Thursday, April 16, 2015

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q2) - Bổ khuyết tâm kinh

BỔ KHUYẾT TÂM KINH
Ma ha Bát nhã Ba La Mật Đa tâm kinh
Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị. Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng: bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới; vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử diệc, vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc, vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề tát đỏa y Bát nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn.
Tam thế chư Phật y Bát nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc a-nậu đa-la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát nhã Ba-la-mật-đa chú. Tức thuyết chú viết:
"Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha".

VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN
Nam mô A Di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa, tỳ ca lan đế a di rị đa, tỳ ca lan đa, già di nị già già na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần)
Khể thủ Tây phương An Lạc quốc
Tiếp dẫn chúng sanh đại đạo sư
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ
Ngã kim phổ nguyện vị tứ ân tam hữu, cập pháp giới chúng sanh cầu ư chư Phật, nhất thừa vô thượng bồ đề đạo cố, chuyên tâm trì niệm A Di Đà Phật vạn đức hồng danh kỳ sanh tịnh độ. Duy nguyện Từ Phụ, A Di Đà Phật ai lân nhiếp thọ từ bi gia hộ.
A Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di,
Hám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật. (Niệm 10, 20, 30 lần tùy ý)
Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát (10 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát (10 lần)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (10 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (10 lần)

HỒI HƯỚNG
Đệ tử chúng đẳng, hiện thị sanh tử phàm phu tội chướng thâm trọng luân hồi lục đạo, khổ bất khả ngôn; kim ngộ tri thức, đắc văn A Di Đà danh hiệu, bổn nguyện công đức, nhất tâm xưng niệm cầu nguyện vãng sanh, nguyện Phật từ bi bất xả, ai lân nhiếp thọ, đệ tử chúng đẳng, bất thức Phật thân, tướng hảo quang minh, nguyện Phật thị hiện, lĩnh ngã đắc kiến, cập kiến Quan Âm Thế Chí Bồ Tát chúng, bỉ thế giới trung, thanh tịnh trang nghiêm, quang minh diệu tướng đẳng, linh ngã liễu liễu đắc kiến A Di Đà Phật.
Ngã kim trì niệm A Di Đà
Tức phát bồ đề quảng đại nguyện
Nguyện ngã định huệ tốc viên minh
Nguyện ngã công đức giai thành tựu
Nguyện ngã thắng phước biến trang nghiêm
Nguyện cộng chúng sanh thành Phật đạo.
Vãng tích sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thỉ tham sân si
Tùng thân ngũ ý chi sở sanh
Nhất thiết ngã kim giai sám hối.
Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời
Tận trừ nhất thiết chư chướng ngại
Diện kiến ngã Phật A Di Đà
Túc đắc vãng sanh Cực Lạc sát
Ngã ký vãng sanh Cực Lạc dĩ
Hiện tiền thành tựu thử đại nguyện
Nhất thiết viên mãn tận vô dư
Lợi lạc nhất thiết chúng sanh giới
Ngã Phật chúng hội hàm thanh tịnh
Ngã thời ư thắng liên hoa sanh
Thân kiến Như Lai Vô Lượng Quang
Hiện tiền thọ ngã bồ đề ký.
Mong ngã Như Lai thọ ký dĩ
Hóa thân vô số bá cu chi
Trí lực quảng đại biến thập phương
Phổ lợi nhất thiết chúng sanh giới.
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô lượng thệ nguyện thành.
Nguyện sanh Tây phương tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Trang nghiêm Phật tịnh độ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả
Tức phát bồ đề tâm
Tận thử nhất báo thân
Đồng sanh Cực Lạc quốc,
Tận thử nhất báo thân
Đồng sanh An Dưỡng quốc.

NGUYỆN
A Di Đà Phật, thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhân, lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thính phân minh, diện phụng Di Đà, dữ chư thánh chúng, thủ chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã.
Nhứt sát na khoảnh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ Tát đạo, quảng độ chúng sanh đồng thành chủng trí.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô A Di Đà Phật Thế Tôn.
Nguyện ngã tội chướng tất tiêu diệt (1 lạy)
Nguyện ngã thiện căn nhật tăng trưởng (1 lạy)
Nguyện ngã thân tâm hàm thanh tịnh (1 lạy)
Nguyện ngã Nhất tâm tảo thành tựu (1 lạy)
Nguyện ngã Tam muội đắc hiện tiền (1 lạy)
Nguyện ngã Tịnh nhân tốc viên mãn (1 lạy)
Nguyện ngã Liên đài dự tiêu danh (1 lạy)
Nguyện ngã Kiến Phật ma đảnh ký (1 lạy)
Nguyện ngã Dự tri mạng chung thời (1 lạy)
Nguyện ngã Vãng sanh Cực Lạc quốc (1 lạy)
Nguyện ngã viên mãn Bồ Tát đạo (1 lạy)
Nguyện ngã quảng độ chư chúng sanh (1 lạy)
Chí tâm quy mạng đảnh lễ Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô lượng vô biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ tận hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Như Lai biến pháp giới Tam Bảo. (1 lạy)
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh thể giải đại đạo, phát vô lượng tâm. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại. (1 lạy)

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q2) - Phẩm TRÍ TUỆ (Phần 4)

Này thiện nam tử! Ta chẳng thấy trong hàng đệ tử có người nào cho rằng Như Lai chẳng giáo hóa chúng sanh yên lặng bất động gọi là Niết Bàn.
Ví như trưởng giả có đông con cái, đi đến xứ khác chưa trở về. Những người con đều cho rằng cha mình đã chết. Nhưng trưởng giả này thiệt chẳng chết, mà những người con điên đảo tưởng rằng chết. Cũng vậy hàng Thanh Văn đệ tử vì chẳng thấy Phật, bèn cho rằng Như Lai đã nhập Niết Bàn trong rừng Ta La nơi thành Câu Thi Na, nhưng thiệt ra ta chẳng nhập Niết Bàn, mà hàng Thanh Văn tưởng là nhập Niết Bàn.
Ví như ngọn đèn sáng, có người che kín đó, những kẻ không biết cho rằng đèn đã tắt, nhưng đèn sáng này thiệt chẳng tắt, vì không biết nên cho rằng tắt. Cũng vậy, hàng Thanh Văn đệ tử dầu có huệ nhãn nhưng bị phiền não che đậy làm cho tâm điên đảo chẳng thấy được thân chân thật của Phật, bèn tưởng là Phật diệt độ, nhưng thiệt ra ta chẳng diệt độ.
Như người sanh manh chẳng thấy mặt trời, mặt trăng, chẳng biết ngày đêm sáng tối, vì chẳng biết bèn nói rằng không có mặt trời mặt trăng thiệt, do vì không thấy nên sanh tưởng điên đảo. Cũng vậy hàng Thanh Văn đệ tử, vì chẳng thấy Như Lai bèn cho rằng Phật nhập Niết Bàn. Nhưng thật ra Như Lai chẳng nhập Niết Bàn.
Ví như mây mù che khuất mặt trời mặt trăng, kẻ ngu si cho rằng không có mặt trời mặt trăng. Cũng vậy, vì các phiền não che đôi mắt trí huệ nên hàng Thanh Văn chẳng thấy Như Lai bèn cho rằng Như Lai nhập Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Đây là đức Như Lai thị hiện Anh Nhi Hạnh chớ chẳng phải diệt độ.
Này thiện nam tử! Như lúc mặt trời lặn, vì Hắc Sơn che khuất mặt trời, nên chúng sanh Diêm Phù Đề chẳng thấy, nhưng thật ra mặt trời không có lặn, vì không thấy nên chúng sanh tưởng là lặn. Cũng vậy, hàng Thanh Văn đệ tử bị phiền não che ngăn chẳng thấy thân Phật, vì chẳng thấy nên cho rằng Như Lai nhập Niết Bàn, nhưng thiệt ra Phật chẳng nhập Niết Bàn.
Do đây nên Phật ở nước Tỳ Da Ly bảo Ma Ba Tuần: sau ba tháng ta sẽ nhập Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Như Lai thấy trước rằng Ca Diếp Bồ Tát sau ba tháng căn lành sẽ thành thục, cũng thấy núi Hương Sơn ông Tu Bạt Đà La an cư xong sẽ đến chỗ ta, nên ta bảo ma Ba Tuần sau ba tháng sẽ nhập Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Có năm trăm lực sĩ mãn ba tháng cũng sẽ phát tâm vô thượng Bồ Đề, vì họ nên ta bảo Ma Ba Tuần sau ba tháng sẽ nhập Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Bọn ông Thuần Đà năm trăm Lê Xa tử, và Am La nữ sau ba tháng thời đạo tâm vô thượng sẽ thành thục, vì những người này nên ta bảo Ma Ba Tuần sau ba tháng Như Lai sẽ nhập Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Ông Tu Na Sát Đa theo hàng ngoại đạo Ni Kiền Tử, ta vì ông thuyết pháp trọn mười hai năm, ông chẳng tin chẳng thọ, chẳng bỏ tà kiến, ta biết ác tâm tà kiến của ông sau ba tháng quyết định có thể dứt trừ, nên ta bảo ma Ba Tuần sau ba tháng Phật sẽ nhập Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Do nhân duyên gì mà ngày trước ở bên sông Ni Liên, ta bảo ma Ba Tuần vì chưa có hàng đệ tử đa văn trí huệ nên Phật chẳng nhập Niết Bàn?
Lúc đó ta muốn chuyển pháp luân độ các ông Kiều Trần Như v.v…, cũng muốn độ các ông Da Xá, muốn độ bọn ông Úc Dà trưởng giả, muốn độ vua Tần Bà Ta La nước Ma Dà Đà cùng vô lượng nhân thiên, muốn độ thầy trò Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Dà Da Ca Diếp, cũng muốn độ các ông Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên v.v… Vì thế nên ta bảo ma Ba Tuần: Như Lai chẳng nhập Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Có Niết Bàn chẳng phải là Đại Niết Bàn. Chẳng thấy Phật tánh mà dứt phiền não thời gọi là Niết Bàn chẳng phải Đại Niết Bàn. Bởi chẳng thấy Phật tánh nên không có thường, ngã, chỉ có lạc và tịnh, do đây nên dầu dứt phiền não mà chẳng được gọi là Đại Niết Bàn. Nếu thấy Phật tánh dứt phiền não thời gọi là Đại Niết Bàn, vì thấy Phật tánh nên được gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Này thiện nam tử! "Niết" nghĩa là chẳng, "Bàn" nghĩa là diệt, nghĩa chẳng dệt gọi là Niết Bàn. "Bàn" lại có nghĩa là che, chẳng bị che bèn gọi là Niết Bàn. "Bàn" lại có nghĩa là đi đến, chẳng đi chẳng đến gọi là Niết Bàn. "Bàn" lại có nghĩa là bất định, không bất định gọi là Niết Bàn. "Bàn" lại có nghĩa là mới cũ, không mới cũ gọi là Niết Bàn. "Bàn" lại có nghĩa là chướng ngại, không chướng ngại gọi là Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Có hàng đệ tử của phái Ưu Lâu Khư, phái Ca Tỳ La nói "Bàn" là danh tướng, không danh tướng gọi là Niết Bàn. "Bàn" lại có nghĩa là có: không có thời gọi là Niết Bàn. "Bàn" lại có nghĩa là hòa hiệp, không hòa hiệp gọi là Niết Bàn. "Bàn" lại có nghĩa là khổ, không khổ gọi là Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Người dứt phiền não chẳng gọi là tu Niết Bàn, chẳng sanh phiền não thời gọi là Niết Bàn. Chư Phật Như Lai vĩnh viễn chẳng khởi phiền não nên gọi là Niết Bàn. Có trí huệ ở nơi tất cả pháp không có chướng ngại thời gọi là Như Lai. Như Lai chẳng phải phàm phu, Thanh Văn Duyên Giác, Bồ Tát. Đây gọi là Phật tánh.
Thân tâm trí huệ của Như Lai khắp đầy vô lượng vô biên vô số cõi, không bị chướng ngại, đây gọi là hư không.
Như Lai thường trụ không có biến đổi, đây gọi là thật tướng.
Do nghĩa này nên Như Lai thiệt chẳng rốt ráo nhập Niết Bàn.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ bảy.
Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ tám?
Này thiện nam tử! Đại Bồ tát tu hành kinh Đại Niết Bàn: trừ dứt năm việc, xa lìa năm việc, thành tựu sáu việc, tu tập năm việc, giữ gìn một việc, gần gũi bốn việc, tin thuận nhất thật, tâm thiện giải thoát, huệ thiện giải thoát.
Trừ dứt năm việc, chính là trừ năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức; năm thứ này hay làm chúng sanh sống chết nối mãi, chẳng rời gánh nặng chia lìa tụ họp, buộc ràng trong ba đời, không thể cầu tìm cho ra nghĩa lý; do những lẽ này nên gọi là "ẤM".
Đại Bồ Tát dầu thấy sắc ấm, nhưng chẳng thấy tướng của nó, vì trong mười món sắc suy tìm tánh của nó trọn không thể được, vì thuận theo thế tục mà gọi là "ẤM".
Có một trăm lẻ tám thứ thọ, Bồ Tát dầu thấy thọ ấm, nhưng vẫn không thấy tướng của thọ. Vì thọ dầu có một trăm lẻ tám, nhưng tất cả không có nghĩa lý quyết định thật.
Như sắc và thọ, tưởng, hành và thức cũng như vậy.
Vì thấy rõ năm ấm là cội gốc sanh ra phiền não, nên Đại Bồ tát dùng phương tiện làm cho dứt.
Đại Bồ Tát xa lìa năm việc, chính là xa lìa năm kiến chấp: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới thủ. Do năm kiến chấp này sanh ra sáu mươi hai thứ kiến chấp. Vì những kiến chấp này mà sanh tử nối mãi chẳng dứt, nên Bồ Tát ngăn ngừa không gần gũi.
Đại Bồ Tát thành tựu sáu việc, chính là thành tựu sáu chánh niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thiên, niệm Thí, niệm Giới.
Đại Bồ Tát tu tập năm việc, chính là tu tập năm định: trí định, tịch định, thân tâm thọ khoái lạc định, vô lạc định, Thủ Lăng Nghiêm định. Tu tập năm thứ định tâm này thời gần với Đại Niết Bàn, vì thế nên Bồ Tát chuyên cần tu tập.
Bồ Tát giữ gìn một việc, chính là giữ gìn tâm Bồ Đề. Đại Bồ Tát luôn siêng năng gìn giữ tâm Bồ Đề, như người đời săn sóc đứa con một, như người chột mắt giữ gìn mắt còn lại, như đi giữ rừng hoang vắng giữ gìn người dẫn đường. Do gìn giữ tâm Bồ Đề mà được vô thượng Bồ Đề, do được vô thượng Bồ Đề nên có đủ thường, lạc, ngã và tịnh, chính là Đại Niết Bàn, do đây nên Bồ Tát gìn giữ một tâm Bồ Đề này.
Bồ Tát gần gũi bốn việc, chính là gần bốn tâm vô lượng: đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Do bốn tâm này có thể làm cho vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ Đề, nên Bồ Tát luôn gần gũi.
Bồ Tát tin thuận nhất thật, chính là rõ biết tất cả chúng sanh đều về nơi đạo duy nhất, đạo duy nhất này là đại thừa: Nơi đại thừa này, chư Phật và Bồ Tát chia làm ba thừa đề dụ dẫn chúng sanh.
Bồ Tát tâm thiện giải thoát chính là đã dứt hẳn tham, sân, si.
Bồ Tát huệ thiện giải thoát, chính là Đại Bồ Tát rõ biết tất cả pháp không chướng ngại. Do huệ giải thoát nên những pháp từ xưa chưa nghe mà nay được nghe, từ xưa chưa thấy mà nay được thấy, từ xưa chưa đến mà nay được đến."
Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Như lời Phật nói: "Tâm giải thoát", xét ra không đúng nghĩa. Vì tâm vốn không hệ phược. Bổn tánh của tâm không bị tham, sân, si, hệ phược. Đã là vốn không hệ phược, sao lại nói là giải thoát?
Thế Tôn! Nếu bổn tánh của tâm chẳng bị tham kiết hệ phược, do nhân duyên gì mà có thể hệ phược được tâm? Ví như vắt sừng, vì vốn không sữa nên dầu tốn nhiều công lực vẫn không do đâu có sữa chảy ra. Nếu vắt vú bò tốn công ít mà được nhiều sữa. Cũng vậy tâm vốn không tham, sao nay lại có. Nếu trước vốn không mà sau mới có, thời chư Phật và Bồ Tát vốn không tham, nay đáng lẽ đều có.
Thế Tôn! Như thạch nữ vốn không con, dầu tốn nhiều công lực, nhiều nhân duyên vẫn không thể có con. Cũng vậy, tâm vốn không tham, dầu gây tạo nhiều duyên, cũng không do đâu sanh được tham.
Thế Tôn! Như dùi cây ướt không thể được lửa. Cũng vậy, dầu dùi tìm nơi tâm vẫn không thể có tham. Tại sao tham kiết hệ phược được tâm.
Thế Tôn! Ví như ép cát không thể có dầu. Cũng vậy, dầu ép nơi tâm vẫn không có tham. Phải biết rằng tham cùng tâm, lý nghĩa có hai thứ riêng khác nhau. Thiết sử có tham, đâu nhiễm ô được tâm.
Thế Tôn! Ví như đem nọc cắm giữa hư không trọn không thể đứng cứng được. Cũng vậy, đem tham cắm vào tâm, trọn không thể hệ phược được tâm, dầu dùng nhiều nhân duyên.
Thế Tôn! Nếu tâm vốn không tham mà lại gọi là giải thoát, thời chư Phật và Bồ Tát sao chẳng nhổ gai trong hư không?
Thế Tôn! Tâm quá khứ không gọi là giải thoát. Tâm vị lai cũng không gọi là giải thoát. Tâm hiện tại chẳng cùng chung với đạo, thế thời tâm nào được gọi là giải thoát?
Thế Tôn! Như ngọn đèn quá khứ không thể diệt tối; ngọn đèn vị lai cũng không thể diệt tối; ngọn đèn hiện tại lại không thể diệt tối; vì sáng cùng tối, hai thứ ấy không đồng thời có. Tâm cũng như vậy, sao lại nói tâm được giải thoát?
Thế Tôn! Tham cũng là có. Nếu tham là không, thời lúc thấy người nữ lẽ ra chẳng sanh tham. Nếu do người nữ mà sanh tham, thời tham là có thật. Vì có tham nên đọa ba đường ác.
Thế Tôn! Như có kẻ thấy tượng vẽ người nữ cũng sanh tham, vì sanh tham nên thành có nhiều tội lỗi. Nếu vốn không tham, tại sao thấy tượng vẽ lại sanh tham? Nếu tâm không tham, tại sao Như Lai nói Bồ Tát tâm được giải thoát? Nếu tâm có tham, sao lại phải chờ thấy người nữ rồi sau mới sanh. Người không thấy thời không sanh? Hiện tại tôi thấy có quả báo ác do tham gây ra, nên biết tham là có, sân và si cũng như vậy.
Thế Tôn! Như chúng sanh có thân không ngã, mà phàm phu chấp có ngã; dầu chấp có ngã nhưng không vì thế mà đọa ba ác đạo. Tại sao người tham đối với không tướng nữ sanh tưởng là nữ mà phải đọa ba ác đạo?
Thế Tôn! Ví như dùi cây sanh lửa, nhưng tánh lửa này trong các duyên đều không có, cớ gì mà được sanh ra lửa?
Thế Tôn! Cũng vậy, trong sắc không có tham, trong thinh, hương, vị, xúc, pháp cũng đều không có tham, tại sao nơi sắc v.v… lại sanh ra tham? Nếu trong các duyên đều không có tham, tại sao riêng chúng sanh có tham, mà chư Phật và Bồ Tát không sanh tham?
Thế Tôn! Tâm cũng là bất định. Nếu tâm là nhất định, thời không có tham, sân, si. Nếu tâm đã là bất định, sao lại nói rằng tâm được giải thoát? Tham cũng là bất định, nếu đã là bất định, tại sao lại nhân nơi tham mà sanh ra ba ác đạo? Kẻ tham cùng cảnh giới, cả hai đều bất định. Vì đồng chung duyên một cảnh sắc, hoặc sanh, hoặc tham sanh sân, hoặc sanh si. Nếu cả hai đều bất định, tại sao đức Như Lai nói rằng Bồ Tát tu Đại Niết Bàn thời tâm được giải thoát?"
(Hán bộ quyển thứ 26)
Phật bảo Cao Quý Đức Vương Bồ Tát: "Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Tâm cũng chẳng bị tham kiết hệ phược, cùng chẳng phải chẳng bị hệ phược; chẳng phải giải thoát, cũng chẳng phải chẳng giải thoát; chẳng phải có; chẳng phải không; chẳng phải hiện tại, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai.
Vì tất cả pháp đều không tự tánh.
Này thiện nam tử! Có các nhà ngoại đạo cho rằng: nhân duyên hòa hiệp thời có quả sanh ra.
Nếu trong các duyên vốn không tánh sanh mà có thể sanh ra, thời hư không vốn chẳng sanh lẽ ra cũng sanh được quả. Nhưng hư không vẫn chẳng sanh vì chẳng phải là nhân.
Do vì trong các duyên vốn có tánh của quả, nên hòa hiệp thời sanh được quả.
Như người đời khi muốn xây vách thời dùng bùn đất mà không dùng cọ màu, lúc muốn vẽ vời thường dùng cọ màu mà chẳng dùng cỏ cây, may áo thời dùng kim chỉ mà chẳng dùng cây bùn, cất nhà thời dùng bùn cây mà chẳng dùng kim chỉ. Người dùng đến vật đó là vì nó có thể sanh ra quả, vì sanh được quả nên biết trong các nhân tất đã có tánh. Nếu là không tánh, thời trong một vật lẽ ra phải xuất sanh tất cả vật.
Nếu là đáng lấy, đáng làm, đáng đem ra, nên biết rằng trong đó tất đã trước có tánh của quả. Nếu là không có tánh của quả thời người chẳng lấy, chẳng làm, chẳng đem ra. Chỉ có hư không là chẳng lấy, chẳng làm nên có thể xuất sanh tất cả muôn vật, do vì có nhân.
Như hột ni-câu-đà mọc lên cây ni-câu-đà; trong sữa có tánh chất đề-hồ; trong sợi chỉ có tánh của vải; trong đất sét có tánh của cái bình.
Này thiện nam tử! Tất cả phàm phu bị vô minh làm mù lòa nên bày ra định thuyết: sắc có nghĩa tham luyến, tâm có tánh tham. Họ lại cho rằng: tâm phàm phu có tánh tham, cũng có tánh giải thoát, gặp duyên tham thời tâm sanh tham, nếu gặp được duyên giải thoát thời tâm giải thoát.
Những thuyết này đều không đúng nghĩa.
Có hạng phàm phu lại cho rằng: trong tất cả nhân đều không có quả; nhân có hai thứ: vi tế và thô đại; tế thời là thường, thô thời vô thường. Từ nhân vi tế chuyển thành nhân thô, từ nhân thô này lại chuyển thành quả. Vì nhân thô vô thường nên quả cũng vô thường.
Có hạng phàm phu lại cho rằng: tâm không có nhân, tham cũng không có nhân, do thời tiết thời sanh tâm tham.
Vì không biết được tâm nhân duyên, nên những hạng này luân hồi trong sáu đường, chịu đủ mọi sự sanh tử.
Ví như con chó bị xiềng, trọn ngày đi quanh cột không thể thoát lìa. Cũng vậy, tất cả phàm phu bị xiềng vô minh cột vào cột sanh tử, cứ vòng quanh mãi ở hai mươi lăm cõi không thoát ly được.
Ví như có kẻ sa vào hầm xí, đã được ra khỏi rồi lại té vào hầm. Như người bệnh được lành trở lại làm nhân cho bệnh. Như người đi đường xa gặp phải chỗ hoang vắng, đã đi qua được rồi trở lại nữa. Như đã tắm rửa sạch sẽ trở lại lấy bùn đất trét vào. Cũng vậy, tất cả phàm phu đã được thoát khỏi cõi Vô Sở Hữu, chỉ chưa thoát khỏi cõi Phi Phi Tưởng, trở lại sa vào đến ba ác đạo. Vì tất cả phàm phu chỉ biết quan sát nơi quả, mà chẳng suy gẫm nhân duyên.
Như con chó đuổi theo cục đất chẳng chạy theo người. Cũng vậy, hạng phàm phu chỉ nhìn nơi quả mà chẳng nhìn nơi nhân duyên. Do chẳng thấy biết nhân duyên nên từ cõi Phi Phi Tưởng sa đến ba ác đạo.
Này thiện nam tử! Chư Phật và Bồ Tát trọn không bảo nhất định rằng: trong nhân có quả, trong nhân không quả, trong nhân cũng có cũng không quả, trong nhân chẳng phải có chẳng phải không quả.
Nếu kẻ nào cho rằng trong nhân quyết định có quả, không quả, cũng có cũng không quả, chẳng phải có chẳng phải không quả, nên biết rằng đây là bè lũ của ma, là thuộc về loài ma, là người tham ái, chẳng thể dứt hẳn sự hệ phược của sanh tử, người này chẳng rõ biết tâm tướng và tham tướng.
Này thiện nam tử! Chư Phật và Bồ Tát hiển bày lý trung đạo: dầu nói các pháp là chẳng phải có, chẳng phải không nhưng chẳng quyết định. Vì nhân nơi nhãn, sắc, minh, tâm và niệm mà có thức sanh ra. Thức này quyết định chẳng ở trong nhãn, chẳng ở trong sắc, chẳng ở trong minh, chẳng ở trong tâm, chẳng ở trong niệm, cũng chẳng ở chặc giữa, chẳng phải có chẳng phải không. Vì từ các duyên sanh ra nên gọi là có. Vì không tự tánh nên gọi là không. Do đây nên Như Lai nói các pháp là chẳng phải có chẳng phải không.
Này thiện nam tử! Chư Phật và Bồ Tát trọn không quyết định nói tâm có tánh thanh tịnh và tánh chẳng thanh tịnh, tánh tịnh cùng bất tịnh, vì tâm vốn vô trụ.
Do từ nơi duyên sanh ra tham nên nói là chẳng phải không, lại vì vốn không có tánh tham nên nói là chẳng phải có.
Này thiện nam tử! Do từ nơi nhân duyên mà tâm sanh ra tham, do từ nơi nhân duyên mà tâm được giải thoát. Nhân duyên có hai thứ: một là theo sanh tử, hai là theo Đại Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Vì có nhân duyên mà tâm cùng với tham sanh ra, chung với tham cùng diệt, có nhân duyên tâm cùng với tham sanh mà chẳng chung với tham cùng diệt. Có nhân duyên tâm chẳng cùng với tham sanh mà chung với tham cùng diệt. Có nhân duyên tâm chẳng cùng với tham sanh cũng chẳng cùng với tham diệt.
Này thiện nam tử! Có hạng phàm phu chưa dứt tâm tham, huân tập tâm tham những kẻ này, tâm của họ chung với tham cùng sanh cùng diệt.
Như chúng sanh cõi dục, tất cả đều có khí vị sơ thiền, hoặc tu hay chẳng tu, gặp nhân duyên thời bèn được; nơi đây nói nhân duyên chính là chỉ cho hỏa tai. Cũng vậy, tất cả phàm phu hoặc huân tập hay không huân tập, tâm của họ chung với tham cùng sanh, chung với tham cùng diệt, vì họ chẳng dứt tham vậy.
Hàng Thanh Văn vì có nhân duyên nên sanh tâm tham, vì sợ tâm tham nên tu tập quán bạch cốt, đây gọi là tâm cùng tham sanh mà chẳng cùng tham diệt. Lại hàng Thanh Văn chưa chứng quả A La Hán vì có nhân duyên nên sanh tâm tham, lúc đã chứng A La Hán thời tham liền diệt, đây cũng gọi là tâm cùng tham sanh mà chẳng chung với tham cùng diệt. Đại Bồ Tát lúc chứng bậc Bất Động cũng như vậy.
Thế nào là tâm chẳng cùng tham sanh mà chung với tham cùng diệt?
Đại Bồ Tát đã dứt tâm tham, vì độ chúng sanh mà thị hiện có tham, vì thị hiện nên có thể làm cho vô lượng chúng sanh học tập thành tựu pháp lành. Đây gọi là tâm chẳng cùng tham sanh mà với tham cùng diệt.
A La Hán, Duyên Giác, chư Phật, chư Bồ Tát, trừ Bất Động Địa, gọi là tâm chẳng chung với tham cùng sanh cùng diệt.
Do những nghĩa trên đây, nên chư Phật và Bồ Tát chẳng quyết định nói tâm tánh vốn thanh tịnh, tâm tánh vốn không thanh tịnh.
Này thiện nam tử! Tâm này chẳng cùng với tham hòa hiệp, cũng chẳng cùng với sân si hòa hiệp.
Như mặt trời, mặt trăng dầu bị khói, bụi, mây mù và La Hầu A Tu La che chướng, làm cho chúng sanh không thấy, nhưng tánh mặt trời mặt trăng trọn chẳng cùng hòa hiệp với năm thứ ấy.
Cũng vậy, dầu do nhân duyên mà tâm sanh tham, nhưng thật ra tâm tánh chẳng cùng tham hòa hiệp.
Nếu là tâm tham thời chính là tánh tham. Nếu là tâm chẳng tham thời chính là tánh chẳng tham. Tâm chẳng tham không thể làm tham. Tâm tham không thể chẳng tham.
Do nghĩa trên đây nên kiết sử tham dục không thể làm nhiễm ô được tâm.
Chư Phật và Bồ Tát đã phá hẳn tham kiết, nên gọi là tâm được giải thoát.
Tất cả chúng sanh vì do nhân duyên mà sanh tham kiết, vì do nhân duyên mà được giải thoát.
Này thiện nam tử! Như núi Tuyết, chỗ cao vót, người cùng khỉ vượn đều không đi được, hoặc có chỗ vượn khỉ đi được mà người không đi được, hoặc có chỗ vượn cùng người đều đi được.
Chỗ mà người cùng vượn đều đi được đó, như thợ săn dùng keo nhựa bày trên bàn để bắt vượn. Vì ngu si, vượn đến lấy tay rờ bốc, tay dính vào nhựa. Muốn gỡ tay, vượn dùng chân đạp lại dính luôn chân. Muốn gỡ chân vượn dùng miệng cạp lại dính cả miệng. Hai tay, hai chân cùng miệng của vượn đều dính khắn vào nhựa không thể thoát được. Bấy giờ thợ lấy gậy xỏ vượn mang về nhà.
Chỗ cao vót của núi Tuyết dùng dụ cho chánh đạo của Phật và Bồ Tát chứng. Khỉ vượn dụ cho phàm phu. Thợ săn dụ cho ma Ba Tuần. Keo nhựa dụ cho tham dục.
Người cùng khỉ vượn đều không thể đi là dụ cho phàm phu và ma vương Ba Tuần đều không thể đi đến.
Khỉ vượn đi được mà người thời không, dụ hàng ngoại đạo, có trí huệ, các ác ma dầu có dùng ngũ dục cũng không hệ phược được họ.
Người cùng khỉ vượn đều đi được là dụ cho tất cả phàm phu cùng ma Ba Tuần luôn ở trong sanh tử không thể tu hành. Hàng phàm phu bị ngũ dục hệ phược nên ma Ba Tuần tha hồ mang đi. Như thợ săn kia bắt khỉ vượn mang về nhà.
Này thiện nam tử! Như Quốc Vương ở trong nước mình thời thân tâm an lạc, nếu qua đến nước khác thời tất phải gặp nhiều sự khổ não. Cũng vậy, tất cả chúng sanh nếu có thể tự trụ nơi cảnh giới của mình thời được an lạc, nếu đến cảnh giới khác tất gặp ác ma bị những khổ não.
Tự cảnh giới là chỉ tứ niệm xứ. Cảnh giới khác là nói ngũ dục.
Thế nào gọi là hệ thuộc nơi ma? Có những chúng sanh nơi vô thường thấy là thường, nơi thường lại thấy là vô thường; nơi khổ thấy là lạc, nơi lạc lại thấy là khổ; nơi bất tịnh thấy là tịnh, nơi tịnh lại thấy là bất tịnh; nơi vô ngã thấy là ngã, nơi ngã lại thấy là vô ngã. Nơi chẳng phải giải thoát thấy là giải thoát, nơi thiệt giải thoát lại thấy là chẳng giải thoát. Nơi chẳng phải thừa thấy là thừa, nơi thừa lại thấy là chẳng phải thừa. Những hạng này gọi là kẻ hệ thuộc nơi ma. Phàm kẻ hệ thuộc nơi ma thời tâm họ không thanh tịnh.
Này thiện nam tử! Nếu thấy các pháp thiệt có tướng nhất định là tổng là biệt, nên biết rằng người này lúc thấy sắc liền chấp tướng sắc, nhẫn đến lúc thấy thức cũng chấp tướng thức. Lúc thấy nam, nữ, nhật, nguyệt, ấm, nhập, giới v.v… liền chấp tướng nam, tướng nữ nhẫn đến tướng nhập, tướng giới. Kẻ có kiến chấp này gọi là hệ thuộc nơi ma. Kẻ hệ thuộc nơi ma thời tâm họ không thanh tịnh.
Này thiện nam tử! Nếu thấy ngã là sắc, trong sắc có ngã, trong ngã có sắc, sắc thuộc nơi ngã; nhẫn đến thấy ngã là thức, trong thức có ngã, trong ngã có thức, thức thuộc nơi ngã. Kiến chấp này hệ thuộc nơi ma, người này không phải đệ tử Phật.
Này thiện nam tử! Hàng Thanh Văn đệ tử của ta lìa mười hai bộ kinh của Như Lai, mà tu tập theo sách vở của những ngoại đạo, chẳng tu công hạnh tịch diệt xuất gia, thuần kinh doanh sự vụ tại gia thế tục. Những gì là sự vụ tại gia thế tục? Nhận chứa tất cả những vật bất tịnh, tôi tớ, ruộng, nhà, voi ngựa, xe cộ, đà, lừa, gà, chó, khỉ, vượn, heo, dê, các thứ lúa bắp; xa lìa sư trưởng, chúng Tăng, gần gũi cư sĩ bạch y, trái phản Thánh giáo. Bảo hàng bạch y rằng: đức Phật cho phép Tỳ Kheo nhận chứa những vật bất tịnh. Đây gọi là sự vụ tại gia.
Có các đệ tử chẳng vì Niết Bàn, chỉ vì lợi dưỡng mà nghe thọ mười hai bộ kinh, ăn dùng của thường trụ như của riêng mình, tham tiếc nhà người cùng danh tiếng, gần gũi Quốc Vương và các Vương Tử, bói xủ lành dữ, suy tính đầy vơi, bài bạc, thân thiện Tỳ Kheo Ni cùng các xử nữ, chứa hai hạng Sa Di, thường đến nhà hàng thịt, thợ săn, quán rượu, và chỗ ở của Chiên Đà La, buôn bán các loại, tự tay làm đồ ăn, nhận đi xứ lân quốc, lãnh lệnh đi thơ. Nên biết rằng người như trên đây là quyến thuộc của ma, không phải đệ tử Phật. Do nhân duyên này mà tâm cùng tham chung sanh, chung diệt. Sân và si cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Do đây nên tâm tánh chẳng phải tịnh, cũng chẳng phải bất tịnh. Vì thế nên ta nói rằng tâm được giải thoát.
Nếu có người không nhận, không chứa tất cả vật bất tịnh, vì đại Niết Bàn mà thọ trì đọc tụng mười hai bộ kinh, biên chép giải thuyết. Nên biết rằng người này thật là đệ tử Phật. Người này không đi nơi cảnh giới của ác ma Ba Tuần. Người này chính là tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Vì tu tập nên chẳng cùng tham mà sanh, cũng chẳng cùng với tham mà diệt.
Đây gọi là Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ tám.
Thế nào là thành tựu đầy đủ phần công đức thứ chín?
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát tu tập kinh Đại Niết Bàn, đầu tiên phát năm điều thời được thành tựu phần công đức này: Một là tín tâm; hai là trực tâm; ba là giới; bốn là gần gũi bạn lành; năm là học rộng nghe nhiều.
Thế nào là tín tâm?
Bồ Tát tin nơi Tam Bảo, bố thí cúng dường thời có quả báo. Tin nơi hai đế lý, đạo nhất thừa không có nẻo nào khác, vì muốn chúng sanh mau được giải thoát mà chư Phật và Bồ Tát phân biệt làm ba thừa. Tin đế lý đệ nhất nghĩa. Tin thiện phương tiện: Đây gọi là tin.
Người có lòng tin như trên đây, không ai phá hoại được. Do đức tin này mà được tánh thánh nhân. Người này tu hành bố thí không luận ít nhiều đều được gần nơi Đại Niết Bàn, chẳng đọa nơi sanh tử. Như bố thí, trì giới, đa văn và trí huệ cũng vậy. Dầu có tín tâm này nhưng cũng chẳng chấp. Đây là Bồ Tát tu Đại Niết Bàn thành tựu điều ban đầu.
Thế nào là trực tâm?
Đại Bồ Tát đối với chúng sanh, có lòng chất trực.
Tất cả chúng sanh nếu gặp nhân duyên thời móng lòng dua vạy. Bồ Tát thời không như vậy, vì hiểu rõ các pháp đều là nhân duyên. Bồ Tát dầu thấy chúng sanh có những lỗi lầm, mà trọn không nói đến, vì sợ sanh phiền não, nếu sanh phiền não thời phải đọa ác thú.
Bồ Tát này nếu thấy chúng sanh có chút ít điều lành liền tán thán đó. Gì là lành? Chính là Phật tánh. Do Bồ Tát tán thán Phật tánh nên chúng sanh phát tâm Bồ Đề."
Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Như đức Phật vừa nói: Bồ Tát tán thán Phật tánh làm cho chúng sanh phát tâm Bồ Đề. Lời đây không đúng nghĩa. Vì đức Như Lai lúc mới khai kinh Niết Bàn nói có ba hạng: một là nếu có người bệnh gặp được thầy giỏi thuốc hay, người khán bệnh khéo thời được lành mạnh, nếu không được như trên thời bệnh không lành; hai là được gặp hay không được gặp đều không được lành; ba là được gặp hay không được gặp bệnh đều lành.
Tất cả chúng sanh cũng có ba hạng như vậy: một là hạng gặp bạn lành, gặp Phật, Bồ Tát, nghe nói diệu pháp thời được phát tâm Bồ Đề, nếu không gặp được thời không phát, đây là chỉ cho các bậc Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán và Bích Chi Phật.
Hai là hạng dầu được gặp bạn lành, gặp Phật, Bồ Tát, được nghe diệu pháp cũng chẳng phát tâm Bồ Đề, đây là nói hạng nhất-xiển-đề.
Ba là hạng hoặc gặp hay chẳng gặp, tất cả đều có thể phát tâm Bồ Đề, đây là nói Bồ Tát.
Nếu đã nói rằng gặp cùng chẳng gặp tất cả đều phát tâm vô thượng Bồ Đề, giờ đây tại sao đức Như Lai lại nói: do tán thán Phật tánh làm cho chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Thế Tôn! Nếu nói rằng gặp cùng chẳng gặp đều không thể phát tâm Bồ Đề cả, lời này cũng không đúng nghĩa, vì hạng này sẽ được vô thượng Bồ Đề. Hạng nhất-xiển-đề do vì có Phật tánh, nên hoặc được gặp hay không được gặp, cũng đều sẽ được vô thượng bồ đề.
Thế Tôn! Như đức Phật định nghĩa nhất-xiển-đề là dứt thiện căn, cũng không đúng. Vì hạng này không dứt Phật tánh. Cứ lý thời Phật tánh không thể dứt, sao đức Phật nói là dứt thiện căn?
Như trong mười hai bộ kinh của Phật nói ngày trước, có hai thiện căn: thường và vô thường. Thiện căn thường thời không dứt, còn vô thường thời dứt.
Thiện căn vô thường có thể dứt nên đọa Địa ngục. Còn thường thời chẳng thể dứt, cớ sao đức Phật chẳng có lời ngăn?
Chẳng dứt Phật tánh chẳng phải nhất-xiển-đề, cớ sao đức Phật lại nói là nhất-xiển-đề?
Thế Tôn! Nếu nhân Phật tánh mà phát tâm vô thượng Bồ Đề, cớ sao đức Như Lai lại vì chúng sanh nói rộng mười hai bộ kinh?
Thế Tôn! Như bốn con sông lớn từ ao A Na Bà Đạp Đa chảy ra, nếu có trời, người, cùng chư Phật cũng không thể bảo rằng nước sông lớn này không chảy vào biển cả sẽ trở lại nguồn.
Cũng vậy, người có Phật tánh, không luận nghe pháp hay không nghe, có giới hay không giới, có bố thí hay không bố thí, có tu hay không tu, có trí hay không trí, tất cả lẽ ra đều được vô thượng Bồ Đề.
Thế Tôn! Như từ núi A Đà Diên, mặt trời mọc lên đến hướng chánh nam, không bao giờ mặt trời có thể nghĩ rằng ta không đến hướng Tây, ta trở lại phương Đông. Cũng vậy, đã có Phật tánh không có lẽ chẳng được vô thượng bồ đề mặc dầu không nghe pháp, không trì giới, không bố thí, không tu, không trí huệ.
Thế Tôn! Như Lai nói tánh nhân quả là chẳng phải có chẳng phải không. Nghĩa này cũng chẳng đúng.
Vì như trong sữa không có tánh của chất lạc, thời tất không có lạc. Như hột ni-câu-đà không có tánh cây năm trượng cao, thời tất không mọc lên cây cao năm trượng. Nếu trong Phật tánh không có cội vô thượng Bồ Đề, sao lại có thể sanh cội bồ đề vô thượng. Cứ như nghĩa này, thời làm sao hiệp với nghĩa nhân quả chẳng phải có chẳng phải không của Phật đã nói?"
Đức Thế Tôn tán thán rằng: "Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Trong đời có hai hạng người rất là hi hữu như hoa Ưu Đàm: một là người không phạm tội ác; hai là người có tội biết hối cải.
Lại có hai hạng người rất hi hữu: một là làm ơn, hai là nhớ ơn.
Lại có hai hạng người rất hi hữu: một là học hỏi điều mới, hai là ôn nhuần điều học cũ không quên.
Lại có hai hạng người rất hi hữu: một là tạo ra mới, hai là tu sữa chỗ cũ.
Lại có hai hạng người rất hi hữu: một là thích nghe pháp, hai là thích thuyết pháp.
Lại có hai hạng người rất hi hữu: một là khéo gạn hỏi, hai là khéo giải đáp.
Người khéo gạn hỏi chính là ông vậy. Người khéo giải đáp chính là Như Lai vậy.
Này thiện nam tử! Do nơi khéo gạn hỏi, bèn chuyển được pháp luân vô thượng, có thể làm khô cây do mười hai nhân duyên, có thể qua khỏi sông lớn sanh tử vô biên, có thể chiến đấu với ma vương Ba Tuần, có thể xô ngã thắng tràng của Ba Tuần dựng.
Này thiện nam tử! Như trước kia Phật nói ba hạng bệnh nhân, hạng gặp thầy giỏi, thuốc hay, khán bệnh khéo, cùng không gặp đều được lành mạnh, đó là vì thọ mạng quyết định, do vì người này trong vô lượng đời đã tu ba thứ thiện căn: Thượng, Trung và Hạ, nên được thọ mạng quyết định. Như người Uất Đơn Việt tuổi thọ ngàn năm, nếu mắc phải bệnh, dầu gặp thầy, gặp thuốc, được săn sóc kỹ, cùng không gặp đều sẽ được lành mạnh cả, vì họ đã được tuổi thọ quyết định.
Hạng bệnh nhân nếu gặp thầy giỏi thuốc hay, khán bệnh khéo thời được lành, bằng không gặp thời chẳng lành, đây là những người thọ mạng không quyết định. Hạng người này dầu thọ mạng chưa hết, song có chín nhân duyên có thể làm họ chết yểu: một là biết ăn sẽ không an mà cứ ăn; hai là ăn quá nhiều; ba là ăn chưa tiêu mà lại ăn nữa; bốn là đại tiểu không điều hòa; năm là lúc bệnh không nghe theo lời chỉ dẫn của y sĩ; sáu là chẳng nghe lời dặn bảo của người khán bệnh; bảy là cố nín nhẫn không chịu ói; tám là đi đêm, vì đi đêm sẽ bị ác quỷ, ác trùng làm hại; chín là phòng thất quá độ. Do đây nên Phật nói hạng bệnh nhân này gặp thầy gặp thuốc thời lành, nếu không gặp thời không lành.
Hạng bệnh nhân gặp thầy gặp thuốc hay không gặp đều không được lành mạnh, đây là những người tuổi thọ đã hết.
Chúng sanh cũng như vậy. Người phát tâm bồ đề, nếu gặp bạn lành, chư Phật, Bồ Tát, được học hỏi pháp cao sâu, hoặc không được gặp được họ, tất cả đều sẽ được thành, vì người này đã có thể phát tâm vô thượng bồ đề. Như người Uất Đơn Việt có thọ mạng quyết định.
Hàng nhị thừa từ Tu Đà Hoàn đến Bích Chi Phật, nếu được nghe thiện hữu, chư Phật, Bồ Tát giảng nói pháp đại thừa thời có thể phát tâm Bồ Đề, nếu không gặp không nghe thời không thể phát tâm bồ đề vô thượng. Như người thọ mạng không quyết định, do chín duyên làm cho họ phải yểu thọ, nếu gặp thầy gặp thuốc thời lành, không gặp thời bệnh không lành.
Hạng nhất-xiển-đề dầu có gặp thiện hữu, chư Phật, Bồ Tát, có nghe pháp cao sâu, hay không nghe, không gặp, đều không thể lìa tâm nhất-xiển-đề, vì họ đã dứt thiện căn. Hạng nhất-xiển-đề cũng được thành vô thượng bồ đề, vì nếu có thể phát tâm bồ đề vô thượng thời chẳng còn gọi là nhất-xiển-đề.
Này thiện nam tử! Tại sao nói hạng nhất-xiển-đề được vô thượng bồ đề?
Hạng nhất-xiển-đề, thật ra không thể được vô thượng bồ đề, như người tuổi thọ đã hết, dầu gặp thầy gặp thuốc, cũng không lành bệnh được.
Này thiện nam tử! "Nhất-xiển" gọi là TÍN, "Đề" là bất cụ, bất cụ tín gọi là nhất-xiển-đề.
Phật tánh chẳng phải là tín: chúng sanh chẳng phải là cụ; bởi bất cụ nên thế nào dứt được.
"Nhất-xiển" gọi là thiện phương tiện; "Đề" là bất cụ, vì tu thiện phương tiện chẳng đầy đủ nên gọi là nhất-xiển-đề.
Phật tánh chẳng phải là tu thiện phương tiện; chúng sanh chẳng phải là cụ; bởi bất cụ nên thế nào dứt được.
"Nhất-xiển" gọi là tiến; "Đề" là bất cụ; vì tinh tiến chẳng đầy đủ nên gọi là nhất-xiển-đề.
Phật tánh chẳng phải là tiến; chúng sanh chẳng phải là cụ; vì bất cụ nên thế nào dứt được.
"Nhất-xiển" gọi là niệm; "Đề" là bất cụ; vì niệm chẳng đầy đủ nên gọi là nhất-xiển-đề.
Phật tánh chẳng phải là niệm, chúng sanh chẳng phải là cụ; vì bất cụ nên thế nào dứt được.
"Nhất-xiển" gọi là định, "Đề" là bất cụ; vì định chẳng đầy đủ nên gọi là nhất-xiển-đề.
Phật tánh chẳng phải là định; chúng sanh chẳng phải là cụ; vì bất cụ nên thế nào dứt được.
"Nhất-xiển" gọi là huệ; "Đề" là bất cụ; vì huệ chẳng đầy đủ nên gọi là nhất-xiển-đề.
Phật tánh chẳng phải là huệ; chúng sanh chẳng phải là cụ; vì bất cụ nên thế nào dứt được.
"Nhất-xiển" gọi là vô thường thiện; "Đề" là bất cụ; vì vô thường thiện chẳng đủ nên gọi là nhất xiển đề.
Phật tánh là thường, chẳng phải thiện, chẳng phải bất thiện. Vì thiện pháp là từ phương tiện mà được, mà Phật tánh chẳng phải từ phương tiện được, nên gọi là chẳng phải thiện.
Do Phật tánh có thể được thiện quả vô thượng bồ đề, nên nói là chẳng phải bất thiện.
Lại vì thiện pháp sanh rồi mà được, còn Phật tánh không phải sanh rồi mà được nên nói là chẳng phải thiện.
Bởi dứt cả thiện pháp sanh và được, nên gọi là nhất-xiển-đề.
Này thiện nam tử! Như ông gạn hỏi nếu nhất-xiển-đề có Phật tánh, tại sao không ngăn tội địa ngục?
Này thiện nam tử! Trong nhất-xiển-đề không có Phật tánh.
Ví như nhà vua nghe tiếng đờn véo von thánh thót, quá thích thú say sưa, bèn bảo đại thần: tiếng quá hay như thế từ đâu mà có?
Đại thần tâu là từ cây đờn phát ra tiếng ấy.
Nhà vua truyền đem đờn đến trước mặt, rồi bảo cây đờn kêu đi! Kêu đi! Cây đờn vẫn không kêu. Nhà vua bèn bứt dây, rọc da, chẻ cây, tìm mãi vẫn không có tiếng. Nhà vua nổi giận trách đại thần là tâu dối.
Đại thần phân trần: Nếu muốn cho đờn kêu ra tiếng thời phải khéo khảy đánh, chớ không phải làm cách như vậy.
Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, vốn không chỗ trụ. Dùng phương tiện khéo thời thấy được. Vì được thấy nên được vô thượng bồ đề.
Hạng nhất-xiển-đề không thấy Phật tánh, làm thế nào ngăn được tội ba ác đạo! 
Này thiện nam tử! Nếu nhất-xiển-đề tin có Phật tánh, nên biết rằng người này không bị sa vào ba ác đạo, cũng chẳng còn gọi là nhất-xiển-đề.
Vì không tự tin có Phật tánh nên phải đọa ác đạo, vì đọa ác đạo nên gọi là nhất-xiển-đề.
Này thiện nam tử! Như lời ông gạn, nếu trong sữa không có tánh của chất lạc thời lẽ ra chẳng có lạc; nếu trong hột ni-câu-đà không có tánh cao năm trượng thời lẽ ra không mọc lên cây cao năm trượng?
Kẻ ngu si mới nói như thế, người trí không bao giờ nói như thế, vì là không có tánh vậy.
Này thiện nam tử! Nếu trong sữa có tánh của chất lạc lẽ ra chẳng cần nhờ công lực các duyên. Như nước và sữa trộn lộn, rồi nằm chờ đến mãn tháng trọn không thành lạc. Nếu dùng một giọt sữa rồi tìm nước câu nhiễu vào bèn thành lạc. Nếu vốn đã có lạc sao lại phải chờ duyên.
Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, nhờ các nhân duyên thời được thấy, nhờ các nhân duyên được thành vô thượng Bồ Đề. Nếu phải chờ các nhân duyên rồi sau mới thành thời chính là vô tánh vậy. Do vô tánh nên có thể thành vô thượng Bồ Đề.
Này thiện nam tử! Do cớ trên đây nên Đại Bồ tát thường tán thán điều lành của người, chẳng rao nói lỗi xấu của kẻ khác, đây gọi là chất trực tâm.
Lại thế nào là Bồ Tát có tâm chất trực? Bồ Tát thường không phạm lỗi ác. Thiết sử có lầm lỗi thời liền sám hối với thầy, với bạn đồng học, trọn chẳng che giấu. Tự hổ thẹn, tự trách, chẳng dám tái phạm. Nơi tội khinh xem dường rất nặng. Nếu người gạn hỏi liền đáp rằng thiệt có phạm, là chẳng tốt, là chẳng lành, tội này là quả ác, là chính tôi gây tạo đây là do phiền não cấu tập. Do trực tâm nên tin có Phật tánh, vì tin có Phật tánh nên không gọi là nhất-xiển-đề. Do trực tâm nên gọi là đệ tử của Phật. Nếu lãnh thọ đồ cúng dường của người, dần mỗi thứ cả ngàn muôn cũng chẳng đủ làm nhiều.
Đây gọi là Bồ Tát tâm chất trực.
Thế nào là Bồ Tát tu trì giới luật?
Bồ Tát tu trì cấm giới, chẳng cầu sanh thiên, chẳng vì khủng bố, nhẫn đến chẳng thọ cẩu giới, kê giới, ngưu giới, trĩ giới. Chẳng thực hành phá giới, giới khuyết điểm, giới tỳ vết, giới tạp, giới Thanh Văn, mà thọ trì giới Đại Bồ Tát, thọ trì giới thi-la-ba-la-mật được giới đầy đủ chẳng sanh kiêu mạn.
Đây gọi là Bồ Tát tu Đại Niết Bàn trọn nên công hạnh thứ ba là giới.
Thế nào là Bồ Tát gần gũi thiện hữu?
Đại Bồ Tát thường vì chúng sanh nói thiện đạo chẳng nói ác đạo. Nói ác đạo chẳng phải quả báo lành tốt.
Này thiện nam tử! Thân của Phật đây là chân thiện tri thức của tất cả chúng sanh, vì thế nên có thể dứt tà kiến của Bà La Môn Phú Dà La. Nếu có chúng sanh nào gần gũi Phật, dầu có tội địa ngục cũng liền được sanh thiên, như gã Tu Na Sát Đa La v.v… đáng lẽ đọa địa ngục, do gặp được Phật tội liền tiêu trừ mà sanh lên trời cõi Sắc.
Dầu có các ông Xá Lợi Phật, Mục Kiền Liên v.v… nhưng chẳng gọi là chân thiện tri thức của chúng sanh, vì các ông ấy là nhân duyên sanh tâm nhất-xiển-đề vậy.
Này thiện nam tử! Ngày trước lúc Phật ở nước Ba La Nại, ông Xá Lợi Phất có dạy hai đệ tử: Một người tu bạch cốt quán, một người tu sổ-tức quán. Trải qua nhiều năm tu tập, cả hai người đều không được chánh định bèn sanh tà kiến cho rằng không Niết Bàn vô lậu, giả sử có thời lẽ ra chúng tôi đã được, vì chúng tôi khéo trì giới, tinh tấn tu.
Phật rõ việc này bèn gọi Xá Lợi Phất mà quở rằng: Ông không khéo dạy dỗ. Sao ông thuyết pháp điên đảo cho hai đệ tử như vậy. Hai đệ tử của ông đó, căn tánh đều khác nhau: một người vốn là thợ giặt, một người vốn là thợ kim hoàn. Thợ kim hoàn nên truyền pháp sổ-tức quán, người thợ giặt phải dạy bạch cốt quán. Vì ông dạy lầm nên làm cho cả hai sanh tà kiến.
Quở xong, Phật chỉ dạy cho hai người đệ tử tu quán như đã bảo với ông Xá Lợi Phất. Sau đó, hai người đều chứng quả A La Hán. Vì thế nên Phật là chân thiện tri thức của tất cả chúng sanh.
Giả sử có chúng sanh nào kiết sử cực trọng mà được gặp Phật, Phật liền dùng phương tiện dứt trừ được cả.
Như em Phật, ông Nan Đà, có dục vọng rất nặng, Phật dùng phương tiện khéo làm cho Nan Đà hết dục vọng.
Như gã Ươn Quật Ma La có lòng sân rất nặng, do gặp Phật mà hết sân.
Vua A Xà Thế có ngu si dày, đến ra mắt Phật liền hết ngu si.
Như trưởng giả Bà Hi Dà từ vô lượng kiếp quen tập phiền não rất nặng, quy y với Phật liền sạch hết phiền não.
Giả sử có kẻ tệ ác hèn hạ, được gần gũi Phật làm đệ tử, thời tất cả trời người đều cung kính mến tưởng.
Ông Thi Hội Cúc Đa tà kiến rất nặng, nhân gặp Phật mà hết tà kiến.
Do gặp Phật nên tiêu tội địa ngục thành duyên sanh thiên, như gã Chiên Đà La Khí Hứ.
Do gặp Phật, nên lúc sắp chết trở lại được sống lâu, như Thiên Đế Kiều Thi Ca.
Do gặp Phật, nên hết điên cuồng, như Sấu Cù Đàm Di.
Do gặp Phật, nên bỏ nghề giết thịt, như Tỳ Kheo Xiển Đề.
Do gặp Phật, nên thà chết chớ không phạm cấm giới, như các Tỳ Kheo bị trói bằng dây cỏ tươi.
Do nghĩa trên đây, nên A Nan nói nửa phần phạm hạnh là thiện tri thức, Phật bảo là không phải. Đầy đủ phạm hạnh mới gọi là thiện tri thức.
Đây là Bồ Tát tu Đại Niết Bàn trọn nên điều thứ tư là gần gũi thiện tri thức.
Thế nào là Bồ Tát đầy đủ đa văn?
Đại Bồ Tát vì Đại Niết Bàn, mười hai bộ kinh mà biên chép, đọc tụng, giải thuyết, thời gọi là Bồ Tát đầy đủ đa văn.
Trừ mười một bộ kinh, chỉ thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải thuyết bộ Tỳ Phật Lược, cũng gọi là Bồ Tát đầy đủ đa văn.
Trừ cả mười hai bộ kinh, nếu có thể thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải thuyết kinh điển vi diệu Đại Niết Bàn này thời gọi là Bồ Tát đầy đủ đa văn.
Không đợi thọ trì toàn bộ kinh này, chỉ thọ trì một bài kệ bốn câu, hoặc chỉ có thể thọ trì câu Như Lai thường trụ tánh không biến đổi; đây gọi là Bồ Tát đầy đủ đa văn.
Không đợi như trên, hoặc chỉ biết rằng Như Lai thường không thuyết pháp, cũng gọi là Bồ Tát đầy đủ đa văn, vì pháp vốn vô tánh. Như Lai dầu giảng nói tất cả pháp nhưng thường không chỗ nói.
Đây gọi là Bồ Tát tu tập Đại Niết Bàn trọn nên điều thứ năm là đầy đủ đa văn.
Này thiện nam tử! Nếu có nam tử cùng nữ nhân nào vì Đại Niết Bàn mà trọn nên năm điều như trên thời làm được việc khó làm, nhẫn được việc khó nhẫn, thí được việc khó thí.
Thế nào là Bồ Tát làm được việc khó làm?
Nếu nghe có người mỗi ngày ăn một hột mè mà được thành vô thượng bồ đề, vì tin theo đây, Bồ Tát có thể trong vô lượng vô số kiếp, mỗi ngày thường ăn một hột mè.
Nếu nghe rằng vào lửa mà được thành vô thượng bồ đề, Bồ Tát có thể trong vô lượng kiếp vào trong lửa dữ ở ngục A Tỳ.
Thế nào là Bồ Tát nhẫn được việc khó nhẫn?
Nếu nghe rằng chịu những đau khổ: tay đánh, gậy đập, đá ném, dao chém mà được Đại Niết Bàn, Bồ Tát có thể chịu đủ tất cả sự khổ ấy trong vô lượng kiếp mà không thấy là đau khổ.
Thế nào là Bồ Tát thí được việc khó thí?
Nếu nghe rằng đem vợ con, nhà nước, đầu, mắt, tủy, não bố thí cho người thời được thành vô thượng bồ đề, Bồ Tát liền ở trong vô lượng vô số kiếp đem những thứ ấy bố thí cho người, không một niệm hối tiếc.
Bồ Tát dầu làm, dầu nhẫn, dầu bố thí như vậy, song trọn không có quan niệm rằng tôi làm, tôi nhẫn, tôi bố thí.
Ví như cha mẹ chỉ có một con trai, rất mến yêu con, cho con ăn ngon, mặc đẹp. Nếu bị con khinh khi mắng hỗn, cha mẹ cũng không hờn giận, cũng chẳng nghĩ công nuôi dưỡng.
Cũng vậy, Bồ Tát xem chúng sanh như con một.
Nếu con phải bệnh, thời cha mẹ cũng bệnh, lo tìm thầy chạy thuốc: khi con đã được lành mạnh, cha mẹ cũng chẳng nghĩ rằng ta lo chạy chữa cho con.
Cũng vậy, Bồ Tát thấy chúng sanh bị mắc bệnh phiền não, thương xót đem chánh pháp dạy cho. Nhờ nghe chánh pháp mà chúng sanh dứt được phiền não. Bồ Tát trọn không nghĩ rằng ta làm cho chúng sanh hết phiền não. Nếu có quan niệm chúng sanh được độ thời không thể  thành vô thượng bồ đề. Chỉ có quan niệm rằng không có một chúng sanh nào được nghe ta thuyết pháp mà dứt phiền não.
Bồ Tát đối với chúng sanh không có lòng sân hận, không có lòng hỷ lạc, vì Bồ Tát khéo tu tập không tam muội. Nếu là tu tập không tam muội, thời Bồ Tát còn sanh sân, sanh hỷ đối với ai?
Ví như cụm rừng kia bị người chặt đốn, bị lửa cháy, bị nước ngập, cụm rừng sẽ sanh sân hỷ với ai? Cũng vậy, đối với chúng sanh Bồ Tát không có lòng sân hỷ, vì đã khéo tu tập không tam muội vậy." 
Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Tất cả các pháp là tánh nó tự không, hay là vì chẳng không nên không?
Nếu tánh nó tự không thời chẳng nên tu không rồi sau mới thấy được không. Tại sao đức Như Lai nói do tu không mà được thấy không?
Nếu tánh nó tự chẳng không, thời dầu có tu không, cũng chẳng thể làm cho nó thành không?"
Phật bảo: "Này thiện nam tử! Tất cả các pháp tánh của nó tự không, vì tánh của tất cả pháp vốn là bất khả đắc vậy.
Như sắc tánh bất khả đắc. Thế nào là sắc tánh? Xét nơi sắc, chẳng phải là địa, thủy, hỏa, phong, cũng chẳng rời ngoài địa, thủy, hỏa, phong; chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, cũng chẳng rời ngoài xanh, vàng, đỏ, trắng; chẳng phải có chẳng phải không, đâu có thể nói là sắc có tự tánh. Vì tánh bất khả đắc nên gọi là không.
Tất cả pháp khác cũng như vậy.
Bởi tương tự tương tục nên phàm phu theo kiến thức của mình mà cho là các pháp tánh chẳng không tịch. Còn Đại Bồ Tát nhờ đầy đủ năm công hạnh nên thấy tất cả pháp, tánh vốn không tịch.
Này thiện nam tử! Nếu có Sa Môn hay Bà La Môn nào thấy tất cả pháp, tánh chẳng không, phải biết người đó không phải là Sa Môn, Bà La Môn, người đó không tu tập bát-nhã ba-la-mật, chẳng được vào Đại Niết Bàn, chẳng được hiện tiền thấy Phật, Bồ Tát; người đó là quyến thuộc của ma.
Này thiện nam tử! Tất cả các pháp, tánh nó vốn tự không, cũng do Bồ Tát tu tập không mà thấy các pháp là không.
Này thiện nam tử! Như tất cả pháp vì tánh nó vô thường nên diệt có thể diệt được. Nếu chẳng phải là vô thường thời diệt chẳng thể diệt được.
Pháp hữu vi, vì có sanh tướng nên sanh có thể sanh nó, vì có diệt tướng nên diệt có thể diệt nó. Các pháp vì có tướng khổ nên khổ có thể làm cho khổ?
Như tánh muối là mặn nên có thể ướp mặn vật khác. Vì tánh mật là ngọt nên có thể ướp ngọt vật khác. Vì tánh giấm là chua nên có thể ướp chua vật khác. Vì tánh gừng là cay nên có thể ướp cay vật khác. Vì A Lê Lặc đắng nên có thể ướp đắng vật khác. Vì trái am-la lạt nên có thể ướp lạt vật khác. Tánh chất độc có thể làm hại, nên ướp vật khác thành độc có thể làm hại. Tánh cam lộ làm cho người không chết, nếu đem hiệp với vật khác cũng có thể thành vị bất tử.
Bồ tát tu không cũng như vậy. Vì tu không nên thấy tất cả pháp, tánh của nó đều không tịch."
Cao Quý Đức Vương Bồ Tát lại bạch: "Thế Tôn! Nếu như muối có thể làm cho vậy không phải mặn thành ra mặn. Tu không tam muội cũng như vậy, thời chánh định này không lành, không diệu, tánh cách điên đảo. Nếu không tam muội chỉ thấy không, không là không có pháp thời là thấy những gì?"
Phật bảo: "Này thiện nam tử! Không tam muội này thấy nơi pháp chẳng phải không, mà có thể làm thành không tịch, nhưng vẫn chẳng phải là điên đảo. Như muối làm vật không mặn thành mặn. Cũng vậy, không tam muội làm pháp chẳng không thành không.
Này thiện nam tử! Tham là tánh có chẳng phải tánh không. Nếu tham là tánh không thời lẽ ra chúng sanh chẳng vì tham mà phải đọa địa ngục. Nếu bị đọa địa ngục, thời tham tánh đâu phải là không!
Này thiện nam tử! Sắc tánh là có. Gì là sắc tánh? Chính là điên đảo. Do điên đảo nên chúng sanh tham đắm. Nếu sắc tánh chẳng phải điên đảo thời đâu có thể làm cho chúng sanh tham đắm! Vì sanh tham nên biết rằng sắc tánh chẳng phải là không có. Do cớ trên đây nên tu không tam muội chẳng phải là điên đảo vậy.
Này thiện nam tử! Tất cả phàm phu nếu thấy người nữ liền sanh tướng nữ.
Bồ Tát thời không như vậy, dầu thấy người nữ nhưng không sanh tướng nữ; vì không sanh tướng nữ nên không sanh tham; tham không sanh chẳng phải là điên đảo vậy.
Vì người đời thấy có người nữ, nên Bồ Tát tùy thuận nói có người nữ. Nếu lúc thấy người nam mà nói là nữ, thời là điên đảo.
Do đây nên Phật bảo Xà Đề rằng: Này Bà La Môn! Nếu cho ngày là đêm, thời là điên đảo. Cho đêm là ngày cũng là điên đảo.
Này thiện nam tử! Tất cả Bồ Tát trụ bậc cửa địa thấy pháp có tánh, do đây nên không thấy Phật tánh, nếu đã thấy Phật tánh thời chẳng còn thấy tánh tất cả pháp. Do tu tập không tam muội nên chẳng thấy pháp tánh. Vì không thấy pháp tánh nên thấy Phật tánh.
Chư Phật và Bồ Tát có hai thuyết: một là có tánh, hai là không tánh.
Vì chúng sanh nên nói có pháp tánh, vì các bậc hiền thánh nên nói không pháp tánh.
Vì muốn người không thấy được pháp không, nên tu không tam muội khiến thấy được không. Người không thấy pháp tánh cũng do tu không nên không. Do nghĩa này nên tu không thời thấy được không.
Này thiện nam tử! Ông gạn rằng: Người thấy không đó, không là không có pháp thời thấy những gì?
Này thiện nam tử! Đúng như vậy, Đại Bồ tát thiệt không chỗ thấy, không chỗ thấy chính là không chỗ có, không chỗ có chính là tất cả pháp. Đại Bồ Tát tu Đại Niết Bàn nơi tất cả pháp đều không chỗ thấy. Nếu có chỗ thấy thời không thấy Phật tánh, không thể tu tập bát-nhã ba-la-mật. Chẳng được vào nơi Đại Niết Bàn. Vì thế nên Bồ Tát thấy tất cả pháp, tánh vô sở đắc.
Này thiện nam tử! Bồ Tát chẳng những nhân tu tam muội mà thấy không, Bát-nhã ba-la-mật cũng không, thiền ba-la-mật cũng không, tỳ-lê-gia ba-la-mật cũng không, sằn-đề ba-la-mật cũng không, thi-la ba-la-mật cũng không, đàn ba-la-mật cũng không, sắc cũng không, nhãn cũng không, thức cũng không, Như Lai cũng không, Đại Niết Bàn cũng không. Vì thế nên Bồ Tát thấy tất cả pháp đều là không.
Do đây nên lúc ở thành Ca Tỳ La, Phật bảo A Nan: ông chớ sầu não khóc lóc! - A Nan bạch: Thế Tôn! Nay quyến thuộc của tôi đều bị giết chết cả, làm sao tôi không sầu não khóc lóc được! Như Lai cùng tôi đồng sanh trưởng tại thành này, đồng là thân thích của dòng Thích Ca, tại sao chỉ riêng có Như Lai là không sầu não, dung nhan lại tươi sáng như vậy?
- Này A Nan! Ông thấy thành Ca Tỳ La là có thật, còn Phật thời thấy là không tịch trọn không chỗ có. Ông thấy dòng Thích Ca là thân thích, còn Phật vì tu không nên đều không chỗ thấy. Vì thế nên ông sanh lòng sầu khổ, còn dung nhan của Phật càng thên tươi sáng.
Này thiện nam tử! Vì chư Phật và Bồ Tát tu tập không tam muội như vậy nên chẳng sanh sầu não.
Đây gọi là Bồ Tát tu tập kinh Đại Niết Bàn, thành tựu đầy đủ phần công đức thứ chín.
Này thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát tu tập kinh Đại Niết Bàn, thành tựu đầy đủ phần công đức thứ mười rốt sau cả?
Bồ Tát tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo vào Đại Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh. Vì các chúng sanh phân biệt giải thuyết kinh Đại Niết Bàn hiển thị Phật tánh.
Nếu Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát tin lời trên đây thời đều được vào Đại Niết Bàn. Nếu người không tin thời luân hồi sanh tử."
Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Những chúng sanh nào ở trong kinh này chẳng sanh lòng cung kính?"
Phật bảo: "Này thiện nam tử! Sau khi ta nhập Niết Bàn có hàng Thanh Văn đệ tử ngu si phá giới ưa sanh sự đấu tranh, bỏ mười hai bộ kinh, mà đi đọc tụng văn kệ sách vở của ngoại đạo, nhận chứa tất cả vật bất tịnh, nói rằng Phật cho phép. Những người ngu si này đem Chiên Đàn tốt đổi lấy gỗ tạp, đem vàng đổi lấy thau, đem bạc đổi lấy nhôm, hàng lụa đổi lấy bố gai, đem vị cam lộ đổi lấy chất độc.
Thế nào là Chiên Đàn đổi gỗ tạp?
Như các đệ tử vì cúng dường mà thuyết kinh pháp cho hàng bạch y. Hàng bạch y phóng dật không thích nghe pháp. Bạch y ngồi cao, Tỳ Kheo ngồi thấp, nhẫn đến đem những đồ ăn uống ngon để cung cấp mà họ vẫn chẳng bằng lòng nghe. Đây gọi là đem Chiên Đàn đổi lấy gỗ tạp.
Thế nào là đem vàng đổi lấy thau.
Thau là dụ cho sắc, thanh, hương, vị, xúc năm dục trần, vàng là dụ cho giới. Đệ tử của ta vì sắc mà phá giới đã thọ. Đây là đem vàng đổi lấy thau.
Thế nào là đem bạc đổi lấy nhôm?
Bạc dụ cho thập thiện, nhôm dụ cho thập ác. Đệ tử của ta vất bỏ mười hạnh lành mà làm mười điều ác. Đây là đem bạc đổi nhôm vậy.
Thế nào là đem lụa đổi gai bố?
Gai bố dụ cho vô tàm vô quý. Lụa dụ cho tàm quý. Đệ tử của ta bỏ tàm quý quen tập vô tàm vô quý. Đây là đem lụa đổi gai vậy.
Thế nào là vị cam lồ đổi chất độc?
Chất độc dụ cho các thứ lợi dưỡng. Cam lồ dụ cho pháp vô lậu. Đệ tử của ta vì lợi dưỡng mà tự khoe với hàng bạch y rằng mình được vô lậu. Đây là cam lồ đổi chất độc.
Sau này kinh Đại Niết Bàn lưu hành ở Diêm Phù Đề, có các đệ tử Phật thọ trì, đọc tụng, biên chép, diễn thuyết sẽ bị các ác Tỳ Kheo đây giết hại.
Lúc đó các ác Tỳ Kheo nhóm họp nhau lập chế ước nghiệm rằng: vị nào đọc tụng thọ trì biên chép diễn thuyết kinh Đại Niết Bàn, đều chẳng được cùng ở, cùng ngồi, cùng đàm luận chuyện trò. Vì kinh Đại Niết Bàn chẳng phải của Phật nói, do người tà kiến tạo ra. Người tà kiến là lục sư, kinh điển của lục sư chẳng phải kinh điển của Phật. Vì tất cả chư Phật đều nói các pháp là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Nếu nói các pháp là thường, lạc, ngã, tịnh thời đâu phải là kinh do Phật nói.
Chư Phật cho các đệ tử chứa các thứ vật, còn lục sư chẳng cho các đệ tử cất chứa tất cả vật. Nếu cấm chứa thời thế nào lại là lời của Phật?
Chư Phật chẳng cấm đệ tử dứt hẳn năm vị sữa bò và ăn thịt. Còn lục sư chẳng cho ăn năm thứ muối, năm thứ vị sữa bò và huyết mỡ. Nếu cấm những thứ này thời đâu phải là kinh điển chánh của Phật!
Chư Phật nói ba thừa, mà kinh này thuần nói nhất thừa là Đại Niết Bàn, thời đâu gọi là kinh điển chánh của Phật được!
Chư Phật rốt ráo nhập Niết Bàn, còn kinh này nói Phật là thường, lạc, ngã, tịnh, chẳng nhập Niết Bàn.
Kinh này không ở trong số mười hai bộ, chính là ma thuyết, chẳng phải Phật thuyết.
Này thiện nam tử! Người như trên đây dầu là đệ tử Phật mà chẳng thể tin thuận kinh Đại Niết Bàn này.
Này thiện nam tử! Trong thời kỳ như vậy, nếu có chúng sanh tin kinh điển này nhẫn đến nửa câu, phải biết rằng người này thiệt là đệ tử của Phật, do sự tin này mà thấy Phật tánh nhập Đại Niết Bàn."
Cao Quý Đức Vương Bồ Tát nói: "Lành thay! Lành thay! Ngày nay đức Như Lai khéo khai thị kinh Đại Niết Bàn.
Thế Tôn! tôi nhân việc này bèn được giải ngộ kinh Đại Niết Bàn một câu nửa câu. Do hiểu một câu đến nửa câu nên thấy chút phần Phật tánh. Cứ như lời Phật nói, tôi cũng sẽ được vào Đại Niết Bàn.

Đây gọi là Bồ Tát tu tập kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ mười."

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q2) - Phẩm TRÍ TUỆ (Phần 3)

Trong việc này nhị thừa còn chẳng làm được huống là có thể khiến tâm chẳng động theo. Đây gọi là Bồ Tát tâm chẳng theo nơi thân.
Đại Bồ Tát dùng một âm thanh có thể làm cho tất cả chúng sanh trong đại thiên thế giới đều nghe trong tâm, Bồ Tát trọn chẳng nghĩ rằng khiến âm thanh này khắp đến các thế giới làm cho chúng sanh được nghe. Nếu Bồ Tát nói rằng do tôi thuyết pháp làm cho chúng sanh được nghe nên biết người này trọn chẳng thể đặng vô thượng chánh giác. Vì tâm tưởng như trên đây là tâm sanh tử. Tất cả đại Bồ Tát đã hết tâm sanh tử này vì thế nên thân tâm của Bồ Tát chẳng theo dõi nhau.
Này thiện nam tử! Tất cả phàm phu thân tâm theo nhau. Bồ Tát chẳng như vậy vì hóa độ chúng sanh nên dầu hiện thân nhỏ nhưng tâm chẳng bé nhỏ vì tâm tánh của Bồ Tát luôn rộng lớn. Dầu lúc hiện thân lớn như đại thiên thế giới, nhưng tâm cũng chẳng lớn. Do nghĩa này nên tâm của Bồ Tát chẳng theo nơi thân. Đại Bồ Tát đã từ vô lượng, vô số kiếp xa lìa rượu chẳng uống, nhưng tâm cũng động, tâm không buồn khổ mà thân cũng rơi lệ, thiệt không kinh sợ mà thân cũng run rẩy, do đây nên biết rằng Bồ Tát thân tâm tự tại, chẳng theo dõi nhau. Đại Bồ Tát dầu hiện một thân, mà các chúng sanh mỗi người tự thấy sai khác.
Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, xưa chỗ chẳng nghe mà nay được nghe? Đại Bồ Tát trước lấy tướng các thứ tiếng: tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng người, tiếng ốc, tiếng trống, tiếng ống tiêu, tiếng ca, tiếng cười v.v… mà luyện tập đó, do luyện tập nên có thể nghe tất cả tiếng của những địa ngục trong vô lượng đại thiên thế giới, lại càng tu tập thêm nên được nhĩ căn khác lạ, khác hơn thiên nhĩ của Thanh Văn, Bích Chi Phật. Vì nhĩ căn thanh tịnh của nhị thừa nếu nương tứ đại tịnh diệu của Sơ Thiền thời chỉ nghe tiếng cõi Sơ Thiền chẳng nghe được cõi Nhị Thiền, nhẫn đến tứ thiền cũng như vậy, dầu có thể trong một lúc được nghe tất cả tiếng trong đại thiên thế giới nhưng chẳng thể nghe được tiếng trong vô lượng vô biên hằng-hà-sa thế giới. Do nghĩa này nên gọi là Bồ Tát xưa chỗ chẳng nghe mà nay được nghe. Bồ Tát dầu nghe tiếng tâm mà trong lòng vẫn không có tướng nghe tiếng, chẳng có tướng thường, lạc, ngã, tịnh, tướng chủ, tướng y, tướng tác, tướng nhân, tướng định, tướng quả. Do nghĩa này nên các vị Bồ Tát xưa chỗ chẳng nghe mà nay được nghe."
Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Như Phật nói Bồ Tát chẳng thấy có tướng định, không tướng quả thời không được đúng. Vì trước kia Như Lai nói: Nếu có người nghe một chữ một câu kinh Đại Niết Bàn này quyết định được thành vô thượng Bồ Đề. Giờ đây sao Như Lai lại nói là không định, không quả? Nếu được vô thượng Bồ Đề thời chính là tướng quyết định, chính là tướng quả sao lại nói rằng không định không quả? Vì nghe tiếng ác thời sanh tâm ác, vì sanh tâm ác thời đọa tam đồ, nếu đọa tam đồ thời là định quả, sao lại nói rằng không định không quả?"
Như Lai khen rằng: "Lành thay! Lành thay! Ông có thể thưa hỏi như vậy. Giả sử chư Phật nói các âm thanh là có tướng định quả, là tướng ma vương, là tướng sanh tử, là tướng xa lìa Niết Bàn. Vì tất cả chư Phật chỗ nói ra không có tướng định quả. Ví như dùng lưỡi dao sáng soi mặt người: Dựng đứng thời thấy mặt dài, để ngang thời thấy mặt rộng. Do nghĩa đây nên chư Phật phàm nói ra không có tướng định quả. Đại Niết Bàn thiệt chẳng phải kết quả của tiếng. Giả sử Niết Bàn là quả của tiếng thời Niết Bàn chẳng phải là pháp thường trụ. Ví như những pháp trong đời theo nhân mà sanh, có nhân thời có quả, không nhân thời không quả, vì nhân vô thường nên quả cũng vô thường, nhân cũng làm quả, quả cũng làm nhân, do nghĩa này nên tất cả pháp không có tướng nhất định. Giả sử Niết Bàn từ nhân mà sanh, vì nhân vô thường nên quả cũng vô thường. Nhưng Niết Bàn chẳng từ nhân mà sanh, thể Niết Bàn chẳng phải là quả, vì thế nên Niết Bàn chẳng phải là quả, vì thế nên Niết Bàn là thường trụ. Do nghĩa đây nên thể của Niết Bàn là không định không quả.
Này thiện nam tử! Luận về Niết Bàn, cũng có thể nói là định, cũng có thể nói là quả. Niết Bàn của tất cả chư Phật là thường, lạc, ngã, tịnh, nên nói là định, không sanh già hư hoại nên nói là định. Nhất-xiển-đề phạm bốn tội nặng, hủy báng đại thừa, tạo tội ngũ nghịch, rời bỏ bổn tâm, thời quyết định chứng đặng Niết Bàn, nên gọi là định.
Này thiện nam tử! Như ông vừa nói: Nếu có người nghe một chữ, một câu kinh Đại Niết Bàn, thời đặng vô thượng Bồ Đề. Đối với nghĩa này, ông còn chưa hiểu rõ. Ông nên lóng nghe! Nếu có người nghe một câu, một chữ kinh Đại Niết Bàn, trong tâm chẳng có quan niệm tướng chữ, tướng câu, chẳng có tướng nghe, tướng Phật, tướng nói pháp, đây gọi là tướng vô tướng. Do tướng vô tướng nên đặng vô thượng Bồ Đề.
Này thiện nam tử! Như ông vừa nói vì nghe tiếng ác, mà đến tam đồ, nghĩa đó không phải. Vì chẳng phải tiếng ác mà đến tam đồ. Phải biết quả này là do tâm ác. Ví như có người nghe tiếng ác mà tâm chẳng sanh ác, do đây nên biết chẳng phải do tiếng ác mà đọa trong tam đồ. Nhưng chúng sanh do nơi phiền não ác tâm quá nhiều mà phải sanh vào ba đường ác, chẳng phải là do nơi tiếng ác. Nếu tiếng có tướng quyết định, những người nghe tiếng ác, lẽ ra tất cả đều sanh tâm ác. Nay nghe tiếng ác mà có người sanh tâm ác, có người chẳng sanh tâm ác, nên biết rằng tiếng không có tướng quyết định. Do vì không tướng quyết định nên dầu nghe tiếng ác mà chẳng sanh tâm ác."
- "Bạch Thế Tôn! Tiếng nếu không quyết định, cớ sao Bồ Tát nay đặng nghe chỗ chưa chẳng nghe?"
- "Này thiện nam tử! Tiếng không có tướng quyết định nên làm cho Bồ Tát nay được nghe chỗ xưa chẳng nghe. Do nghĩa này nên Như Lai nói xưa chỗ chẳng nghe, mà nay được nghe.
Này thiện nam tử! Thế nào là chỗ xưa chẳng thấy mà nay được thấy? Đại Bồ Tát tu kinh Đại Niết Bàn, trước lấy tướng sáng: Những ánh sáng mặt trời, mặt trăng, tinh tú, đèn đuốc, bảo châu, lửa. Do tu tập ánh sáng mà đặng nhãn căn khác lạ, khác hơn Thiên nhãn của Thanh Văn Duyên Giác. Thiên nhãn của nhị thừa nếu nương nơi nhãn căn tứ đại cõi dục thời chẳng thấy sơ thiền, nếu nương nới nhãn căn sơ thiền thời chẳng thấy cõi trên, cũng chẳng thấy nhãn căn của chính mình, nhiều lắm là thấy tột đến đại thiên thế giới. Đại Bồ Tát chẳng tu thiên nhãn, thấy sắc thân tốt đẹp đều là tướng xương trắng, dầu thấy sắc tướng trong hằng-hà-sa thế giới khác, nhưng chẳng tưởng là sắc tướng, chẳng tưởng là tướng thường, tướng có, tướng vật, tướng danh tự, chẳng tưởng là tướng thấy, cũng chẳng nói nhãn căn này có tướng thanh tịnh vi diệu, chỉ thấy là tướng nhân duyên, cùng tướng chẳng phải nhân duyên. Thế nào là nhân duyên? Sắc là cảnh duyên của nhãn căn. Giả sử sắc chẳng phải là nhân duyên, thời tất cả phàm phu lẽ ra chẳng thấy tướng sắc. Thế nào là chẳng phải nhân duyên? Đại Bồ Tát dầu thấy sắc nhưng chẳng tưởng là tướng sắc, do đây nên chẳng phải là duyên. Vì thế nên thiên nhãn thanh tịnh của Bồ Tát khác với thiên nhãn của Thanh Văn Duyên Giác. Trong một lúc Bồ Tát thấy khắp chư Phật hiện tại ở mười phương thế giới. Cũng có thể thấy vi trần. Hàng Thanh Văn Duyên Giác chẳng thấy được như thế. Bồ Tát dầu thấy nhãn căn của mình mà vẫn không có tướng thấy, thấy tướng vô thường, thấy thân của phàm phu có ba mươi sáu vật, chứa đầy những thứ bất tịnh, thấy rõ như xem trái a-ma-lặc trong bàn tay. Nếu thấy sắc tướng của chúng sanh, Bồ Tát biết người này là căn tánh đại thừa hay tiểu thừa. Đụng chạm đến y phục của họ, Bồ Tát cũng biết người đó có những căn lành hay căn chẳng lành. Do đây nên gọi là xưa chỗ chẳng thấy mà nay được thấy, cũng gọi là xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết. Vì khi thấy thời biết chỗ xưa chẳng biết, do vì biết nên thấy chỗ xưa chẳng thấy.
Này thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết? Đại Bồ Tát dầu biết tâm tham, sân, si của phàm phu, nhưng vẫn chẳng tưởng là tâm và tâm sở, chẳng tưởng là chúng sanh cùng vật. Thường tu tướng rốt ráo không đệ-nhất-nghĩa, do tu tập tướng không, nên biết được chỗ xưa chẳng biết.
Biết như thế nào? Biết không có ngã không có ngã sở, biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Vì có Phật tánh nên hàng nhất-xiển-đề rời bỏ được bổn tâm thời sẽ đặng vô thượng chánh giác. Những điều trên đây hàng Thanh Văn Duyên Giác chẳng biết được mà Bồ Tát có thể biết. Vì thế nên gọi là xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.
Đại Bồ Tát tu kinh Đại Niết Bàn nhớ đời quá khứ tất cả chúng sanh bao nhiêu những dòng họ cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc, bạn thân, kẻ thù. Trong một niệm Bồ Tát đặng trí khác lạ, khác với trí huệ của Thanh Văn, Duyên Giác. Thế nào là khác? Trí huệ của Thanh Văn, Duyên Giác nhớ đến dòng họ cha mẹ v.v… của chúng sanh đời quá khứ mà có tướng dòng họ cha mẹ v.v… Bồ Tát dầu nghĩ nhớ dòng họ cha mẹ thuở quá khứ, nhưng trọn chẳng tưởng có tướng dòng họ cha mẹ v.v… mà thường thấy tướng không tịch. Đây gọi là Bồ Tát xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết.
Đại Bồ Tát tu hành kinh đại Niết Bàn đặng tha tâm trí khác với Thanh Văn, Duyên Giác. Thế nào là khác? Hàng Thanh Văn, Duyên Giác lúc dùng một niệm trí biết tâm của người, thời chẳng thể biết tâm của chư thiên, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục. Trong một niệm Bồ Tát biết khắp tất cả tâm của lục đạo chúng sanh. Đây gọi là Bồ Tát xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết. Bồ Tát lại ở trong một tâm rõ biết từ sơ tâm đến tâm thứ mười sáu của Tu Đà Hoàn. Do đây nên gọi là xưa chỗ chẳng biết mà nay được biết. Đây là Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ hai.
Này thiện nam tử! Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ ba? Đại Bồ Tát bỏ lòng từ đặng lòng từ, lúc đặng lòng từ chẳng do nhân duyên. Thế nào là bỏ lòng từ đặng lòng từ? Từ gọi là thế đế. Đại Bồ Tát bỏ lòng từ thế đế đặng lòng từ đệ nhất nghĩa. Lòng từ đệ nhất nghĩa chẳng do nhân duyên. Lòng từ nếu là có thể bỏ thời gọi là lòng từ của phàm phu, lòng từ nếu có thể được thời gọi là lòng từ vô duyên của Bồ Tát, đặng lòng từ lân mẫn, đặng lòng từ của Như Lai, lòng từ này là lòng từ không nhân duyên. Lại bỏ lòng từ của hoàng môn, của người không căn, hai căn, nữ nhân, đồ tể, thợ săn v.v… cũng bỏ lòng từ của Thanh Văn, Duyên Giác, đặng lòng từ vô duyên của Bồ Tát. Chẳng còn thấy lòng từ của mình cũng chẳng thấy lòng từ của người, cũng chẳng thấy trì giới phá giới. Dầu tự thấy lòng bi nhưng chẳng thấy tướng chúng sanh. Dầu có chịu khổ nhưng chẳng thấy người chịu khổ. Vì Bồ Tát tu hành chân thật không đệ nhất nghĩa nên thành tựu đầy đủ phần công đức thứ ba như vậy.
Này thiện nam tử! Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ tư? Nơi đây có mười việc: Một là căn lành sâu không bị lay động, hai là đối với thân mình có quan niệm quyết định, ba là chẳng thấy phước điền và chẳng phải phước điền, bốn là tu tập công hạnh thanh tịnh Phật độ, năm là diệt trừ ba thứ hữu dư, sáu là dứt trừ nghiệp duyên, bảy là tu thân thanh tịnh, tám là rõ biết các duyên, chín là lìa những oán địch, mười là dứt trừ nhị biên.
1) Thế nào là căn lành sâu khó lay động. Căn lành đây nói chẳng phóng dật, chẳng phóng dật là căn lành của vô thượng Bồ Đề. Cội gốc pháp lành của tất cả chư Phật đều do chẳng phóng dật. Vì chẳng phóng dật nên những căn lành khác lần lần được tăng trưởng. Như trong các thứ dấu chân, dấu chân của voi là hơn hết, ở trong các pháp lành, chẳng phóng dật cũng là hơn hết. Như trong các thứ ánh sáng, ánh sáng mặt trời là hơn hết, chẳng phóng dật cũng là hơn hết các pháp lành khác. Như vua Chuyển Luân là bậc nhất trong các vua chúa, chẳng phóng dật cũng là bậc nhất trong các pháp lành. Như trong các dòng nước, bốn sông là hơn hết, chẳng phóng dật cũng là hơn hết trong các pháp lành. Như núi Tu Di là bậc nhất trong các núi, chẳng phóng dật cũng là hạng bậc nhất trong các pháp lành. Như hoa sen xanh hơn tất cả những hoa mọc trong nước, chẳng phóng dật cũng là hơn hết trong các pháp lành. Như hoa Bà Lợi Sư Ca hơn tất cả thứ hoa mọc trên đất, chẳng phóng dật cũng hơn hết các pháp lành khác. Như trong các loài thú, sư tử là hơn hết, chẳng phóng dật hơn những pháp lành khác. Như trong các loài chim, Kim Súy Điểu là bậc nhất, chẳng phóng dật cũng là bậc nhất trong các pháp lành. Như trong loài thân to lớn, La Hầu A Tu La Vương là to hơn cả, chẳng phóng dật cũng là hơn hết trong các pháp lành. Như trong tất cả chúng sanh, đức Như Lai là tôn quý nhất, chẳng phóng dật cũng là bậc nhất trong các pháp lành. Như trong các đoàn thể, chư Tăng là hơn hết, chẳng phóng dật cũng hơn hết trong các pháp lành. Như trong giáo pháp của Phật, kinh Đại Niết Bàn là hơn hết, chẳng phóng dật cũng là hơn hết trong các pháp lành. Do những nghĩa này nên căn lành chẳng phóng dật sâu bền khó lay động.
Thế nào là do chẳng phóng dật mà được thêm lớn các căn lành? Những căn lành: tín, giới, bố thí, trí huệ, nhẫn nhục, đa văn, tinh tấn, niệm, định, thiện tri thức đều do chẳng phóng dật mà được thêm lớn.
2) Này thiện nam tử! Thế nào là đối với thân mình Bồ Tát có quan niệm quyết định? Bồ Tát quyết định biết rằng thân của ta đây quyết định sẽ làm pháp khí vô thượng Bồ Đề ở đời vị lai, chẳng có tâm hẹp nhỏ, chẳng có tâm biến đổi, chẳng sanh tâm Thanh Văn Bích Chi Phật, chẳng sanh tâm ma, tâm tự hưởng vui, tâm sanh tử. Thường vì chúng sanh cầu tâm từ bi. Đây gọi là Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn đối với thân mình sanh lòng quyết định.
3) Này thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát chẳng thấy phước điền và chẳng phải phước điền? Những gì là phước điền? Ngoại đạo trì giới trên đến chư Phật đây gọi là phước điền. Nếu có người nghĩ rằng những bậc này thuộc về phước điền nên biết tâm này hẹp kém.
Đại Bồ Tát quan sát tất cả chúng sanh không ai chẳng phải là phước điền, do vì Bồ Tát khéo tu tập niệm xứ khác lạ, nên quan sát chúng sanh không thấy có trì giới cùng hủy giới. Thường quan sát bốn pháp bố thí của Phật nói ra đều đặng quả báo thanh tịnh. Những gì là bốn thứ bố thí? Một là thí chủ thanh tịnh, người thọ chẳng thanh tịnh. Hai là thí chủ chẳng thanh tịnh, người thọ thanh tịnh. Ba là thí chủ cùng người thọ đều thanh tịnh. Bốn là thí chủ cùng người thọ đều chẳng thanh tịnh.
Thí chủ có đủ trì giới đa văn trí huệ rõ biết nhân cùng quả bố thí, người thọ thời phá giới tà kiến không tin bố thí cùng quả báo, đây gọi là thí chủ thanh tịnh mà người thọ chẳng thanh tịnh.
Nếu thí chủ phá giới tà kiến không tin bố thí cùng quả báo, người thọ thời trì giới đa văn trí huệ biết có nhân cùng quả bố thí, đây gọi là thí chủ chẳng thanh tịnh người thọ thời thanh tịnh.
Nếu người bố thí cùng người thọ đều trì giới đa văn trí huệ biết có bố thí cùng quả báo, đây gọi là người thí người thọ đều thanh tịnh.
Nếu người thí người thọ đều phá giới tà kiến không tin nhân cùng quả bố thí, đây gọi là người thí kẻ thọ đều chẳng thanh tịnh."
- "Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy, tại sao lại nói Bồ Tát được quả báo thanh tịnh vì không thí, không báo nên gọi là thanh tịnh?"
- "Này thiện nam tử! Nếu có người chẳng thấy bố thí cùng quả báo bố thí, nên biết rằng người này chẳng gọi là phá giới tà kiến.
Này thiện nam tử! Nếu y theo nhị thừa nói rằng chẳng thấy bố thí cùng quả báo, đây gọi là phá giới tà kiến. Nếu nương kinh Đại Niết Bàn này mà chẳng thấy bố thí cùng quả báo thời gọi là trì giới chánh kiến. Đại Bồ Tát có niệm xứ khác lạ, do tu tập niệm xứ này nên chẳng thấy chúng sanh trì giới phá giới, người thí người thọ và quả báo bố thí, nên được gọi là trì giới chánh kiến. Vì những nghĩa trên đây nên Đại Bồ Tát chẳng thấy phước điền và chẳng phải phước điền.
Thế nào gọi là thanh tịnh cõi Phật? Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì vô thượng Bồ Đề vì độ chúng sanh, nên lìa tâm giết hại. Do căn lành này nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật, nguyện chúng sanh đặng thọ mạng dài lâu có thế lực lớn được thần thông lớn. Do sức thệ nguyện này, nên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, tất cả chúng trong cõi nước được thọ mạng dài lâu, có thế lực lớn và thần thông lớn.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, vì vô thượng bồ đề, vì độ chúng sanh, nên lìa tâm trộm cướp. Đem căn lành này nguyện cùng tất cả chúng sanh, đồng thành Phật. Nguyện cõi nước thuần là bảy báu, chúng sanh đầy đủ vật cần dùng tùy theo ý muốn. Do sức thệ nguyện này nên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, cõi nước thuần là bảy báu, chúng sanh giàu đủ tùy ý tự tại.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, vì vô thượng Bồ Đề, vì độ chúng sanh nên lìa tâm tham dục. Đem căn lành này nguyện cùng chúng sanh đồng thành Phật. Nguyện tất cả chúng sanh không có tham dục, sân khuể, ngu si, cũng không có người đói khát khổ não. Do sức thệ nguyện này, nên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, chúng sanh trong cõi nước xa lìa tâm tham dục, sân khuể, ngu si, không có người đói khát khổ não.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì vô thượng Bồ Đề, vì độ chúng sanh nên lìa tâm vọng ngữ. Đem căn lành này nguyện tất cả chúng sanh cùng thành Phật. Nguyện các cõi nước thường có cây bông, cây trái, cây mùi thơm, chúng sanh đều được tiếng nói tốt. Do sức thệ nguyện này nên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, cõi nước thường có cây bông cây trái, cây mùi thơm, chúng sanh đều được tiếng nói tốt thanh tịnh.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì vô thượng Bồ Đề vì độ chúng sanh nên xa lìa tâm lưỡng thiệt. Đem căn lành này nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật. Nguyện các cõi nước tất cả chúng sanh thường hòa hiệp nhau, cùng nhau giảng nói chánh pháp. Do sức thệ nguyện này, nên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, tất cả chúng sanh trong cõi nước đều hòa hiệp nhau cùng nhau giảng luận pháp yếu.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, vì vô thượng Bồ Đề, vì độ chúng sanh nên xa lìa tâm ác khẩu. Đem căn lành này nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật, nguyện các cõi nước mặt đất bằng phẳng, không có sạn sỏi gai góc, chúng sanh đều có tâm bình đẳng. Do sức thệ nguyện này, nên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, cõi nước bằng thẳng không có sạn sỏi gai góc, tâm chúng sanh đều bình đẳng.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, vì vô thượng Bồ Đề, vì độ chúng sanh nên lìa lời nói vô nghĩa. Đem căn lành này nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật. Nguyện chúng sanh không có khổ não. Do sức thệ nguyện này, nên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, tất cả chúng sanh trong cõi nước không có khổ não.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết bàn, vì vô thượng bồ đề vì độ chúng sanh nên xa lìa tâm tham lam tật đố. Đem căn lành này nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật. Nguyện chúng sanh không có tham lam tật đố, não hại, tà kiến. Do sức thệ nguyện này nên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, chúng sanh trong cõi nước đều không có tâm tham lam, tật đố, não hại, tà kiến.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì vô thượng Bồ Đề, vì độ chúng sanh, nên xa lìa tâm não hại. Đem căn lành này nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật. Nguyện chúng sanh đồng tu tập đại từ, đại bi, đặng bậc nhất tử (con một). Do sức thệ nguyện này nên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, chúng sanh trong cõi nước đều tu tập đại từ đại bi, được bậc nhất tử.
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn vì vô thượng bồ đề, vì độ chúng sanh nên xa lìa tà kiến đem căn lành này nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng thành Phật. Nguyện chúng sanh đều được Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật. Do sức thệ nguyện này, nên đời vị lai lúc Bồ Tát thành Phật, chúng sanh trong cõi nước đều được thọ trì Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật. Đây gọi là Bồ Tát tu hành thanh tịnh cõi Phật.
Thế nào đại Bồ Tát dứt trừ hữu dư? Hữu dư có ba thứ: Một là phiền não dư báo, hai là dư nghiệp, ba là dư hữu.
Nếu có chúng sanh quen gần tham dục, báo này thành thục phải đọa nơi địa ngục, ra khỏi địa ngục phải thọ thân súc sanh: bồ câu, se sẻ, v.v… các loài chim, cá, trạch cùng khỉ, vượn, cheo, nai v.v… Nếu được làm người, thời phải thọ thân hoàng môn, phụ nữ, hai căn, không căn, dâm nữ. Nếu được xuất gia thời phạm giới trọng ban đầu. Đây gọi là dư báo.
Nếu có chúng sanh quen gần sân khuể, báo này thành thục phải đọa địa ngục. Ra khỏi địa ngục phải thọ thân súc sanh: rắn độc, sư tử, cọp, sói, beo, gấu, mèo, chồn, ó, diều hâu, v.v… Nếu được làm người thời đủ cả mười sáu nghiệp ác. Nếu được xuất gia thời phạm giới trọng thứ ba. Đây gọi là dư báo.
Nếu có chúng sanh quen gần ngu si, báo này thành thục sẽ đọa địa ngục. Ra khỏi địa ngục phải thọ thân súc sanh: voi, heo, bò, trâu, dê, rận, rệp, muỗi, ruồi, kiến, mối, v.v… Nếu được làm người thời bị đui, điếc, câm, ngọng, lưng gù, tàn tật, không thể học tập. Nếu được xuất gia thời ưa phạm giới trọng. Đây gọi là dư báo.
Nếu có người quen gần kiêu mạn, báo này thành thục sẽ đọa địa ngục. Ra khỏi địa ngục thọ thân súc sanh: lạc đà, lừa, ngựa, chó v.v… Nếu được làm người thọ thân tôi tớ, nghèo cùng, ăn xin. Nếu được xuất gia thường bị chúng sanh khinh tiện, phạm giới thứ tư. Đây gọi là dư báo.
Như trên đây gọi là phiền não dư báo. Đại Bồ Tát do tu tập kinh Đại Niết Bàn đều có thể trừ diệt.
Thế nào là dư nghiệp? Tất cả nghiệp của phàm phu, nghiệp của Thanh Văn: Tu Đà Hoàn có nghiệp bảy lần thọ thân, Tư Đà Hàm có nghiệo hai lần thọ thân, A Na Hàm có nghiệp thọ thân sõi sắc, đây gọi là dư nghiệp. Đại Bồ Tát tu tập kinh Đại Niết Bàn đều có thể dứt trừ những nghiệp dư này.
Thế nào là dư hữu? A La Hán đặng quả A La Hán, Bích Chi Phật đặng quả Bích Chi Phật, không nghiệp, không kiết sử, mà còn hai quả, đây gọi là dư hữu.
Đại Bồ Tát tu tập kinh Đại Niết Bàn đều có thể trừ diệt ba thứ hữu dư trên đây, nên gọi là đại Bồ Tát diệt trừ hữu dư.
Thế nào là Bồ Tát tu thân thanh tịnh? Đại Bồ Tát tu giới bất sát có năm thứ tâm: Hạ, trung, thượng, thượng thượng, thượng trung thượng, nhẫn đến chánh kiến cũng lại như vậy. Năm mươi tâm này gọi là sơ phát tâm. Quyết định đầy đủ thành tựu năm mươi tâm này đây gọi là viên mãn. Một trăm tâm như vậy gọi là một trăm phước đức. Đầy đủ một trăm phước làm thành một tướng tốt. Lần lượt đầy đủ thành tựu ba mươi hai tướng tốt, thời gọi là thân thanh tịnh. Sở dĩ lại tu tám mươi vẻ đẹp, vì trong đời có chúng sanh phụng thờ tám mươi vị thiên thần: thập nhị nhật thần, mười hai vị trời lớn, năm ngôi sao lớn, sao Bắc Đẩu Mã Thiên, Hành Đạo thiên, Bà La Đọa Bạt Xà thiên, Công Đức thiên, nhị thập bát tú, Địa thiên, Phong thiên, Thủy thiên, Hỏa thiên, Phạm thiên, Lâu Đà thiên, Nhân Đề thiên, Câu Ma La thiên, Bát Tý thiên, Ma Hê Thủ La thiên, Bàn Xà La thiên, Quỷ Tử Mẫu thiên, Tứ Thiên Vương thiên, Tạo Thơ thiên, Bà Tẩu thiên, đây gọi là tám mươi. Vì những chúng sanh này mà Bồ Tát tu tập tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm nơi thân. Đây gọi là Bồ tát tu thân thanh tịnh. Vì tám mươi thiên thần này được chúng sanh kính trọng nên Bồ Tát tu tập tám mươi vẻ đẹp, thân thể không đổi dời, làm cho chúng sanh, tùy theo lòng tin, đều được thấy, sanh lòng tôn kính mà phát tâm vô thượng bồ đề.
Ví như có người muốn thỉnh Quốc Vương, thời phải sửa sang trần thiết nhà cửa cho thật sạch sẽ khéo léo, sắm đủ trăm thứ thực phẩm thơm ngon rồi sau mới rước Quốc Vương ngự đến nhà. Cũng vậy, đại Bồ Tát muốn thỉnh đấng Pháp Vương Vô Thượng Bồ Đề, thời phải trước tu thân cho thật thanh tịnh, rồi sau Pháp Vương mới đến ngự.
Ví như có người muốn uống chất cam lộ thời phải trước rửa thân thật sạch. Cũng vậy đại Bồ Tát muốn uống pháp vị vô thượng Bát Nhã Ba La Mật, trước phải tu tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm nơi thân.
Ví như đem bình vàng, chậu bạc đựng nước trong sạch thời cả trong lẫn ngoài đều trong sạch. Cũng vậy, đại Bồ Tát dùng thân thanh tịnh chứa vô thượng Bồ Đề, thời trong ngoài đều thanh tịnh.
Như y trắng Ba La Mại dễ ăn màu thuốc nhuộm, vì chất y vốn trắng sạch. Cũng vậy, đại Bồ Tát do thân thanh tịnh nên mau thành Vô Thượng Bồ Đề.
Do nghĩa này nên đại Bồ Tát tu thân thanh tịnh. Thế nào là Bồ Tát khéo biết các duyên?
Đại Bồ Tát chẳng thấy sắc tướng, chẳng thấy sắc duyên, chẳng thấy sắc thể, chẳng thấy sắc sanh, chẳng thấy sắc diệt, chẳng thấy một tướng, chẳng thấy nhiều tướng, chẳng thấy người thấy, chẳng thấy tướng mạo, chẳng thấy người thọ vì đã rõ nhân duyên. Như đối với sắc, tất cả pháp cũng như vậy. Đây gọi là Bồ Tát rõ biết các duyên.
Thế nào là Bồ Tát lìa các thù địch.
Bậc Ngũ Trụ Bồ Tát chẳng xem phiền não là oán thù. Vì do phiền não mà Bồ Tát có thọ sanh, do thọ sanh nên có thể xoay vần giáo hóa chúng sanh.
Những gì là oán thù đối với Bồ Tát?
Chính là kẻ hủy báng kinh điển đại thừa. Bồ Tát thọ sanh không sợ địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, chỉ sợ kẻ hủy báng kinh điển đại thừa. Có tám thứ ma là oán thù của Bồ Tát, xa lìa được tám thứ ma này thời gọi là lìa thù địch.
Thế nào là Bồ Tát xa lìa hai bên?
Hai bên là hai mươi lăm cõi và ái phiền não, Bồ Tát luôn xa lìa hai mươi lăm cõi cùng ái phiền não.
Đây gọi là Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ tư."
Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Như lời đức Phật vừa nói: Nếu Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thời thành tựu mười công đức như vậy. Cớ sao đức Như Lai chỉ tu có chín điều mà không tu tịnh độ?"
Phật nói: "Này thiện nam tử! Từ xưa ta thường tu tập đủ cả mười điều. Tất cả Đại Bồ Tát cùng tất cả Như Lai không có ai là chẳng tu tập trọn cả mười điều như vậy.
Giả sử thế giới đầy dẫy nhơ uế, không bao giờ Như Lai xuất hiện nơi ấy.
Này thiện nam tử! Ông chớ cho rằng chư Phật xuất hiện nơi thế giới nhơ uế. Nên biết rằng tâm tưởng như vậy là kém hẹp chẳng tốt. Ông nên biết rằng thiệt ra ta không có xuất hiện nơi Diêm Phù Đề.
Như có người nói riêng cõi này có mặt nhật, mặt nguyệt, cõi khác không có. Lời nói này không có nghĩa lý.
Nếu có Bồ Tát nói cõi nhơ uế xấu xa, cõi khác thanh tịnh xinh đẹp đây cũng gọi là lời không có nghĩa lý.
Này thiện nam tử! Về phương Tây, cách cõi Ta Bà này bốn mươi hai hằng-hà-sa cõi Phật, có thế giới tên là Vô Thắng, những sự trang nghiêm xinh đẹp trong cõi đó đều bình đẳng, như cõi Cực Lạc, như cõi Mãn Nguyệt. Hiện tại ta xuất hiện trong cõi Vô Thắng đó. Vì hóa độ chúng sanh nên ta thị hiện chuyển pháp luân nơi Diêm Phù Đề này.
Chẳng phải riêng gì thân Ta thị hiện chuyển pháp luân nơi cõi này, mà tất cả chư Phật cũng chuyển pháp luân trong cõi này.
Do nghĩa này nên chư Phật đều tu đủ cả mười điều như vậy.
Này thiện nam tử! Do thệ nguyện, nên đời đương lai, Từ-thị Bồ Tát làm cho cõi này trở thành thanh tịnh trang nghiêm.
Do nghĩa này nên tất cả thế giới của chư Phật đều thanh tịnh trang nghiêm.
Này thiện nam tử! Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, thành tựu đầy đủ phần công đức thứ năm? Nơi đây có năm điều công đức, một là nơi thân các căn đều toàn vẹn; hai là chẳng sanh chốn biên địa; ba là chư Thiên Thần mến tưởng; bốn là thường được chư Thiên, Ma Vương, Sa Môn, Bà La Môn v.v… cung kính; năm là được trí túc mạng. Do năng lực kinh Đại Niết Bàn mà Bồ Tát đồng đủ năm công đức như vậy."
Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Ngày trước Phật dạy: nếu có người bố thí thời được năm công đức. Sao Như Lai lại bảo nhân kinh Đại Niết Bàn mà đặng năm công đức?"
Phật nói: "Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Các công đức ấy đều có nghĩa sai khác. Nay Ta sẽ vì ông mà giải nói.
Năm điều công đức do bố thí mà được là không định, không thường, không tịnh, không thắng, không lạ, không phải vô lậu, không thể lợi ích an lạc xót thương tất cả chúng sanh.
Nếu là năm điều công đức do y theo kinh Đại Niết Bàn mà được thời là định, là thường, là tịnh, là thắng, là lạ, là vô lậu, có thể lợi ích an lạc xót thương tất cả chúng sanh.
Này thiện nam tử! Xét về người bố thí thời xa lìa đói khát. Kinh Đại Niết Bàn có thể làm cho chúng sanh đều được xa lìa bệnh khát ái trong hai mươi lăm cõi. Do nơi bố thí làm cho sanh tử nối luôn, kinh Đại Niết Bàn có thể làm cho sanh tử phải dứt. Nhân bố thí nên thọ lấy pháp phàm phu, nhân kinh Đại Niết Bàn mà được pháp Bồ Tát. Do bố thí nên dứt được sự nghèo cùng khổ não, kinh Đại Niết Bàn có thể dứt tất cả sự nghèo thiếu về pháp. Do bố thí mà có phần, có quả, do kinh Đại Niết Bàn mà được vô thượng bồ đề không phần không quả.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ năm.
Thế nào là Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ sáu?
Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn được Kim Cang Tam-muội. An trụ trong chánh định này thời phá tan được tất cả pháp. Thấy tất cả pháp đều là vô thường, đều là tướng lay động, là nhân duyên của sự khủng bố, bệnh khổ, cướp trộm, niệm niệm dứt hoại không chơn thiệt. Tất cả đều là cảnh giới của ma, không có tướng đáng thấy.
Đại Bồ Tát an trụ trong tam muội này, nhẫn đến không thấy một chúng sanh thiệt. Vì chúng sanh mà Bồ Tát tinh cần tu tập thi-la ba-la-mật, nhẫn đến bát-nhã ba-la-mật. Nếu Bồ Tát còn thấy có một chúng sanh thời không thể rốt ráo đầy đủ đàn ba-la-mật nhẫn đến bát-nhã ba-la-mật.
Này thiện nam tử! Ví như vật gì bị chất kim-cang dóa đập thời đều bể tan, mà chất kim-cang này không hề hư tổn. Cũng vậy, pháp gì bị kim-cang tam muội chiếu đến thời đều nát rã, mà tam muội này không hề hao tổn.
Trong các thứ châu báu, chất kim cang là hơn tất cả. Cũng vậy, trong các tam muội, kim cang tam muội là thứ nhất. Vì Bồ Tát tu tập tam muội này thời tất cả tam muội đều đến quy thuộc.
Như các vua chúa nhỏ đều đến quy thuộc Chuyển Luân Thánh Vương, tất cả chánh định đều đến quy thuộc kim cang tam muội.
Ví như có người là kẻ thù địch của quốc gia mọi người đều nhàm ghét, ai giết được người này thời cả nước đều ngợi khen công lao. Cũng vậy, Bồ Tát tu tập kim cang tam muội có thể phá hoại oán thù của tất cả chúng sanh, thế nên thường được tất cả tam muội tôn kính.
Ví như có người mạnh mẽ không ai cự lại, nếu có người thắng được người này thời được người đời khen tặng. Cũng vậy, kim cang tam muội có sức phá dẹp những pháp khó phá, nên được tất cả tam muội đến quy thuộc.
Như người đến tắm nơi biển lớn, phải biết rằng người này đã cùng nước của các sông ngòi suối ao. Cũng vậy, Bồ Tát tu tập kim cang tam muội, thời là đã tu tập tất cả tam muội khác.
Như trong Hương Sơn có một suối nước tên A Na Bà Đạp Đa, người nào được uống nước suối này thời không có những bệnh hoạn, vì nước suối này đủ tám vị. Cũng vậy, kim cang tam muội đủ tám chánh đạo, Bồ Tát tu tập tam muội này thời dứt sạch những bệnh nặng phiền não tội lỗi.
Như người cúng dường trời Ma Hê Thủ La thời là đã cúng dường tất cả chư thiên. Cũng vậy, người tu tập Kim Cang tam muội thời là đã tu tập tất cả tam muội khác.
Này thiện nam tử! Nếu Bồ Tát an trụ trong kim cang tam muội thời thấy tất cả pháp không bị chướng ngại, như xem trái a-ma-lặc trong bàn tay. Bồ Tát này dầu được thấy như vậy, nhưng trọn không có quan niệm là thấy tất cả pháp.
Như có người ngồi nơi ngã tư đường, thấy mọi người đi, đứng, ngồi, nằm. Cũng vậy, Bồ Tát an trụ Kim cang tam muội thời thấy sự sanh diệt mọc lặn của tất cả pháp.
Như người lên núi cao trông xa thấy rõ tất cả cảnh vật. Cũng vậy, Bồ Tát lên núi kim cang chánh định thời thấy rõ tất cả pháp.
Như mùa Xuân, trời mưa lất phất, giọt mưa li ti không có chỗ hở trống người mắt sáng thời thấy rõ ràng. Cũng vậy, Bồ Tát đặng mắt thanh tịnh kim cang tam muội, thấy rõ những thế giới thành hoại ở mười phương, không chướng ngại.
Như do núi Càn Đà, bảy mặt trời đồng mọc, bao nhiêu cây cối nơi núi ấy đều cháy cả. Cũng vậy Bồ Tát tu tập kim cang tam muội thời bao nhiêu rừng rậm phiền não liền tiêu diệt.
Như chất kim cang dầu có thể phá nát tất cả vật, nhưng trọn không có quan niệm rằng ta hay phá nát. Cũng vậy, Bồ Tát tu tập kim cang tam muội có thể phá phiền não mà trọn chẳng có quan niệm rằng ta hay phá hoại phiền não. Như quả đất có thể giữ gìn muôn vật nhưng trọn chẳng có quan niệm rằng sức ta có thể giữ gìn; lửa cũng chẳng nghĩ rằng ta hay đốt cháy; nước cũng chẳng nghĩ rằng ta hay thấm nhuần; gió cũng chẳng nghĩ rằng ta hay thổi động; hư không cũng chẳng nghĩ rằng ta hay dung chứa; Niết Bàn cũng chẳng nghĩ rằng ta làm cho chúng sanh đặng diệt độ. Cũng vậy, kim cang tam muội dầu có thể diệt trừ tất cả phiền não, nhưng vẫn không nghĩ rằng ta hay diệt trừ.
Nếu có Bồ Tát an trụ nơi kim cang tam muội này, trong khoảng một niệm biến vô lượng thân như Phật, khắp cả hằng-hà-sa thế giới ở mười phương, dầu biến hóa như vậy nhưng Bồ Tát vẫn không có lòng kiêu mạn. Vì Bồ Tát thường nghĩ rằng: Ai có chánh định này và biến hóa được như vậy? Chỉ có Bồ Tát an trụ kim cang tam muội này mới có thể biến hóa như vậy. Bồ Tát này trong một niệm đi khắp hằng-hà-sa thế giới ở mười phương rồi trở về bổn xứ, dầu có thần lực như vậy nhưng cũng chẳng nghĩ rằng ta được thần lực ấy, đó là do sức của kim cang tam muội. Bồ Tát này lại ở trong một niệm có thể dứt những phiền não của chúng sanh trong hằng-hà-sa thế giới ở mười phương mà vẫn không có quan niệm rằng ta hay dứt phiền não của chúng sanh, đó là do sức kim cang tam muội. Bồ Tát này dùng một tiếng nói để thuyết pháp làm cho tất cả chúng sanh, riêng theo loài của mình mà đặng hiểu rõ, lại thị hiện một sắc thân mà làm cho tất cả chúng sanh đều riêng thấy sắc thân riêng khác. Bồ Tát ở an một chỗ thân không dời đổi mà có thể làm cho chúng sanh theo chỗ ở của nó đều đặng thấy Bồ Tát diễn nói một pháp: hoặc giới, hoặc nhập, mà tất cả chúng sanh đều riêng theo chỗ đã hiểu biết mà đặng nghe đó.
Bồ Tát an trụ kim cang tam muội dầu thấy chúng sanh mà vẫn không có tướng chúng sanh, dầu thấy nam nữ nhưng không tướng nam nữ, dầu thấy sắc thọ nhưng không có tướng sắc, thọ vị, dầu thấy ngày đêm mà không có tướng ngày đêm, dầu thấy tất cả pháp nhưng không có tất cả pháp, dầu thấy tất cả phiền não kiết sử cũng không có tướng tất cả phiền não, dầu thấy tám thánh đạo mà không có tướng tám thánh đạo, dầu thấy Bồ Đề thấy Niết Bàn nhưng không có tướng Bồ Đề, Niết Bàn vì tất cả pháp vốn không có tướng, Bồ Tát này do sức Kim Cang tam muội nên thấy tất cả pháp bổn lai không có tướng.
Này thiện nam tử! Thế nào gọi là Kim Cang tam muội? Như chất Kim Cang nếu ở trong ánh nắng thời màu sắc chẳng nhất định. Cũng vậy, Kim Cang tam muội ở trong đại chúng cũng chẳng nhất định, vì thế nên gọi là Kim Cang tam muội.
Như chất Kim Cang tất cả người đời không thể bình luận giá cả, cũng vậy, Kim Cang tam muội có bao nhiêu công đức tất cả trời người không thể nghĩ lường được, do đây nên lại gọi là Kim Cang tam muội.
Như người nghèo đặng báu Kim Cang thời hết nghèo cùng khốn khổ, lại khỏi ác quỷ tà độc. Cũng vậy, đại Bồ Tát được tam muội này thời có thể dứt hết phiền não khổ hoạn xa lìa các ma tà độc, do đây nên gọi là Kim Cang tam muội.
Đây gọi là Bồ Tát tu hành kinh đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ sáu.
(Hán bộ quyển thứ 25)
Thế nào là đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn thành tựu đầy đủ phần công đức thứ bảy?
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát này nghĩ rằng: Pháp gì có thể làm nhân duyên gần với đại Niết Bàn? Bồ Tát này liền biết có bốn điều làm nhân duyên gần, nếu rời bốn pháp này thời không thể được Đại Niết Bàn. Vì thế nên nếu rằng siêng tu tất cả khổ hạnh mà được Đại Niết Bàn, thời không đúng.
Đây là bốn điều: Một là gần gũi bạn lành; hai là chuyên tâm nghe pháp; ba là nhiếp niệm tư duy; bốn là tu hành đúng pháp.
Như có người mang bệnh: hoặc nóng, hoặc lạnh, hư lao, các tà quỷ độc, người bệnh này tìm đến lương y, lương y liền theo bệnh cho thuốc. Người bệnh này hết lòng theo lời chỉ dẫn của lương y, uống thuốc đúng cách, bệnh được lành thân được an. Người bệnh dụ cho Bồ Tát. Lương y dụ cho thiện tri thức. Phương thuốc của lương y nói dụ cho kinh đại thừa. Y theo lời chỉ dẫn của lương y dụ cho khéo suy nghĩ nghĩa lý của kinh đại thừa. Hiệp thuốc uống đúng cách dụ cho tu hành đúng pháp. Bệnh lành dụ cho dứt hết phiền não. Thân an dụ cho đặng Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh.
Ví như có Quốc Vương muốn cai trị đúng pháp làm cho nhân dân được an vui, nhà vua hỏi cách cai trị nơi các quan. Các quan bèn đem cách thức của Tiên Vương tâu với Quốc Vương. Quốc Vương liền chí tâm tin tưởng thực hành theo, đúng như pháp cai trị nước nhà, làm cho cả nước không giặc cướp, nhân dân an vui. Quốc Vương dụ cho Bồ Tát, các quan dụ cho bạn lành. Cách thức cai trị của các quan tâu dụ cho mười hai bộ kinh. Quốc Vương hết lòng tin tưởng thực hành dụ cho Bồ Tát nhiếp tâm tư duy nghĩa lý của mười hai bộ kinh. Quốc Vương cai trị đúng pháp dụ cho Bồ Tát tu hành đúng theo sáu môn Ba La Mật. Cả nước không giặc cướp dụ cho Bồ Tát đã lìa phiền não kiết sử. Nhân dân được an vui dụ cho Bồ Tát chứng được Đại Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh.
Như có người bị bệnh phong hủi, có trí thức bảo rằng: Nếu ông đến được bên núi Tu Di thời bệnh có thể lành. Vì nơi đó có vị thuốc hay như cam lồ, uống được thuốc đó thời bệnh gì cũng lành. Người bệnh tin theo lời đi đến bên núi hái lấy thuốc cam lồ mà uống, tật bệnh liền hết, thân được an vui. Người bệnh dụ cho phàm phu. Trí thức dụ cho Đại Bồ Tát. Tin theo lời bảo dụ cho bốn tâm vô lượng. Núi Tu Di dụ tám thánh đạo. Vị thuốc cam lồ dụ cho Phật tánh. Bệnh hủi được lành dụ lìa phiền não. Đặng an vui dụ đặng Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh.
Ví như có người nuôi những đệ tử thông minh trí huệ, ngày đêm người này luôn dạy dỗ chẳng biết mỏi. Bồ Tát cũng như vậy, tất cả chúng sanh hoặc tin, hoặc chẳng tin, Bồ Tát luôn giáo hóa không biết nhàm mỏi.
Này thiện nam tử! Thiện tri thức là nói chư Phật, Bồ Tát và hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật cùng những người tin kinh đại thừa. Thế này gọi là thiện tri thức? Hàng thiện tri thức có thể chỉ dạy cho chúng sanh xa lìa mười điều ác, tu hành mười điều lành, do nghĩa này nên gọi là thiện tri thức. Lại hàng thiện tri thức lời nói đúng như pháp thực hành đúng như lời nói, chính là tự mình chẳng sát sanh cũng bảo người chẳng sát sanh, nhẫn đến tự mình có chánh kiến, cũng đem chánh kiến dạy cho người.
Nếu có thể được như đây thời gọi là chơn thiệt thiện tri thức. Tự mình tu tập Bồ Đề cũng có thể dạy người tu hành Bồ Đề. Tự mình tu hành chánh tín, trì giới, bố thí, đa văn, trí huệ, cũng có thể dạy người như vậy, do đây nên gọi là thiện tri thức.
Này thiện nam tử! Hàng thiện tri thức có thiện pháp. Những gì là thiện pháp? Những việc của mình thực hành chẳng mong cầu tự vui, mà thường vì chúng sanh cầu an vui, thấy người khác có lỗi chẳng rao nói, miệng thường tuyên nói những việc thuần thiện, do đây nên gọi là thiện tri thức.
Này thiện nam tử! Như mặt trăng từ đêm mùng một đến đêm rằm lần lần thêm lớn đầy đủ. Cũng vậy, thiện tri thức làm cho những người học đạo lần lần xa lìa pháp ác, thêm lớn pháp lành. Nếu người gần gũi thiện tri thức, từ trước chưa có giới định huệ giải thoát, giải thoát tri kiến, nay bèn có đó, người chưa đầy đủ thời được thêm rộng, do vì gần gũi thiện tri thức. Sự gần gũi này làm cho người lại được rõ thấu nghĩa sâu của mười hai bộ kinh. Nếu có thể chăm nghe nghĩa sâu của mười hai bộ kinh thời gọi là thính pháp. Nghe kinh đại thừa thời gọi là chân thật thính pháp. Chân thật thính pháp chính là nghe kinh Đại Niết Bàn, nghe có Phật tánh, Như Lai rốt ráo chẳng nhập Niết Bàn, do đây nên gọi là chuyên tâm thính pháp. Chuyên tâm thính pháp gọi là tám thánh đạo, do tám thánh đạo có thể dứt tham dục, sân khuể, ngu si, nên gọi là thính pháp. Xét về người thính pháp gọi là là mười một pháp không, do pháp không này đối với tất cả pháp chẳng thấy có tướng mạo. Xét về người tính thính pháp gọi là sơ phát tâm nhẫn đến rốt ráo tâm vô thượng Bồ Đề nhân nơi sơ tâm mà đặng Đại Niết Bàn chẳng phải do nghe pháp mà đặng Đại Niết Bàn. Chính là do tu tập nên chứng Đại Niết Bàn. Như người bệnh dầu nghe lời chỉ dẫn của lương y cùng tên của món thuốc nhưng chẳng thể lành bệnh, phải do uống thuốc bệnh mới được lành. Dầu nghe mười hai nhân duyên nhưng chẳng thể dứt được tất cả phiền não, cần phải nhiếp niệm khéo tư duy mới dứt được phiền não. Đây gọi là pháp nhiếp niệm tư duy thứ ba. Lại do nghĩa gì gọi là nhiếp niệm tư duy? Đây là nói ba môn tam muội: Không tam muội, vô tướng tam muội, vô tác tam muội. Không là đối với hai mươi lăm cõi chẳng thấy một cõi nào là có thật. Vô tác là đối với hai mươi lăm cõi chẳng mong cầu. Vô tướng là không có mười tướng, chính là không có sắc tướng, thinh tướng, hương tướng, vị tướng, xúc tướng, sanh tướng, trụ tướng, diệt tướng, nam tướng, nữ tướng. Tu tập ba môn tam muội như vậy thời gọi là Bồ Tát nhiếp niệm tư duy.
Thế nào gọi là tu hành đúng pháp? Chính là tu hành đàn ba-la-mật nhẫn đến bát-nhã ba-la-mật, biết tướng chân thật của ấm nhập giới, cũng biết Thanh Văn, Duyên Giác chư Phật đồng một đạo mà nhập Niết Bàn, chính là thường, lạc, ngã, tịnh, chẳng sanh, già, bệnh, chết, chẳng đói khát, khổ não, chẳng thối chuyển, chẳng hư mất.
Này thiện nam tử! Người hiểu nghĩa sâu của Đại Niết Bàn, thời biết chư Phật trọn chẳng rốt ráo nhập Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Bậc thiện tri thức chân thật thứ nhất là Bồ Tát và chư Phật, vì bậc này thường dùng ba pháp khéo điều ngự: Một là lời nói hoàn toàn dịu hòa, hai là hoàn toàn quở trách, ba là dịu hòa cùng quở trách. Do đây nên Bồ Tát và chư Phật là bậc thiện tri thức chân thật. Phật và Bồ Tát là bậc đại lương y nên gọi là thiện tri thức, vì biết bệnh, biết thuốc, cho thuốc đúng bệnh.
Ví như lương y thông thạo tám môn trị bệnh xem bệnh có ba tướng: phong, nhiệt, hàn. Người bệnh phong cho uống dầu tô, người bệnh nhiệt cho uống thạch mật, người bệnh hàn cho uống nước gừng. Do biết gốc bệnh cho thuốc được lành nên gọi là lương y. Cũng vậy, chư Phật và Bồ Tát biết phàm phu có ba thứ bệnh: tham dục, sân khuể, ngu si. Người tham dục dạy quán tướng xương trắng, người sân khuể dạy quán từ bi, người ngu si dạy quán mười hai nhân duyên. Do đây nên chư Phật và Bồ Tát gọi là thiện tri thức.
Như thuyền chủ vì giỏi đưa người nên gọi là đại thuyền chủ. Cũng vậy, chư Phật và Bồ Tát đưa chúng sanh khỏi biển sanh tử nên gọi là thiện tri thức.
Này thiện nam tử! Do Phật và Bồ Tát làm cho chúng sanh được tu hành đầy đủ những căn lành. Ví như núi tuyết là nơi sản xuất những cội gốc thuốc hay vi diệu. Cũng vậy, chư Phật và Bồ Tát là chỗ xuất sanh tất cả căn lành, do đây nên gọi là thiện tri thức.
Trong núi Tuyết có vị hương dược tên là Ta Ha, người nào thấy thuốc này thời được sống lâu, không có bệnh khổ, bốn thứ độc không làm hại được. Người nào rờ đụng thuốc này thời sống lâu đủ một trăm hai mươi tuổi. Người nào nhớ thuốc này thời được tri túc mạng. Đó là do thế lực của vị thuốc này. Cũng vậy, chư Phật và Bồ Tát, nếu ai được thấy thời tất cả phiền não đều trừ, bốn ma chẳng nhiễu loạn được. Người nào gần gũi chư Phật và Bồ Tát, vì được nghe pháp, nên được trường thọ chẳng bị sanh tử. Người nào tưởng niệm chư Phật và Bồ Tát thời được vô thượng Bồ Đề. Do đây nên chư Phật và Bồ Tát gọi là thiện tri thức.
Như trong Hương Sơn có ao A Na Bà Đạp Đa, từ ao này thành nguồn bốn con sông lớn: sông Hằng, sông Vân Đẩu, sông Tư Đà, sông Bác Xoa. Người đời thường nói rằng: Nếu người có tội tắm nơi bốn con sông này thời tội đều tiêu diệt. Nên biết lời nói này là hư vọng chẳng thật. Chỉ có chư Phật và Bồ Tát mới là chân thật. Vì người nào được gần gũi thời tất cả tội chướng đều tiêu trừ. Do đây nên chư Phật và Bồ Tát gọi là thiện tri thức.
Ví như trên mặt đất có bao nhiêu cỏ thuốc, rừng cây, trăm giống lúa, mía nho, các thứ, bông trái. Gặp trời nắng hạn sắp khô chết, Nan Đà Long Vương vì xót thương chúng sanh nên ra khỏi biển lớn làm mưa xối xuống, nhờ đó tất cả cỏ cây bông trái đều được tươi tốt. Cũng vậy, tất cả chúng sanh có bao nhiêu căn lành sắp tiêu diệt, chư Phật và Bồ Tát sanh lòng đại bi từ biển trí huệ rưới pháp cam lồ, làm cho chúng sanh được mười hai pháp lành. Do đây nên chư Phật và Bồ Tát gọi là thiện tri thức.
Ví như lương y thông thạo tám môn trị bệnh, thấy những người bệnh thời lo chữa trị, không ngó đến dòng họ, đẹp xấu cũng không nghĩ đến châu báu, do đây nên người đời xưng tặng là đại lương y. Cũng vậy, chư Phật và Bồ Tát thấy chúng sanh có bệnh phiền não, liền sanh lòng từ mẫn mà thuyết pháp, không ngó đến dòng họ đẹp xấu cùng của cải, chúng sanh được nghe pháp, phiền não liền trừ diệt. Do đây nên chư Phật và Bồ Tát gọi là thiện tri thức. Do vì gần gũi thiện hữu nên được gần Đại Niết Bàn. 
Thế nào là Bồ Tát nhờ nghe pháp mà đặng gần Đại Niết Bàn? Tất cả chúng sanh do nghe pháp mà có tín căn, vì có tín căn nên thích thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ, được quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả Phật. Do đây nên biết rằng được những pháp lành đều là thế lực của sự nghe pháp.
Ví như trưởng giả chỉ có một con trai, ông sai con đến nước khác buôn bán đổi chác. Ông chỉ rành đường sá, rồi lại dặn rằng: Nếu gặp dâm nữ thời con phải cẩn thận, chớ gần gũi, nếu thương yêu gần gũi thời mất tiền của và thân mạng cũng khó bảo toàn, cũng chớ giao du với người tệ ác. Người con kính thuận theo lời dạy của cha, thân tâm an ổn được nhiều của báu mang về.
Đại Bồ Tát giáo hóa chúng sanh cũng như vậy, chỉ rành đường đạo cùng những pháp chướng ác. Nhờ nghe pháp mà chúng sanh xa lìa những điều ác, đầy đủ những pháp lành, đây là do sự thính pháp mà được gần với Đại Niết Bàn.
Ví như gương sáng soi rõ mặt người. Cũng vậy, người được nghe pháp thời thấy rõ pháp lành, pháp ác, do đây nên được gần Đại Niết Bàn.
Ví như nhà tìm châu báu chẳng biết đường sá, có người hiểu biết chỉ đường, bèn đến được chỗ châu báu. Cũng vậy, tất cả chúng sanh muốn đến chỗ lành để lấy pháp bảo, chẳng biết phương pháp tu hành, nhờ Bồ Tát chỉ dạy, chúng sanh tuân theo mà được đến chỗ lành đặng pháp vô thượng đại Niết Bàn. Đây là do nghe pháp mà đặng gần với đại Niết Bàn.
Ví như voi say hung dữ, có nhà điều tượng dùng móc sắt móc rách da đầu, voi say liền điều thuận hết tâm hung dữ. Cũng vậy, tất cả chúng sanh do tham, sân, si nên muốn gây tạo nhiều tội ác, Bồ Tát vì họ thuyết pháp, làm cho họ dứt hết tâm ác, do đây nên gần được đại Niết Bàn. Vì thế nên Như Lai ở trong các kinh bảo hàng đệ tử phải nhiếp tâm lóng nghe và lãnh thọ mười hai bộ kinh, tu bảy giác chi, lìa năm thứ cái chướng. Do tu tập bảy giác chi thời được gần đại Niết Bàn.
Do thính pháp mà Tu Đà Hoàn lìa những sự khủng bố:
Trưởng giả Tu Đạt Đa trước kia mang bệnh nặng, ông rất lo sầu sợ sệt. Sau khi được nghe Xá Lợi Phất nói bậc Tu Đà Hoàn có bốn công đức, dùng mười thứ ví dụ để an ủi. Trưởng giả nghe rồi liền hết sợ sệt. Đây cũng là do thính pháp mà được gần Đại Niết Bàn, vì được mở thông pháp nhãn.
Trong đời có ba người: một là không con mắt, hai là một con mắt, ba là đủ hai mắt. Người không con mắt dụ cho thường chẳng được nghe pháp. Người một con mắt dụ cho được tạm thời nghe pháp mà tâm không được an trụ. Người đủ hai mắt dụ cho chuyên tâm nghe pháp lãnh thọ và thực hành, do đây được gần Đại Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Ngày trước lúc ta ở thành Câu Thi Na, Xá Lợi Phất đương bệnh khổ. Ta sai A Nan đến thuyết pháp. Lúc đó Xá Lợi Phất nghe A Nan thuyết pháp, bèn bảo bốn người đệ tử khiêng giường bệnh đến chỗ Phật để nghe pháp. Do phước lực nghe Phật thuyết pháp nên Xá Lợi Phất được lành bệnh thân thể an ổn. Vì thế nên nghe chánh pháp thời được gần Đại Niết Bàn.
Thế nào là Bồ Tát do tư duy mà được gần đại Niết Bàn? Nhân sự tư duy này mà tâm được giải thoát. Vì tất cả chúng sanh thường bị ngũ dục ràng buộc, do tư duy nên đều được giải thoát. Đây là do tư duy mà được gần đại Niết Bàn.
Tất cả chúng sanh thường bị thường, lạc, ngã, tịnh làm điên đảo. Do tư duy nên được thấy các pháp là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Nhờ sự thấy này mà hết điên đảo. Đây cũng là do tư duy mà được gần đại Niết Bàn.
Tất cả pháp có bốn tướng: sanh tướng, lão tướng, bệnh tướng, diệt tướng. Do bốn tướng này làm cho phàm phu đến Tu Đà Hoàn bị nhiều sự khổ não. Nếu người có thể nhiếp niệm khéo tư duy, dầu gặp bốn tướng này nhưng chẳng bị khổ não. Đây cũng là do tư duy mà được gần Đại Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Tất cả pháp lành đều do tư duy mà được. Vì có người dầu trải qua vô lượng vô biên vô số kiếp chuyên tâm thính pháp, nếu chẳng tư duy thời trọn không thể được vô thượng Bồ Đề. Đây cũng là do tư duy mà được gần Đại Niết Bàn.
Nếu có chúng sanh tin Phật, Pháp, Tăng không biến đổi nên sanh lòng cung kính. Nên biết rằng đây là do năng lực của sự nhiếp niệm tư duy mới được dứt trừ tất cả phiền não. Đây cũng là do tư duy mà được gần Đại Niết Bàn.
Thế nào là Bồ tát tu hành đúng chánh pháp? Này thiện nam tử! Dứt những pháp ác, tu các pháp lành thời gọi là Bồ Tát tu hành đúng pháp. Lại thấy tất cả pháp trống rỗng không chỗ có, không thường, không lạc, không ngã, không tịnh, do sự thấy biết này nên thà bỏ thân mạng chẳng phạm cấm giới. Đây gọi là Bồ Tát tu hành đúng pháp.
Tu có hai thứ: chân thật và chẳng thật. Chẳng biết tướng của Niết Bàn, Phật tánh, Như Lai, pháp, tăng, thật tướng, tướng hư không v.v…, đây gọi là chẳng thật. Nếu biết thời gọi là chân thật.
Thế nào gọi là biết tướng của Niết Bàn? Niết Bàn có tám điều: một là sạch hết, hai là tánh lành, ba là thật, bốn là chân, năm là thường, sáu là lạc, bảy là ngã, tám là tịnh. Niết Bàn có tám điều: một là giải thoát, hai là tánh lành, ba là chẳng thật, bốn là chẳng chân, năm là vô thường, sáu là vô lạc, bảy là vô ngã, tám là vô tịnh.
Niết Bàn lại có sáu tướng: một là giải thoát, hai là tánh lành, ba là chẳng thật, bốn là chẳng chân, năm là an lạc, sáu là thanh tịnh.
Nếu chúng sanh y theo đạo thế tục mà dứt phiền não, thời Niết Bàn đó có tám điều giải thoát chẳng chân thật, vì là vô thường. Vì vô thường nên là không thật, vì không thật thời không chân. Dầu dứt phiền não nhưng rồi sẽ khổ trở lại, do đây nên không có thường, lạc, ngã, tịnh, đây gọi là Niết Bàn có tám điều giải thoát không thật.
Thanh Văn Duyên Giác vì dứt phiền não nên gọi là giải thoát nhưng chưa được vô thượng Bồ Đề, đây gọi là chẳng thật vì chẳng thật nên chẳng chơn. Đời vị lai sẽ được vô thượng Bồ Đề nên là vô thường. Vì được tám thánh đạo vô lậu nên gọi là thanh tịnh an lạc, đây gọi là Niết Bàn có sáu tướng.
Này thiện nam tử! Nếu biết như vậy đó là biết Niết Bàn, chẳng gọi là biết Phật tánh, Như Lai, Pháp, Tăng, thật tướng, hư không.
Phật tánh có sáu điều: một là thường, hai là tịnh, ba là thật, bốn là thiện, năm là sẽ thấy, sáu là chân. Phật tánh lại có bảy điều: sáu điều như trên, bảy là có thể chứng, đây gọi là Bồ Tát biết Phật tánh.
Như Lai chính là tướng giác ngộ, tướng lành là thường, lạc, ngã, tịnh, là giải thoát chân thật, dạy đạo có thể thấy được, đây gọi là Bồ Tát biết tướng Như Lai.
Pháp là hoặc lành chẳng lành, hoặc thường, chẳng thường, hoặc lạc chẳng lạc, hoặc ngã chẳng ngã, hoặc tịnh chẳng tịnh, hoặc trí chẳng trí, hoặc giải chẳng giải, hoặc chân chẳng chân, hoặc tu chẳng tu, hoặc sư chẳng sư, hoặc thật chẳng thật, đây gọi là Bồ Tát biết pháp tướng.
Thế nào là Bồ Tát biết Tăng tướng?
Tăng là thường, lạc, ngã, tịnh, là tướng đệ tử, tướng có thể thấy, là thiện, là chân, chẳng thật, vì tất cả Thanh Văn sẽ được thành Phật, vì tỏ ngộ chân tánh nên gọi là chân. Đây gọi là Bồ Tát biết tướng của Tăng.
Thiệt tướng là: hoặc thường, vô thường, hoặc lạc, vô lạc, hoặc ngã, vô ngã, hoặc tịnh vô tịnh, hoặc thiện, bất thiện, hoặc có, hoặc không, hoặc Niết Bàn, hoặc chẳng phải Niết Bàn, hoặc giải thoát, hoặc chẳng phải giải thoát, hoặc tri, hoặc bất tri, hoặc đoạn, hoặc bất đoạn, hoặc chứng, hoặc chẳng chứng, hoặc tu, hoặc chẳng tu, hoặc thấy, hoặc chẳng thấy, đây gọi là thiệt tướng, chẳng phải là Niết Bàn Phật tánh, Như Lai, Pháp, Tăng, hư không.
Đây gọi là Bồ Tát nhân tu kinh Đại Niết Bàn này biết tướng sai khác của Niết Bàn, Phật tánh, Như Lai, Pháp, Tăng, thiệt tướng, hư không.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát tu kinh Đại Niết Bàn chẳng thấy hư không, vì Phật và Bồ Tát dầu có ngũ nhãn nhưng chẳng thấy, chỉ có huệ nhãn mới thấy được. Chỗ thấy của huệ nhãn là không có pháp thấy được nên gọi là thấy. Nếu là không có vật gọi là hư không, thời hư không ấy gọi là thật, do vì thật thời gọi là thường không, vì thường không nên không có lạc, ngã và tịnh.
Này thiện nam tử! Trống không gọi là không có pháp, không có pháp gọi là trống không. Như trong đời chỗ không có vật gọi là trống không, tánh hư không cũng như vậy, vì không chỗ có nên gọi là hư không.
Này thiện nam tử! Tánh chúng sanh cùng tánh hư không đều không có thiệt tánh. Như có người nói rằng: trừ dứt những vật có rồi sau mới là không. Như hư không này thiệt chẳng thể làm ra, vì là không chỗ có, đã không chỗ có nên biết là không có hư không. Tánh hư không này nếu có thể làm ra thời gọi là vô thường, nếu là vô thường thời chẳng gọi là hư không.
Này thiện nam tử! Như người đời nói rằng hư không là không sắc chất, không cách ngại, là thường chẳng biến đổi, do đây nên trong đời gọi tánh hư không là đại chủng thứ năm. Như hư không này thiệt ra không có tánh, do ánh sáng nên gọi là hư không, thật ra không có hư không. Như thế đế thiệt ra không có tánh vì thuận theo chúng sanh mà nói là có thế đế.
Này thiện nam tử! Thể Niết Bàn cũng không có chỗ trụ, chính nơi chư Phật dứt sạch phiền não mà gọi là Niết Bàn. Niết Bàn chính là thường, lạc, ngã, tịnh. Niết Bàn dầu là lạc nhưng chẳng phải thọ lạc, bèn là sự vui tịch diệt vi diệu vô thượng. Chư Phật có hai thứ vui: một là tịch diệt lạc, hai là giác tri lạc. Thể thiệt tướng có ba thứ vui: một là thọ lạc, hai là tịch diệt lạc, ba là giác tri lạc. Phật tánh có một thứ vui, vì sẽ được thấy, lúc chứng vô thượng Bồ Đề thời gọi là Bồ Đề lạc."
Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Nếu chỗ phiền não dứt là Niết Bàn thời không phải. Vì xưa kia lúc đức Như Lai mới thành Phật đi đến bờ sông Ni Liên Thiền, Ma Vương cùng quyến thuộc đến chỗ Phật thưa rằng: Thời kỳ Niết Bàn đã đến sao Thế Tôn chẳng nhập?
Phật bảo Ma Vương: Nay ta chưa có hàng đa văn đệ tử giới hạnh tinh nghiêm trí huệ thông minh, có thể giáo hóa chúng sanh, nên ta chẳng nhập Niết Bàn.
Nếu nói rằng chỗ phiền não dứt là Niết Bàn, Bồ Tát từ vô lượng kiếp đã dứt phiền não, cớ sao chẳng đặng gọi là Niết Bàn? Đều đồng dứt, cớ sao gọi riêng chư Phật có Niết Bàn, còn Bồ Tát thời không? Nếu dứt phiền não chẳng phải là Niết Bàn cớ sao ngày trước đức Như Lai bảo ông Sanh Danh: Chính thân của ta đây là Niết Bàn?
Lúc Như Lai ở nước Tỳ Xá Ly, Ma Vương lại đến thưa: Thế Tôn ngày trước nói rằng vì chưa có hàng đệ tử đa văn trì giới thông minh trí huệ có thể giáo hóa chúng sanh, nên Thế Tôn chẳng nhập Niết Bàn. Nay đã đầy đủ cớ sao Thế Tôn chẳng nhập? Như Lai bảo Ma Vương: Sau đây ba tháng ta sẽ nhập Niết Bàn.
Bạch Thế Tôn! Giả sử diệt độ chẳng phải nhập Niết Bàn, tại sao đức Như Lai lại hẹn ba tháng sẽ nhập Niết Bàn?
Bạch Thế Tôn! Nếu dứt phiền não là Niết Bàn, ngày trước lúc đức Như Lai ngồi nơi đạo tràng Bồ Đề dứt hết phiền não bèn là Niết Bàn, sao lại nói với Ma Vương sau ba tháng sẽ nhập Niết Bàn?
Bạch Thế Tôn! Nếu lúc đó là Niết Bàn, tại sao lại tuyên bố đến cuối đêm sẽ nhập Niết Bàn?
Đức Như Lai là đấng thành thiệt, cớ sao lại nói những lời hư vọng như vậy?"
Phật bảo Cao Quý Đức Vương Bồ Tát: "Này thiện nam tử! Như Lai đã đặng tướng lưỡi rộng dài, phải biết rằng Như Lai từ vô lượng kiếp đã lìa vọng ngữ. Tất cả chư Phật và Bồ Tát phàm có nói ra đều là lời thành thật chắc chắn không hư dối.
Này thiện nam tử! Ngày trước Ma Ba Tuần thỉnh Phật nhập Niết Bàn, mà Ma Vương chẳng biết tướng Niết Bàn. Ý Ma Vương cho rằng chẳng giáo hóa chúng sanh yên lặng bất động đó là Niết Bàn. Ví như người đời thấy có ai chẳng nói chẳng làm, bèn cho rằng người này như chết. Ý Ma Vương cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Như Lai chẳng nói Phật, Pháp và chúng Tăng không có tướng sai khác. Chỉ nói thường trụ và thanh tịnh hai pháp này không sai khác. Phật cũng chẳng nói Phật cùng Phật tánh và Niết Bàn không có tướng sai khác, chỉ nói thường hằng bất biến là không sai khác. Phật cũng chẳng nói Niết Bàn là thiệt tướng không có tướng sai khác, chỉ nói thường trụ là thật chẳng biến đổi không có sai khác.
Này thiện nam tử! Có lúc hàng Thanh Văn đệ tử của ta sanh sự tranh tụng, như các Tỳ Kheo ở nước Câu Viêm Di trái lời dạy của Phật phạm nhiều cấm giới, chẳng kính trọng Phật, Pháp, Tăng, giới luật hòa thượng. Những Tỳ Kheo ác này chẳng tin lời dạy của Phật. Vì những người này mà ta bảo Ma Ba Tuần ông chớ lo rằng chậm. Sau ba tháng ta sẽ nhập Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Nhân vì các Tỳ Kheo ác này, khiến hàng Thanh Văn chẳng thấy thân của ta, chẳng nghe ta thuyết pháp, bèn cho rằng Như Lai nhập Niết Bàn. Chỉ hàng Bồ Tát thấy được thân ta, thường nghe ta thuyết pháp, nên chẳng cho rằng Phật nhập Niết Bàn. 
Dầu hàng Thanh Văn nói rằng Như Lai nhập Niết Bàn, nhưng thật ra ta chẳng nhập Niết Bàn.

Nếu Thanh Văn đệ tử của ta nói rằng Như Lai nhập Niết Bàn, phải biết người này chẳng phải đệ tử của Phật, là bè đảng của ma, là người tà kiến chẳng phải chánh kiến. Nếu nói Như Lai chẳng nhập Niết Bàn, phải biết người này thiệt là đệ tử Phật, là người chánh kiến chẳng phải bè đảng của ma.