài cửa có một người nữ hình dạng xấu xa, áo xiêm rách nát, da thứa nứt nẻ, sắc mặt xám trắng, dơ dáy hôi hám. Chủ nhà hỏi: nàng tên gì, thuộc về ai?
Cô gái đáp: tôi tên Hắc ám.
- Tại sao tên Hắc ám?
- Tôi đi đến chỗ nào có thể làm cho nhà đó hao tài, tốn của.
Chủ nhà nghe xong bèn cầm dao bén bảo rằng: nàng nếu chẳng đi, ta sẽ chém chết.
Cô gái nói: ông ngu si lắm, không trí huệ.
Chủ nhà hỏi: tại sao nói ta là ngu si không có trí huệ.
Cô gái đáp: người đẹp đứng trong nhà ông chính là chị của tôi. Tôi thường đi chung với chị, nếu ông đuổi tôi cũng phải đuổi chị tôi.
Chủ nhà trở vô hỏi Công Đức Thiên: ngoài cửa có cô gái nói là em của nàng có phải vậy chăng?
Công Đức Thiên nói: thiệt là em gái tôi, tôi cùng đi với nó, chưa có lúc nào lìa nhau. Tùy ở chỗ nào tôi thường làm việc tốt, còn nó thường làm việc xấu. Tôi thường làm việc lợi ích, còn nó luôn làm sự suy hao. Nếu ai yêu tôi cũng phải yêu nó. Nếu cung kính tôi, cũng phải cung kính nó.
Chủ nhà liền nói: Nếu có cả sự tốt lẫn sự xấu như vậy, thời ta chẳng cần, hai nàng nên tùy ý đi đi.
Lúc đó hai người nữ cùng dắt nhau trở về. Chủ nhà thấy cả hai đi rồi, trong lòng rất vui mừng hớn hở.
Bấy giờ hai người nữ lại cùng dắt nhau đến một nhà nghèo. Người nghèo này lòng rất vui mừng mời rằng: từ nay trở đi, xin hai nàng ở luôn nhà tôi.
Công Đức Thiên nói: chúng tôi vừa bị người xua đuổi, cớ sao ông lại mời chúng tôi ở?
Người nghèo nói: nay nàng tưởng đến tôi, vì nàng nên tôi phải kính cô kia, vì thế nên tôi mời cả hai ở nơi nhà tôi.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát cũng như vậy, chẳng nguyện sanh cõi trời, vì sanh thời có già, bệnh, chết thế nên đều bỏ. Không chút tâm luyến ái. Kẻ phàm phu chẳng biết lỗi lầm khổ hoạn của già, bệnh, chết nên họ tham luyến sanh tử.
Này thiện nam tử! Như đứa trẻ dòng Bà La Môn đương lúc quá đói thấy trong đống phân có trái am-la, bèn lượm lên. Người trí ngó thấy quở rằng: ngươi là Bà La Môn, giòng giống thanh tịnh, cớ sao lại lượm trái nhơ trong đống phân. Đồng tử nghe xong hổ thẹn nói: tôi thiệt chẳng ăn, muốn đem trái ấy rửa sạch rồi ném bỏ. Người trí nói: ngươi ngu si quá, nếu rồi sẽ ném bỏ, đáng lẽ chẳng nên lượm lấy.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát cũng như vậy, đối với vấn đề sanh chẳng lãnh thọ, cũng chẳng dứt bỏ, như người trí kia quở trách đứa trẻ. Kẻ phàm phu thích sanh ghét tử, như đứa trẻ kia lượm trái dơ rồi trở lại bỏ.
Này thiện nam tử! Như nơi ngã tư đường có người dựng đầy đồ ăn thơm ngon trong chậu, trong bát, bày ra để bán. Có người khách từ xa đến quá đói, thấy đồ ăn ấy thơm ngon, liền hỏi đây là vật gì? Người bán nói: đây là đồ ăn thơm ngon, nếu ai ăn thứ này, thời đặng sắc tốt, sức mạnh, có thể hết đói, hết khát và đặng thấy chư thiên. Nhưng chỉ có một tai hại là sẽ chết. Người khác nghe xong nghĩ rằng: nay tôi chẳng dùng sắc đẹp, sức mạnh, thấy chư thiên, vì tôi chẳng muốn chết. Nghĩ xong hỏi rằng: ăn vật thực này nếu phải chết sao ông lại đem bán.
Người bán đáp: Những người có trí không ai bằng lòng mua. Chỉ có kẻ ngu, chẳng biết việc này, họ tham ăn nên họ trả giá đắt cho tôi.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát cũng như vậy, chẳng nguyện sanh cõi trời, đặng sắc đẹp, đặng sức mạnh, thấy chư thiên, vì sanh cõi trời chẳng khỏi những khổ não. Kẻ phàm phu ngu si sanh chỗ nào cũng đều tham luyến vì họ chẳng thấy già, bệnh, chết.
Này thiện nam tử! Ví như cây độc, gốc rễ cũng có thể giết người, thân cây, vỏ, bông, trái, hột đều cũng có thể giết người. Tất cả thân ngũ ấm trong hai mươi lăm cõi đều có thể hại chúng sanh cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Ví như phân nhơ, nhiều hay ít đều hôi cả. Cũng vậy thọ sanh dầu sống lâu tám muôn tuổi, bảy mươi tuổi cũng đều khổ não cả.
Này thiện nam tử! Ví như hầm sâu nguy hiểm, lấy cỏ che trên miệng hầm, bờ bên kia của hầm có mạch cam lồ, người nào được ăn chất cam lồ, sẽ sống lâu ngàn năm không bệnh tật, an ổn, khoan khoái. Kẻ ngu si tham chất cam lồ, chẳng biết dưới đó có hầm sâu, bèn chạy đến lấy, chẳng ngờ trật chân té xuống hầm mà chết. Người trí biết sự nguy hiểm, nên không đến lấy chất cam lồ.
Đại Bồ Tát cũng như vậy còn chẳng muốn nhận lấy vật thực thượng diệu cõi trời huống là trong loài người. Kẻ phàm phu bèn ở nơi địa ngục nuốt toàn sắt, huống là thức ăn thượng diệu cõi trời cõi trời mà có thể chẳng ăn.
Này thiện nam tử! Do những điều thí dụ như vậy, ngoài ra còn vô lượng thí dụ khác, nên biết thọ sanh thiệt là rất khổ.
Đây gọi là Đại Bồ Tát trụ nơi kinh đại thừa Đại Niết Bàn quán sát sanh là khổ.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát trụ nơi kinh Đại thừa Đại Niết Bàn quán sát lão là khổ như thế nào?
Sự già yếu hay làm ho hen, ngăn nghẹn hơi đưa lên, có thể làm mất sức mạnh, trí nhớ kém, sự tráng kiện không còn, mất sự an vui thơ thới, khoan khoái. Tuổi già hay làm lưng còng, mỏi nhọc, lười biếng, bị người khi dễ.
Này thiện nam tử! Ví như hoa sen nở tốt đầy trong ao nước rất đáng ưa thích, gặp trận mưa đá, tất cả đều hư nát. Cũng vậy, tuổi già có thể phá hoại tráng kiện, sắc đẹp.
Này thiện nam tử! Ví như quốc vương có một trí thần dùng binh giỏi. Có vua nước địch chống cự chẳng thuận hảo. Quốc vương sai trí thần đem binh qua đánh, bắt vua nước nghịch mang về dâng cho quốc vương. Cũng vậy, tuổi già bắt được tráng kiện, sắc đẹp giao cho tử vương.
Này thiện nam tử! Ví như trục xe đã gãy, xe đó không còn dùng được. Cũng vậy, già suy thời không còn dùng được vào việc gì.
Này thiện nam tử! Như nhà giàu to có nhiều của báu: vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não. Có bọn cướp nếu vào đặng nhà đó thời có thể cướp giựt hết cả. Cũng vậy, tuổi tráng kiện và sắc đẹp thường bị giặc già suy cướp giựt.
Này thiện nam tử! Ví như người nghèo tham thức ăn ngon, y phục mịn màng, dầu có hy vọng nhưng không thể được. Cũng vậy, tuổi già duy dầu có tâm tham, muốn hưởng thọ ngũ dục sung sướng mà chẳng thể đặng.
Này thiện nam tử! Như con rùa ở trên đất cao lòng nó thường nghĩ đến nước. Cũng vậy, người đời đã già suy khô héo mà lòng họ thường nhớ tưởng những khoái lạc ngũ dục thuở tráng kiện.
Này thiện nam tử! Như mùa thu ai cũng ưa ngắm hoa sen nở, đến khi hoa tàn héo, mọi người đều không thích. Cũng vậy, sự tráng kiện, sắc đẹp mọi người đều ưa thích, đến khi già suy ai cũng nhàm ghét.
Này thiện nam tử! Ví như cây mía, sau khi bị ép, bã xác không còn vị ngọt. Cũng vậy, tráng kiện sắc đẹp đã bị già ép, thời không có ba thứ vị: một là vị xuất gia, hai là vị đọc tụng, ba là vị tọa thiền.
Này thiện nam tử! Ví như mặt trăng tròn ban đêm thời tỏ sáng, ban ngày thời không như vậy. Cũng vậy, tráng kiện thời hình mạo nở nang xinh đẹp, già thời suy yếu, thân thể và tinh thần kém suy.
Này thiện nam tử! Ví như nhà vua thường dùng chánh pháp cai trị nhơn dân, chơn thật không lừa dối, từ bi ưa bố thí. Thuở đó nhà vua bị nước địch xâm lăng đánh bại, bèn lưu vong đến nước khác. Nhơn dân trong nước kia thấy nhà vua đều cảm thương nói rằng: đại vương ngày trước dùng chánh pháp trị nước chẳng uổng lạm bá tánh, thế nay sao lại lưu vong đến đây. Cũng vậy, loài người đã bị già suy làm bại hoại, thời thường tán thán sự nghiệp đã làm thuở tráng kiện.
Này thiện nam tử! Ví như tim đèn dầu nhờ mỡ dầu nhưng mỡ dầu sẽ hết, thế chẳng lâu dài. Cũng vậy, thân người dầu nhờ cậy sự tráng kiện, nhưng tráng kiện phải trải qua già suy, đâu còn dùng lâu.
Này thiện nam tử! Ví như con sông cạn khô không có thể lợi ích cho người, cho phi nhơn, chim thú. Cũng vậy, thân người bị già suy khô héo, không còn làm được việc gì, chẳng thể có lợi ích.
Này thiện nam tử! Ví như cây cheo leo bờ sông, nếu gặp gió to, ắt sẽ đổ ngã. Như vậy đến tuổi già ắt phải chết, thế chẳng còn được.
Này thiện nam tử! Như trục xe đã gãy, không thể chở chuyên. Cũng vậy, già suy không thể học hỏi tất cả pháp lành.
Này thiện nam tử! Như trẻ thơ bị người khinh khi. Cũng vậy, già suy thường bị người khinh hủy.
Này thiện nam tử! Do những điều dụ như vậy cùng vô lượng thí dụ khác nên biết sự già thiệt là rất khổ.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát trụ nơi kinh Đại thừa Đại Niết Bàn quán sát già là khổ.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát trụ nơi kinh Đại thừa Đại Niết Bàn quán sát bệnh khổ như thế nào?
Ví như mưa đá làm hại mạ lúa. Cũng vậy, tật bệnh có thể phá hoại tất cả những sự an ổn vui vẻ.
Như người có oán thù, tâm thường lo rầu sợ sệt. Cũng vậy, tất cả chúng sanh thường bị bệnh khổ, lo rầu không yên.
Ví như có người hình dung xinh đẹp. Vương Phi tâm dục yêu thương, sai sứ đòi đến để cùng giao thông. Vua bắt đặng liền truyền lịnh khoét một mắt, cắt một vành tai, chặt một tay, một chân, bấy giờ người đó hình dung đổi khác bị người nhờm gớm khinh rẻ. Cũng vậy, thân người trước thời dung mạo tươi tốt, tai mắt đầy đủ, đã bị bệnh khổ hành hạ, thời xấu xa bị người nhờm gớm.
Như cây chuối, cây tre, cây lau, con la, hễ có con, có trái thì chết. Cũng vậy, người có bệnh thời chết.
Như vua Chuyển Luân, đại thần chủ binh thường làm tiền đạo đi trước, nhà vua theo sau, cũng như chúa cá, chúa kiến, chúa ốc, chúa trâu, thương chủ, lúc ở trước chúng mà đi, thời toàn chúng thảy đều đi theo không rời. Cũng vậy, sự chết thường theo sát bệnh khổ không rời.
Này thiện nam tử! Nhơn duyên của bệnh làm cho khổ não, rầu lo, buồn than, thân tâm không an ổn. Hoặc bị kẻ giặc cướp bức hại, trái nổi bể hư, phá hoại cầu cống, đều cũng có thể cướp giựt mạng sống. Bệnh lại có thể phá hoại sự tráng kiện, sắc đẹp, thế lực, an vui, mất lòng tàm quý, có thể làm cho thân tâm xót xa bứt rứt.
Do những điều dụ đó và vô lượng thí dụ khác, nên biết bệnh rất là khổ não. 
Đây gọi là Đại Bồ Tát tu hành kinh đại thừa Đại Niết Bàn quán sát bệnh khổ.
Này thiện nam tử! Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành kinh đại thừa Đại Niết Bàn quán sát tử khổ? Sự chết có thể đốt cháy tiêu diệt. Như hỏa tai khởi lên có thể đốt cháy tất cả, chỉ trừ cõi trời nhị thiền trở lên, vì thế lực của hỏa tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thể tiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ Tát trụ nơi đại thừa Đại Niết Bàn, vì thế lực của sự chết không đến được.
Như lúc thủy tai khởi lên, tất cả đều trôi, đều ngập, chỉ trừ cõi tam thiền trở lên, vì thế lực của thủy tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết làm chìm mất tất cả, chỉ trừ Bồ Tát trụ nơi đại thừa Đại Niết Bàn.
Như lúc phong tai khởi lên, có thể thổi tan tất cả, chỉ trừ cõi tứ thiền, vì thế lực của phong tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thể tiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ Tát trụ nơi đại thừa Đại Niết Bàn."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Cõi Tứ Thiền kia do cớ gì mà gió không thổi đến, nước chẳng ngập đến, lửa chẳng cháy đến?"
- "Này thiện nam tử! Cõi Tứ Thiền kia không có tất cả quá hoạn trong thân và ngoại cảnh.
Cõi Sơ Thiền có quá hoạn: trong có giác quán, ngoài có hỏa tai.
Cõi Nhị Thiền có quá hoạn: trong có vui mừng, ngoài có thủy tai.
Cõi Tam Thiền có quá hoạn: trong có hơi thở, ngoài có phong tai.
Cõi Tứ Thiền trong ngoài đều không quá hoạn, nên ba thứ tai họa lớn chẳng thể đến được.
Đại Bồ Tát cũng như vậy, an trụ nơi đại thừa Đại Niết Bàn, trong ngoài đều không tất cả quá hoạn, nên sự chết chẳng đến được.
Lại này thiện nam tử! Như Kim Súy điểu có thể nuốt, có thể tiêu tất cả loài rồng, cá và châu báu, vàng, bạc, v.v…, chỉ trừ chất kim cương không tiêu được. Cũng vậy, sự chết có thể nuốt, có thể tiêu tất cả chúng sanh, chỉ không tiêu được Đại Bồ Tát trụ nơi đại thừa Đại Niết Bàn.
Lại này thiện nam tử! Ví như những cỏ cây ở bờ sông, nước lụt dâng lên đều trôi theo dòng vào biển lớn, chỉ trừ cây dương liễu, vì thứ cây này mềm dẻo. Cũng vậy, tất cả chúng sanh đều trôi lăn vào biển chết, chỉ trừ Bồ Tát trụ nơi đại thừa Đại Niết Bàn.
Lại này thiện nam tử! Như thần Na La Diên có thể hàng phục tất cả lực sĩ, chỉ trừ gió to vì gió to vô ngại. Cũng vậy, sự chết có thể hàng phục tất cả chúng sanh chỉ trừ Bồ Tát trụ nơi đại thừa Đại Niết Bàn, vì bậc này vô ngại.
Lại này thiện nam tử! Ví như có người đối với kẻ thù giả làm thân thiện, theo sát bên như bóng theo hình, chờ khi thuận tiện mà giết đó, nếu phòng bị chặt chẽ, thời người kia không hại được. Cũng vậy, sự chết luôn theo rình chúng sanh chờ dịp làm hại, chỉ không thể hại được bậc Đại Bồ Tát trụ nơi đại thừa Đại Niết bàn, vì bậc Bồ Tát này chẳng phóng dật.
Lại này thiện nam tử! Ví như trời bỗng mưa kim cương xối xuống tất cả cỏ cây, núi rừng, đất đá, ngói, đá, vàng, bạc, lưu ly cùng tất cả vật đều bị hư nát, chỉ kim cương chơn bảo không bị hư. Cũng vậy, sự chết đều có thể phá hoại tất cả chúng sanh, chỉ trừ kim cương Bồ Tát trụ nơi Đại thừa Đại Niết Bàn.
Lại này thiện nam tử! Như Kim Súy điểu có thể nuốt các loài rồng, chỉ không nuốt được rồng thọ Tam quy y. Cũng vậy sự chết có thể nuốt tất cả chúng sanh, chỉ trừ Bồ Tát trụ ba môn chánh định: không, vô tướng, vô nguyện.
Lại này thiện nam tử! Như độc rắn ma-la, khi rắn này cắn nhằm người, những chú hay, thuốc tốt đều không cứu được, chỉ có chú A Kiệt Đa Tinh là có thể chữa lành. Cũng vậy, sự chết tất cả phương thuốc đều không cứu được, chỉ trừ Bồ Tát trụ nơi Đại thừa Đại Niết Bàn.
Lại này thiện nam tử! Như có người bị nhà vua giận, có thể dùng lời dịu dàng khéo léo, dâng của cải châu báu mà đặng khỏi tội. Sự chết không như vậy, dầu cùng lời nói dịu dàng, tiền của châu báu để cống dâng cũng chẳng thoát khỏi.
Này thiện nam tử! Luận về sự chết là chỗ hiểm nạn, không gì giúp đỡ, đi đường xa xôi mà không bạn bè, ngày đêm đi luôn chẳng biết bờ mé, sâu thẳm tối tăm, không có đèn đuốc, nó vào không có cửa nẻo mà có chỗ nơi, dầu không chỗ đau đớn nhưng chẳng thể chữa lành, nó qua không ai ngăn được, nó đến không thể thoát được, không phá phách gì mà người thấy sầu khổ, nó không phải màu sắc xấu xa mà làm cho người kinh sợ. Nó ở bên thân người mà chẳng hay biết được.
Này Ca Diếp Bồ Tát, do những điều dụ đó cùng vô lượng thí dụ khác, nên biết sự chết thật là rất khổ.
Đây gọi là Đại Bồ Tát, tu hành kinh Đại thừa Đại Niết Bàn quán sát tử khổ.
Này thiện nam tử! Thế nào là Đại Bồ Tát trụ nơi kinh Đại thừa Đại Niết Bàn quán sát ái biệt ly khổ? Ái biệt ly này có thể làm cội gốc cho tất cả sự khổ. Như nói bài kệ rằng:
Nhơn ái sanh lo
Nhơn ái sanh sợ
Nếu lìa sự ái
Nào lo nào sợ.
Vì ái nên sanh sự lo khổ, vì lo khổ nên làm cho chúng sanh có già suy. Ái biệt ly khổ là nói sự chết. Vì biệt ly hay sanh những sự khổ vi tế, nay sẽ vì ông mà phân biệt rõ ràng.
Này thiện nam tử! Thuở quá khứ người sống vô lượng tuổi, có quốc vương tên là Thiện Trụ nhà vua trị nước tám muôn bốn ngàn năm. Trên đỉnh đầu của vua mọc lên một bứu thịt mềm nhuyễn như bông. Bứu ấy lần lần to lớn không làm đau nhức. Mãn mười tháng, bứu ấy nứt ra, sanh một đồng tử hình dung đẹp lạ. Nhà vua vui mừng đặt tên là Đảnh Sanh.
Thời gian sau, vua Thiện Trụ đem việc nước giao cho Thái tử Đảnh Sanh, rồi rời bỏ cung điện quyến thuộc vào núi tu hành. Ngày rằm Thái tử Đảnh Sanh lên ngôi, đương ở trên lầu cao tắm gội trai giới, phương đông liền có báu Kim Luân, bánh xe vàng đủ một ngàn cây căm tự nhiên bay đến. Vua Đảnh Sanh nghĩ rằng: từng nghe Ngũ Thông tiên nhơn nói: nếu dòng vua Sát Đế Lợi ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội trai giới, có báu Kim Luân đủ ngàn cây căm tự nhiên bay đến, thời nhà vua đó sẽ đặng làm Chuyển Luân Thánh vương. Nay ta nên thí nghiệm. Nghĩ xong, vua Đảnh Sanh tay tả bưng báu Kim Luân, tay hữu cầm lư hương, quỳ gối bên mặt mà phát thệ rằng: nếu đây thiệt là báu Kim Luân, thời nên bay đi như vua Chuyển Luân Thánh vương thuở quá khứ. Nhà vua phát thệ vừa xong, thời báu Kim Luân bay lên hư không, bay khắp mười phương, rồi trở về dừng lại trên tay tả vua Đảnh Sanh. Nhà vua vui mừng biết chắc mình sẽ là Chuyển Luân Thánh vương.
Sau đó không bao lâu, có tượng bảo xuất hiện, mình trắng như bạch liên hoa, xinh đẹp, mạnh mẽ đôi ngà chấm đất. Vì muốn thí nghiệm vua Đảnh Sanh liền bưng lư hương quỳ gối bên hữu mà phát thệ rằng: nếu thật là báu bạch tượng nên bay đi như thuở vua Chuyển Luân Thánh vương quá khứ. Phát thệ xong, bạch tượng liền từ sáng đến chiều bay đi khắp tám phương, tột đến mé biển, rồi trở về cung vua. Kế đó lại có mã bửu xuất hiện, lông màu xanh biếc mướt đẹp, lông đuôi cùng gáy màu vàng ròng. Vì muốn thí nghiệm vua Đảnh Sanh tay bưng lư hương, quỳ gối bên hữu phát thệ rằng: nếu thiệt là mã bảo thời phải như con của Chuyển Luân Thánh Vương thuở quá khứ. Phát thệ xong, từ sáng đến chiều, mã bảo ấy đi khắp tám phương, đến mé biển rồi trở về cung vua.
Kế đó lại có nữ bảo xuất hiện xinh đẹp đệ nhứt, chơn lông thoảng mùi chiên đàn, hơi miệng thơm sạch như hoa sen xanh, mắt sáng nhìn xa một do tuần, tai nghe, mũi ngửi cũng xa như mắt, lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt, da mịn láng như lá đồng dỏ, rất thông minh có trí huệ, lời nói dịu dàng đối với tất cả mọi người. Tay người nữ ấy lúc chạm đến áo của vua, liền biết thân vua khoẻ mạnh hay bệnh hoạn, cũng biết những ý nghĩ của vua.
Kế đó trong cung vua tự nhiên có Ma-ni bảo châu lớn bằng bắp vế của người, màu thuần xanh, trong suốt, trong chỗ tối có thể chiếu sáng một do tuần. Nếu trời mưa giọt lớn như trục xe, thế lực của bảo châu này có thể che một do tuần, giọt mưa không rơi xuống được.
Sau đó, lại có chủ tạng thần hiện ra, cặp mắt có thể thấy thấu những kho châu báu ở trong lòng đất, tùy ý vua muốn đều có thể dâng đủ. Vua Đảnh Sanh muốn thí nghiệm bèn cùng chủ tạng thần ngồi thuyền ra biển, vua bảo chủ tạng thần nay ta muốn đặng châu báu. Chủ tạng thần liền lấy hai tay quậy nước biển, đầu mười ngón tay liền hiện ra mười kho châu báu lấy dâng cho vua tâu rằng: "Tùy ý nhà vua chọn dùng, còn thừa lại nên ném trả xuống biển".
Kế đó lại có chủ binh thần xuất hiện, thao lực đệ nhứt, điều khiển bốn binh chủng rất giỏi. Lúc vua cần binh thời hiện quân lính ra để dùng. Lúc chẳng dùng binh, thời quân lính ẩn mất. Xứ nào chưa hàng phục chủ binh thần này có thể làm cho hàng phục. Xứ nào đã hàng phục, thời đủ sức giữ gìn.
Lúc đó vua Đảnh Sanh tự biết là Chuyển Luân Vương, bèn bảo các quan: "Cõi Diêm Phù Đề này an ổn giàu vui, nay bảy báu đã đủ, cả ngàn vương tử cũng đủ, giờ đây nên làm việc gì?"
Các quan tâu: "Châu Phất Bà Đề phương đông còn chưa quy thuận, đại vương nên đem binh qua chinh phục."
Vua Đảnh Sanh bèn cùng thất bảo bay qua châu Phất Bà Đề, nhơn dân trong châu đó đều vui mừng quy thuận.
Các quan lại tâu nên chinh phục châu Cù Đà Ni ở phương tây. Kế đó lại đến chinh phục châu Uất Đơn Việt. Sau khi chinh phục ba châu xong. Vua Đảnh Sanh bảo các quan: "Châu Nam Diêm Phù Đề này cùng ba châu đều an ổn giàu vui, tất cả đều quy thuận ta, nay đây lại nên làm việc gì?"
Các quan tâu: "Cõi trời Đao Lợi tuổi thọ dài lâu, an ổn, khoái lạc, thân chư thiên xinh đẹp hơn nhơn gian, cung điện nhẫn đến giường ghế toàn bằng bảy báu, cậy phước trời chưa chịu đến quy phục, nay nên đem binh đến đánh dẹp."
Vua Đảnh Sanh lại cùng thất bảo bay lên cõi trời Đao Lợi, trông thấy một cây màu xanh đậm bèn hỏi đại thần: "Đó là cây gì?"
Đại thần tâu: "Cây ấy tên là Ba Lợi Chất Đa La, chư thiên cõi Đao Lợi này đến ngày mùa hạ thường tựu hợp vui chơi dưới cây đó."
Lại trông thấy màu trắng như bạch vân, vua Đảnh Sanh hỏi đại thần chỗ đó là gì? Đại thần tâu đó là thiện pháp đường, chư thiên cõi Đao Lợi thường nhóm nơi đó để bàn luận những việc cõi trời cõi người.
Thiên Chúa Thích Đề Hoàn Nhơn biết vua Đảnh Sanh đã đến, liền ra tiếp rước, cầm tay vào thiện pháp đường lên tòa mà ngồi. Hai vua hình dung tướng mạo giống nhau, chỉ có đôi mắt nhìn nháy là khác nhau.
Lúc đó vua Đảnh Sanh nghĩ rằng: nay ta có thể đuổi thiên chúa này để ta ở đây làm thiên vương.
Thiên Đế Thích vốn thọ trì đọc tụng kinh điển Đại thừa, thường vì chư thiên giảng thuyết, chỉ chưa thông đạt hết thâm nghĩa của kinh. Do thọ trì giảng thuyết đại thừa nên Thiên Đế có oai đức lớn.
Khi vua Đảnh Sanh khởi ác tâm đối với Thiên Đế, tổn phước liền tự rớt xuống Diêm Phù Đề, nhớ tiếc cõi trời lòng rất khổ não. Không bao lâu vua Đảnh Sanh phải bệnh chết.
Này thiện nam tử! Thiên Đế thuở đó chính là Phật Ca Diếp, vua Đảnh Sanh thời là tiền thân của ta.

Này thiện nam tử! Phải biết ái biệt ly như vậy rất là khổ não.

No comments:

Post a Comment