Phẩm QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ ĐỨC VƯƠNG BỒ TÁT thứ hai mươi hai
(tức phẩm TRÍ TUỆ)
(Hán bộ quyển thứ 21)
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn bảo Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát: "Này thiện nam tử! Nếu có đại Bồ Tát tu hành kinh đại Niết Bàn như vậy, thời đặng mười công đức mà hàng Thanh Văn Bích Chi Phật chẳng có. Công đức này chẳng thể nghĩ bàn, người nghe đến sẽ kinh sợ. Công đức này chẳng phải trong ngoài, chẳng phải khó dễ, chẳng phải tướng phi tướng, không có tướng mạo, chẳng phải là thế pháp, trong thế gian không có. Đây là mười công đức:
Công đức thứ nhất có năm điều: Một là chỗ chẳng nghe có thể đặng nghe, hai là nghe rồi có thể làm lợi ích, ba là có thể dứt tâm nghi hoặc, bốn là trí huệ chánh trực, năm là có thể biết tạng bí mật của Như Lai.
Những gì là chỗ chẳng nghe có thể được nghe? Chính là nghĩa vi mật rất sâu: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Phật và Pháp cùng Tăng không có sai khác, tánh tướng của Tam Bảo là thường, lạc, ngã, tịnh, tất cả chư Phật không rốt ráo nhập Niết Bàn là thường trụ không biến đổi. Lại Niết Bàn của Như Lai chẳng phải có không, chẳng phải hữu vi vô vi, chẳng phải hữu lậu vô lậu, chẳng phải sắc phi-sắc, chẳng phải danh phi-danh, chẳng phải tướng phi-tướng, chẳng phải hữu phi-hữu, chẳng phải vật phi-vật, chẳng phải nhân quả, chẳng phải đãi phi-đãi, chẳng phải minh ám, chẳng phải xuất phi-xuất, chẳng phải thường phi-thường, chẳng phải đoạn phi-đoạn, chẳng phải thỉ chung, chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải ấm phi ấm, chẳng phải nhập phi-nhập, chẳng phải giới phi-giới, chẳng phải thập nhị nhân duyên, chẳng phải phi nhân duyên. Những pháp như vậy đều vi mật rất sâu, từ trước chỗ chẳng nghe mà có thể được nghe. Lại có chỗ chẳng nghe, như là tất cả sách vở ngoại đạo: Tỳ Đà Luận, Tỳ Dà La Luận, Vệ Thế Sư Luận, Ca Tỳ La Luận, cùng tất cả kỹ nghệ, chú thuật, y dược, thiên văn, địa lý, v.v…, nay ở nơi kinh này mà đặng biết tất cả. Lại có mười một bộ kinh trừ Tỳ Phật Lược, cũng không có những nghĩa rất sâu như vậy, nay do kinh này mà đặng biết rõ đó. Đây gọi là chỗ chẳng nghe mà có thể được nghe.
Nghe rồi có thể làm lợi ích, chính là nếu có thể nghe và lãnh thọ kinh Đại Niết Bàn này, thời có thể biết rõ tất cả kinh điển Phương Đẳng đại thừa những nghĩa vị rất sâu. Ví như đối với tấm gương sáng sạch, người thấy rõ ràng sắc tướng của mình. Cũng vậy, Bồ Tát cầm gương Đại Niết Bàn thời đặng thấy rõ tất cả nghĩa rất sâu của kinh điển đại thừa. Cũng như có người ở trong nhà tối cầm ngọn đuốc lớn thời thấy rõ các đồ vật. Cũng vậy, Bồ Tát cầm đuốc Đại Niết Bàn thời đặng thấy rõ nghĩa rất sâu của đại thừa. Cũng như mặt trời mọc có ngàn muôn ánh sáng soi rõ chỗ u ám của các núi, làm cho mọi người thấy những vật rất xa. Cũng vậy, huệ nhật thanh tịnh Đại Niết Bàn này chiếu rõ chỗ rất sâu của đại thừa, làm cho hàng nhị thừa xa thấy Phật đạo, vì có thể nghe và lãnh thọ kinh Đại Niết Bàn vi diệu này.
Này thiện nam tử! Nếu có Đại Bồ Tát nghe và lãnh thọ kinh Đại Niết Bàn này thời đặng biết danh tự của tất cả pháp. Nếu có thể biên chép đọc tụng thông thuộc vì người giảng thuyết, suy nghĩ ý nghĩa thời rõ biết nghĩa lý của tất cả pháp.
Này thiện nam tử! Người nghe và lãnh thọ thời chỉ biết danh tự mà chẳng biết ý nghĩa. Nếu có thể biên chép thọ trì đọc tụng, vì người giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời có thể biết được nghĩa.
Này thiện nam tử! Người nghe kinh này, nghe có Phật tánh nhưng chưa có thể thấy được. Nếu biên chép đọc tụng vì người giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời thấy được Phật tánh. Người nghe kinh này, nghe có danh từ bố thí nhưng chưa có thể thấy được đàn-ba-la-mật, nếu biên chép đọc tụng vì người giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời có thể thấy được đàn-ba-la-mật, nhẫn đến bát-nhã ba-la-mật cũng vậy.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát nếu có thể nghe kinh Đại Niết Bàn này thời biết pháp biết nghĩa đủ cả hai đức vô ngại, đối với hàng Sa Môn, Bà La Môn, hoặc chư Thiên, Ma Vương, Phạm Vương, trong tất cả thế gian đều đặng vô sở úy, vì đại chúng khai thị phân biệt mười hai bộ kinh, diễn thuyết ý nghĩa không có sai lầm, có thể tự biết chẳng chờ học với người được gần vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đây gọi là nghe rồi có thể làm lợi ích.
Này thiện nam tử! Có thể dứt tâm nghi lầm, nghi có hai thứ: Một là nghi nơi danh từ, hai là nghi ý nghĩa. Người nghe kinh này, dứt tâm nghi danh từ, người suy nghĩ ý nghĩa thời dứt tâm nghi ý nghĩa.
Nghi lại có năm thứ: Một là nghi Phật quyết định nhập Niết Bàn hay chăng? Hai là nghi Phật có phải thường trụ chăng? Ba là nghi Phật có phải chân lạc chăng? Bốn là nghi Phật có phải chân tịnh chăng? Năm là nghi Phật có phải chân ngã chăng. Người nghe kinh này thời dứt hẳn lòng nghi Phật nhập Niết Bàn. Biên chép đọc tụng vì người giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời dứt hẳn bốn điều nghi: thường, lạc, tịnh, ngã.
Nghi lại có ba thứ: Một là nghi Thanh Văn là có hay là không? Hai là nghi Duyên Giác là có hay là không? Ba là nghi Phật thừa là có hay là không? Người nghe kinh này thời dứt hẳn ba điều nghi như vậy. Còn biên chép đọc tụng vì người giảng thuyết suy nghĩ ý nghĩa thời có thể rõ biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Này thiện nam tử! Nếu có chúng sanh chẳng nghe kinh Đại Niết Bàn này, thời tâm họ nhiều sự nghi ngờ. Như nghi hoặc thường hay vô thường, hoặc lạc hay chẳng lạc, hoặc tịnh hay chẳng tịnh, hoặc ngã hay vô ngã, hoặc mạng hay phi mạng, hoặc chúng sanh hay phi chúng sanh, hoặc rốt ráo hay chẳng rốt ráo, hoặc đời khác, hoặc đời đã qua, hoặc có, hoặc không, hoặc khổ, hoặc chẳng phải khổ, hoặc tập, hoặc chẳng phải tập, hoặc đạo, hoặc chẳng phải đạo, hoặc diệt, hoặc chẳng phải diệt, hoặc pháp, hoặc phi pháp, hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc không, hoặc chẳng phải không. Người nghe kinh này thời dứt hẳn các điều nghi như vậy.
Thiện nam tử! Nếu có người chẳng nghe kinh này thời lại có nhiều tâm nghi. Như nghi sắc uẩn là ngã ư? Thọ, tưởng, hành, thức, là ngã ư? Nhãn là năng kiến ư? Ngã là năng kiến ư? Thọ, tưởng, hành, thức là năng kiến ư? Ngã là năng kiến ư? Sắc-uẩn thọ báo ư? Ngã thọ báo ư? Thọ, tưởng, hành, thức thọ báo ư? Ngã thọ báo ư? Sắc-uẩn đến đời khác ư? Ngã đến đời khác ư? Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Những pháp sanh tử là có thỉ có chung ư? Hay là vô thỉ vô chung ư? Người nghe kinh này cũng dứt hẳn được những điều nghi như vậy. Lại có người nghi nhất-xiển-đề phạm bốn tội nặng tạo tội ngũ nghịch, hủy báng kinh đại thừa Phương Đẳng, hạng người này có Phật tánh hay không có Phật tánh. Người nghe kinh này cũng dứt hẳn được những điều nghi như vậy.
Lại có người nghi thế gian có ngằn mé hay không có ngằn mé? Có thập phương thế giới hay không thập phương thế giới. Người nghe kinh này cũng dứt hẳn được những điều nghi như vậy. Đây gọi là có thể dứt tâm nghi lầm, có trí huệ chánh trực không tà vạy. Vì nếu tâm nghi thời chỗ nhận thấy chẳng chánh. Tất cả phàm phu nếu chẳng đặng nghe kinh Đại Niết Bàn này thời chỗ nhận thấy tà vạy. Nhẫn đến Thanh Văn Duyên Giác chỗ thấy biết cũng vạy-vò. Vì phàm phu ở trong hữu lậu mà thấy là thường, lạc, ngã, tịnh nơi Như Lai lại thấy là vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã, thấy có chúng sanh, có thọ mạng, có tri kiến, chấp trời Phi tưởng Phi phi tưởng là Niết Bàn, thấy trời Tự tại có tám thánh đạo, chấp có, chấp đoạn, các sự nhận thấy như vậy gọi là tà vạy. Đại Bồ Tát nếu đặng nghe kinh Đại Niết Bàn này tu hành thánh hạnh thời dứt trừ được những điều tà vạy như vậy.
Hàng Thanh Văn Duyên Giác thấy Bồ Tát từ trời Đâu Xuất hóa hiện ngự trên bạch tượng giáng thần vào thai mẹ tại thành Ca Tỳ La, cha hiệu Tịnh Phạn, mẹ tên Ma Gia. Ở thai đủ mười tháng sanh ra. Lúc sanh ra chưa đến đất, Thiên Đế Thích đưa tay đỡ, Nam Đà Long Vương và Bạt Nan Đà Long Vương phun nước tắm.
Đại Thần Vương Ma Ni Bạt Đà cầm lọng báu đứng hầu phía sau. Địa thần hóa hoa sen đỡ dưới chân. Bồ Tát đi qua bốn phương đều đủ bảy bước. Lúc đến Thiên Miếu các thiên tượng đều đứng dậy tiếp nghinh. Tiên A Tư Bà hai tay bồng xem tướng, xem xong tiên nhân buồn khổ thương phận mình sắp chết chẳng được thấy Bồ Tát thành Phật. Lớn lên đến thầy đọc sách, học toán số, cỡi ngựa, bắn cung, đồ sấm, các nghề nghiệp. Ở trong thâm cung cùng vui với sáu muôn thể-nữ. Ra ngoài thành dạo chơi đến vườn Ca Tỳ La, dọc đường gặp người già, người bệnh, người chết, và gặp thầy Sa Môn mặc pháp phục đi trên đường. Khi trở về cung, thấy các thể-nữ hình mạo như xương khô, xem cung điện không khác gò mả. Nhàm chán, nửa đêm vượt thành xuất gia, đến chỗ các đại tiên nhân Uất Đà Dà, A La La v.v… nghe giảng nói về Thức Vô Biên Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Nghe xong rồi quan sát kỹ biết những xứ ấy là vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã, bèn bỏ đi đến núi Tuyết, dưới cội cây tu khổ hạnh trọn sáu năm. Sau đó biết khổ hạnh chẳng đặng thành vô thượng chánh giác, bèn đến tắm rửa trong sông A Nậu Bạt Đề. Tắm xong nhận lấy cháo sữa của cô gái chăn bò dâng. Ăn xong lại đến ngồi dưới cây Bồ Đề, phá ma Ba Tuần đặng thành vô thượng chánh giác. Đến thành Ba La Nại chuyển pháp luân lần đầu độ năm vị Tỳ Kheo, nhẫn đến ở rừng Ta La nơi thành Câu Thi Na này nhập Niết Bàn. Các điều nhận thấy như vậy gọi là chỗ thấy biết vạy-vò của Thanh Văn Duyên Giác.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát nghe và lãnh thọ kinh Đại Niết Bàn này, thời dứt trừ đặng những điều thấy biết như vậy. Nếu có thể biên chép đọc tụng thông thuộc vì người diễn thuyết suy nghĩ ý nghĩa, thời đặng trí huệ chánh trực không tà vạy.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại Niết Bàn, biết rõ Bồ Tát từ vô lượng kiếp nhẫn lại chẳng từ trời Đâu Suất giáng thần thai mẹ, nhẫn đến thành Câu Thi Na nhập Niết Bàn. Đây gọi là chỗ thấy biết chánh trực của Đại Bồ Tát.
Có thể biết nghĩa thâm mật của Như Lai, tức là biết rõ đại Niết Bàn: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, sám trừ bốn giới trọng, trừ tâm hủy báng chánh pháp, hết tội ngũ nghịch, dứt nhất-xiển-đề, rồi sau đặng thành vô thượng chánh giác.
Lại nghĩa thậm thâm là dầu biết chúng sanh thiệt không có ngã, nhưng nghiệp quả đời vị lai chẳng mất: dầu biết năm ấm hiện đây dứt hết, nhưng nghiệp thiện ác trọn chẳng hư mất, dầu có các hành nghiệp nhưng không có tác giả, dầu có chỗ đến nhưng không có người đi, dầu có trói buộc nhưng không người bị trói, dầu có Niết Bàn nhưng không có người diệt, đây gọi là nghĩa bí mật rất sâu."
Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Như tôi hiểu nghĩa được nghe chỗ chưa từng nghe của Phật nói thời nghĩa này chẳng phải. Vì nếu pháp là có lẽ ra quyết định có, pháp nếu là không lẽ ra quyết định không, nếu không thời lẽ ra chẳng sanh, nếu có thời lẽ ra chẳng diệt, như nghe thời là nghe, nếu chẳng nghe thời là chẳng nghe, sao lại nói rằng nghe chỗ chẳng nghe. Bạch Thế Tôn! Nếu chẳng nghe đây là chẳng nghe, còn nếu đã nghe thời lại chẳng nghe, vì đã đặng nghe, sao lại nói rằng nghe lại chẳng nghe?
Ví như người đi, nếu đã đến thời chẳng đi còn đi thời chẳng đến. Cũng như đã sanh thời chẳng sanh, còn chẳng sanh thời là chẳng sanh. Đã đặng thời chẳng đặng, còn chẳng đặng thời là chẳng đặng. Nghe rồi thời chẳng nghe, còn chẳng nghe thời là chẳng nghe. Bạch Thế Tôn! Nếu chẳng nghe mà nghe đó, thời tất cả chúng sanh chưa có Bồ Đề lẽ ra cũng có đó, người chưa đặng Niết Bàn lẽ ra cũng đặng đó, người chưa thấy Phật tánh lẽ ra cũng thấy Phật tánh, sao lại nói rằng bậc Thập Trụ Bồ Tát dầu thấy Phật tánh nhưng chưa đặng rõ ràng.
Bạch Thế Tôn! Nếu chẳng nghe mà nghe, thời đức Như Lai thuở xưa từ ai mà đặng nghe. Nếu nói rằng đặng nghe, cớ sao trong kinh A Hàm đức Như Lai lại nói là không có thầy. Nếu chẳng nghe thời là chẳng nghe mà đức Như Lai đặng thành vô thượng chánh giác, thời tất cả chúng sanh chẳng nghe lẽ ra cũng đặng thành vô thượng chánh giác. Nếu đức Như Lai chẳng nghe kinh Đại Niết Bàn mà thấy Phật tánh, thời tất cả chúng sanh chẳng nghe kinh này lẽ ra cũng được thấy Phật tánh.
Bạch Thế Tôn! Phàm là sắc thời hoặc có thể thấy, hoặc chẳng thấy được, tiếng cũng như vậy, hoặc có thể nghe, hoặc chẳng nghe được. Đại Niết Bàn nầy chẳng phải sắc chẳng phải tiếng, sao lại nói rằng có thể thấy nghe được.
Bạch Thế Tôn! Quá khứ đã diệt thời chẳng thể nghe, vị lai chưa đến cũng chẳng thể nghe, lúc hiện tại lóng nghe thời chẳng gọi là nghe, nghe rồi khiến dứt lại chẳng thể nghe. Kinh Đại Niết Bàn này cũng chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, nếu chẳng phải thời gian thời chẳng thể nói, nếu chẳng thể nói thời chẳng thể nghe, sao lại nói rằng Bồ Tát tu kinh Đại Niết Bàn này được nghe chỗ chẳng nghe."
Phật nói: "Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Nay ông khéo biết tất cả pháp như huyễn, như dương diệm, như thành Càn Thát Bà, như dấu vẽ trong nước, cũng như bóng nước, bọt nước, cây chuối rỗng-không chẳng chắc-thiệt, chẳng phải mạng, chẳng phải ngã, không có khổ vui, như chỗ thấy biết của Thập Trụ Bồ Tát."
Lúc đó trong đại chúng thoạt có ánh sáng lớn chiếu đến, ánh sáng này chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, mà thấy là xanh, vàng, đỏ, trắng, chẳng phải sắc, chẳng phải sáng, mà thấy là sắc là sáng, chẳng phải thấy mà thấy.
Đại chúng gặp ánh sáng này thân tâm vui thích như Tỳ Kheo nhập Sư Tử Vương Định.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Ai phóng ánh sáng này?"
Đức Như Lai yên lặng chẳng đáp.
Ca Diếp Bồ Tát lại hỏi Văn Thù Sư Lợi: "Nhân duyên gì mà có ánh sáng này chiếu đại chúng?"
Văn Thù Sư Lợi yên lặng chẳng đáp.
Vô Biên Thân Bồ Tát lại hỏi Ca Diếp Bồ Tát: "Ai phóng ánh sáng này?"
Ca Diếp Bồ Tát yên lặng chẳng đáp.
Tịnh Trụ Vương Tử Bồ Tát lại hỏi Vô Biên Thân Bồ Tát: "Duyên cớ gì trong đại chúng đây có ánh sáng này?"
Vô Biên Thân Bồ Tát yên lặng không đáp.
Lần lượt đến năm trăm vị Bồ Tát xoay vần hỏi nhau, nhưng không ai giải đáp.
Đức Thế Tôn hỏi Văn Thù Sư Lợi: "Duyên cớ gì trong đại chúng đây có ánh sáng này?"
Văn Thù Sư Lợi đáp: "Bạch Thế Tôn! Ánh sáng này gọi là trí huệ. Trí huệ chính là thường trụ. Pháp thường trụ không có nhân duyên, sao đức Phật lại hỏi duyên cớ gì có ánh sáng này.
Ánh sáng này gọi là Đại Niết Bàn, Đại Niết Bàn thời gọi là thường trụ. Pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên, sao đức Phật lại hỏi duyên cớ gì có ánh sáng này.
Ánh sáng này chính là Như Lai, Như Lai chính là thường trụ, pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên, sao đức Phật lại hỏi duyên cớ.
Ánh sáng này gọi là Đại Từ Đại Bi, đại từ bi gọi là thường trụ, pháp thường trụ chẳng phải từ nhân duyên, sao đức Phật lại hỏi duyên cớ.
Ánh sáng này chính là niệm Phật, niệm Phật là thường trụ, pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên, sao đức Phật lại hỏi duyên cớ.
Ánh sáng này là đạo bất cộng với tất cả Thanh Văn Duyên Giác, đạo bất cộng là thường trụ, pháp thường trụ chẳng từ nhân duyên, sao đức Phật lại hỏi duyên cớ. Đức Thế Tôn cũng có nhân duyên: Nhân dứt vô minh chứng đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác."
Phật nói: "Này Văn Thù Sư Lợi! Nay ông chớ nhập đệ nhất nghĩa đế, nên dùng thế đế để giải đáp."
Văn Thù Sư Lợi nói: "Bạch Thế Tôn! Từ đây qua phương đông cách hai mươi hằng hà sa thế giới, có cõi bất động, chỗ Phật ngự rộng một muôn hai ngàn do-diên. Cõi đó có toàn thất bảo không có đất đá, bằng thẳng êm dịu không có hầm hố. Cây cối toàn bằng bốn chất báu vàng, bạc, lưu ly và pha lê, trên cây thường có hoa trái. Nếu có chúng sanh nào được ngửi mùi thơm của hoa này thời thân tâm an vui như nhập đệ tam thiền. Khắp nơi có hai ngàn sông lớn nước sông đủ tám vị công đức, nếu có chúng sanh nào tắm trong nước đó thời thân tâm vui vẻ như nhập đệ nhị thiền. Trong sông có nhiều thứ hoa đẹp: những hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng. Hai bờ sông cũng có các thứ hoa thơm đẹp. Đáy sông toàn trải cát vàng. Có những thềm bậc bằng vàng, bạc, lưu ly cùng pha lê nhiều màu, nhiều giống chim đẹp bay đậu trên đó. Lại có vô lượng cọp, sói, sư tử v.v… Các cầm thú ấy xem nhau như con đỏ. Trong cõi đó không có những tội ác cùng hạng nhất-xiển-đề. Khí hậu điều hòa không có lạnh nóng đói khát khổ sở, không có tham dục, sân hận phóng dật tật đố. Không có mặt trời mặt trăng thời tiết như cõi trời Đao Lợi. Nhân dân cõi đó đồng có ánh sáng, không có tâm kiêu mạn. Tất cả đều là Bồ Tát Đại Sĩ đầy đủ thần thông, có công đức lớn, tôn trọng chánh pháp, mến tu đại thừa, có đại từ bi thương xót tất cả chúng sanh.
Đức Phật ở cõi đó hiệu là Mãn Nguyệt Quang Minh Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Lúc đức Phật đó thuyết pháp, toàn thể chúng sanh trong cõi Bất Động đều được nghe. Đức Phật đó vì Lưu Ly Quang Bồ Tát mà giảng thuyết kinh Đại Niết Bàn đến đoạn Bồ Tát tu hành kinh này thời đều đặng nghe chỗ chẳng đặng nghe. Lưu Ly Quang gạn hỏi đức Phật Mãn Nguyệt Quang Minh, như tại đây Cao Quý Đức Vương Bồ Tát vừa hỏi đức Như Lai giống nhau không khác. Đức Phật Mãn Nguyệt Quang Minh bảo Lưu Ly Quang Bồ Tát rằng: Phương tây của cõi Bất Động này cách hai mươi hằng-hà-sa Phật-độ cõi Ta Bà cõi ấy đầy những đất đá gai chông hầm hố gò nỗng, thường có những khổ về đói khát lạnh nóng. Nhân dân cõi Ta Bà chẳng biết cung kính Sa Môn, Bà La Môn, cha mẹ, sư trưởng, phần nhiều tham đắm phi pháp, tà pháp, chẳng tin chánh pháp, thọ mạng của họ ngắn ngủi. Nhiều kẻ gian trá bị chánh quyền trừng phạt. Dầu đã có nước để cai trị, nhưng vua quan chẳng biết vừa đủ, sanh lòng tham kéo binh đánh chiếm nước khác làm cho những người vô tội lại chết oan. Các nhà lãnh đạo thực hành những phi pháp như vậy, nên Tứ Thiên Vương các thiên thần không hoan hỷ, thường giáng tai họa: hạn hán, bão lụt, mất mùa đói khát, nhân dân nhiều bệnh, vô lượng sự khổ não. Cõi Ta Bà đó có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni Như Lai mười hiệu đầy đủ, hiện ở thành Câu Thi Na trong rừng Ta La Song Thọ, vì đại chúng diễn thuyết kinh Đại Niết Bàn, hiện có Bồ Tát tên Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương đã đem việc này hỏi đức Thích Ca Mâu Ni, nay đức Phật đó đương giải đáp, ông nên mau qua cõi đó sẽ được nghe.
Bạch Thế Tôn! Lưu Ly Quang Bồ Tát vâng lời đức Phật Mãn Nguyệt Quang Minh cùng tám muôn bốn ngàn vị đại Bồ Tát sắp đến đây. Do nhân duyên này nên hiện điềm phóng ánh sáng. Đây là có duyên cớ mà có ánh sáng này."
Lúc đó Lưu Ly Quang Bồ Tát cùng tám muôn bốn ngàn đại Bồ Tát mang theo các thứ phan lọng, hương hoa, chuỗi ngọc, nhiều thứ kỹ nhạc, đồng đến rừng Ta La nơi thành Câu Thi Na, đầu mặt lễ chân Phật, đem đồ cúng dường dâng lên, cung kính đi nhiễu bên hữu ba vòng rồi ngồi qua một phía.
Đức Phật hỏi Lưu Ly Quang Bồ Tát: "Ông vì đến mà lại, hay vì chẳng đến mà lại?"
Bạch Thế Tôn: "Đến cũng chẳng lại, chẳng đến cũng chẳng lại. Tôi quán sát nghĩa này đều không có lại. Các hành pháp nếu là thường cũng chẳng lại, nếu là vô thường cũng không có lại. Nếu người thấy có chúng sanh tánh thời có lại, chẳng lại. Nay tôi chẳng thấy chúng sanh có định tánh, thời đâu có lại cùng chẳng lại. Người có kiêu mạn thời thấy có đi, có lại. Người không kiêu mạn thời không thấy có đi, có lại. Người có chấp lấy tạo tác thời thấy có đi có lại. Người không chấp lấy tạo tác thời không thấy có đi có lại.
Nếu thấy Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn thời có đi, có lại. Người chẳng thấy Như Lai nhập Niết Bàn thời không đi, không lại.
Người chẳng nghe Phật tánh thời có đi có lại. Người nghe Phật tánh thời không đi không lại.
Nếu thấy hàng Thanh Văn Bích Chi Phật có Niết Bàn thời thấy có đi có lại. Người chẳng thấy hàng Thanh Văn Bích Chi Phật có Niết Bàn thời không đi, không lại.
Nếu người thấy hàng Thanh Văn Bích Chi Phật là thường, lạc, ngã, tịnh, thời có đi, có đến. Nếu người không thấy thời không đi, không đến.
Nếu thấy Như Lai không có thường, lạc, ngã, tịnh thời có đi, có đến. Nếu thấy Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh thời không đi, không đến.
Bạch Thế Tôn! Xin để việc đó lại. Nay tôi có chỗ muốn hỏi mong đức Phật thương xót cho phép."
Phật nói: "Này thiện nam tử! Giờ đây phải lúc tùy ý ông hỏi ta sẽ giải đáp cho ông. Vì chư Phật khó gặp như hoa Ưu Đàm, pháp cũng khó được nghe, trong mười hai bộ kinh bộ Phương Đẳng đại thừa lại khó hơn. Vì thế nên phải chuyên tâm lóng nghe và lãnh thọ."
Lưu Ly Quang Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát có thể tu hành kinh Đại Niết Bàn được nghe chỗ chẳng nghe."
Phật khen rằng: "Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Nay ông muốn cùng tận biển đại thừa đại Niết Bàn, lại gặp Phật có thể khéo giải thuyết. Phật là lương y có thể khéo nhổ mũi tên độc nghi ngờ của ông. Phật có đuốc huệ soi sáng Phật tánh cho ông. Ông muốn qua khỏi sông lớn sanh tử Phật có thể làm thuyền sư cho ông. Ông ở nơi Phật tưởng là cha mẹ, Phật cũng ở nơi ông tưởng là con một. Lòng ông tham của báu chánh pháp, gặp Phật có nhiều pháp lại hay bố thí. Ông nên lóng nghe khéo suy nghĩ đó.
Này thiện nam tử! Khi nghe pháp rồi phải sanh lòng kính tin tôn trọng. Đối với chánh pháp chớ tìm cầu chỗ lỗi, chớ nghĩ tham sân si. Chớ nhìn xem giòng họ tốt xấu của pháp sư. Sau khi nghe pháp chớ sanh lòng kiêu mạn, chớ vì cung kính, danh dự, lợi dưỡng, phải vì được lợi ích pháp vị cam lồ độ thế gian. Cũng chớ nghĩ rằng, tôi nghe pháp rồi trước tự độ mình sau sẽ độ người, trước tự giải thoát sau sẽ giải thoát cho người, trước tự an thân sau sẽ làm cho người được an, trước tự được Niết Bàn sau sẽ làm cho người được Niết Bàn. Nên có quan niệm bình đẳng đối với Phật, Pháp, Tăng. Trong sanh tử phải có quan niệm là khổ oan lớn. Đối với Đại Niết Bàn phải quan niệm là thường, lạc, ngã, tịnh. Trước vì người sau sẽ vì mình. Nên vì đại thừa chớ vì nhị thừa. Nên không trụ trước đối với tất cả pháp, cũng chớ chuyên chấp tất cả pháp tướng. Đối với các pháp chớ có lòng tham, thường có quan niệm biết pháp thấy pháp.
Này thiện nam tử! Ông có thể hết lòng nghe Pháp như vậy, đây thời gọi là được nghe chỗ chẳng nghe.
Này thiện nam tử! Có chẳng nghe mà nghe, có chẳng nghe mà chẳng nghe, có nghe mà chẳng nghe, có nghe mà nghe.
Này thiện nam tử! Như chẳng sanh mà sanh, chẳng sanh mà chẳng sanh, sanh mà chẳng sanh, sanh mà sanh.
Như chẳng đến mà đến, chẳng đến mà chẳng đến, đến mà chẳng đến, đến mà đến."
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là chẳng sanh mà sanh.
- Này thiện nam tử! An trụ nơi thế đế, lúc mới xuất thai đây gọi là chẳng sanh mà sanh.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là chẳng sanh mà chẳng sanh.
- Này thiện nam tử! Đại Niết Bàn đây không có tướng sanh, đây gọi là chẳng sanh mà chẳng sanh.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi sanh mà chẳng sanh?
- Này thiện nam tử! Cứ theo thế đế, lúc chết thời gọi là sanh mà chẳng sanh.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào sanh mà sanh?
- Này thiện nam tử! Tất cả phàm phu thời gọi là sanh mà sanh. Vì phàm phu sanh, sanh chẳng dứt, vì tất cả hữu lậu niệm niệm sanh luôn, đây gọi là sanh mà sanh. Bậc tứ trụ Bồ Tát thời gọi là sanh mà chẳng sanh, vì sanh mà tự tại.
Này thiện nam tử! Trên đó là nói về nội pháp. Còn về ngoại pháp cũng có chưa sanh mà sanh, chưa sanh mà chưa sanh, sanh mà chưa sanh, sanh mà sanh. Như hột giống lúc chưa mọc mầm, được tứ đại hòa hiệp, công người săn sóc, rồi sau mới mọc lên đây gọi là chưa sanh mà sanh. Như hột giống hư và hột giống chưa gặp đủ duyên, thời gọi là chưa sanh mà chưa sanh. Như mầm đã mọc mà chẳng lớn thêm, thời gọi là sanh mà chưa sanh. Như mầm lớn thêm thời gọi là sanh mà sanh. Tất cả ngoại pháp hữu lậu sanh mà sanh như vậy.
- Bạch Thế Tôn! Pháp hữu lậu nếu có sanh thời là thường hay vô thường?
Sanh nếu là thường, thời pháp hữu lậu không có sanh, sanh nếu là vô thường thời hữu lậu là thường.
- Bạch Thế Tôn! Nếu sanh có thể tự sanh, thời sanh không tự tánh. Nếu có thể sanh cái khác duyên cớ gì chẳng sanh vô lậu.
- Bạch Thế Tôn! Nếu lúc chưa sanh mà có sanh, sao lại đến nay mới gọi là sanh. Nếu lúc chưa sanh là không sanh, cớ sao chẳng nói hư không là sanh?
Phật nói: "Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Chẳng sanh mà sanh, không thể nói được, cho đến sanh mà sanh cũng không thể nói được, sanh cùng bất sanh đều không thể nói được. Vì có nhân duyên nên cũng có thể nói được.
Thế nào là chẳng sanh mà sanh, chẳng thể nói được? Chẳng sanh lại gọi là sanh, làm sao có thể nói được, vì nó sanh.
Thế nào là sanh mà sanh, chẳng thể nói được? Vì sanh mà sanh nên là sanh, vì sanh nên là chẳng sanh, cũng chẳng nói được.
Thế nào là sanh mà chẳng sanh, chẳng thể nói được? Sanh thời gọi là sanh, sanh chẳng tự sanh, nên chẳng thể nói được.
Thế nào là chẳng sanh mà chẳng sanh, chẳng thể nói được? Chẳng sanh gọi là Niết Bàn, vì Niết Bàn chẳng sanh nên chẳng thể nói được, vì Niết Bàn do tu mà chứng đặng.
Thế nào là sanh cũng chẳng thể nói được? Vì sanh vốn là không.
Thế nào là chẳng sanh không thể nói được? Vì có chứng đặng.
Thế nào là vì có nhân duyên cũng có thể nói được? Mười pháp nhân duyên làm sanh tác nhân do đây nên cũng có thể nói được.
Này thiện nam tử! Nay ông chớ nhập thậm thâm không định, vì đại chúng căn trí chậm lụt.
Này thiện nam tử! Pháp hữu vi sanh cũng là thường, do trụ vô thường, nên sanh cũng vô thường. Trụ cũng là thường do sanh mà sanh nên trụ cũng vô thường. Dị cũng là thường, do pháp vô thường nên dị cũng vô thường. Hoại cũng là thường, do trước không nay có nên hoại cũng vô thường.
Này thiện nam tử! Vì cứ nơi tánh, nên sanh trụ dị hoại đều là thường, vì niệm niệm diệt nên không thể nói là thường, vì đại Niết Bàn này có thể dứt diệt được, nên lại gọi là vô thường.
Này thiện nam tử! Pháp hữu lậu lúc chưa sanh, đã có tánh sanh, vì thế nên sanh có thể sanh được. Pháp vô lậu vốn không tánh sanh, vì thế nên sanh không thể sanh được. Như lửa có tánh sẵn gặp duyên thời phát. Mắt có tánh thấy đủ duyên thời thấy. Sanh pháp của chúng sanh cũng như vậy, do tánh sẵn có, gặp nhân duyên của nghiệp, cha mẹ hòa hiệp thời bèn có sanh."
Lưu Ly Quang Bồ Tát cùng tám muôn bốn ngàn đại Bồ Tát nghe pháp này rồi, vọt thân lên hư không cao bảy cây Đa La, chắp tay cung kính bạch Phật: "Thế Tôn! Tôi nhờ đức Như Lai ân cần dạy bảo cho đại Niết Bàn mới đặng tỏ ngộ ý nghĩa nghe chỗ chẳng nghe, cũng làm cho tám muôn bốn ngàn Bồ Tát này hiểu rõ những nghĩa chẳng sanh mà sanh v.v… của các pháp.
Bạch Thế Tôn! Nay tôi đã tỏ ngộ dứt hết nghi ngờ, nhưng trong hội này có một Bồ Tát hiệu là Vô Úy lại muốn thưa hỏi mong đức Phật cho phép."
Phật bảo Vô Úy Bồ Tát: "Này thiện nam tử! Tùy ý ông hỏi, ta sẽ vì ông giải nói."
Vô Úy Bồ Tát cùng tám muôn bốn ngàn Bồ Tát đồng đứng dậy nghiêm chỉnh y phục, quỳ chắp tay bạch Phật: "Thế Tôn! Chúng sanh cõi Ta Bà này phải thực hành hạnh nghiệp gì để được sanh về cõi Bất Động? Bồ Tát cõi đó thế nào mà đặng đầy đủ trí huệ, đầy đủ các công hạnh, có oai đức lớn, trí huệ lanh lẹ, nghe liền hiểu rõ?"
Đức Phật liền nói kệ rằng:
Chẳng hại mạng chúng sanh
Giữ gìn các cấm giới
Bẩm thọ pháp của Phật
Thời sanh cõi Bất Động
Chẳng đoạt của người khác
Thường ban cho tất cả
Tạo chiêu đề tăng phường
Thời sanh cõi Bất Động
Chẳng phạm vợ con người
Vợ nhà chẳng phi thời
Thí trì giới ngọa cụ
Thời sanh cõi Bất Động
Chẳng vì mình hoặc người
Cầu lợi và khủng bố
Giữ lời chẳng vọng ngữ
Thời sanh cõi Bất Động
Chớ phá thiện tri thức
Xa lìa quyến thuộc ác
Thường nói lời hòa hiệp
Thời sanh cõi Bất Động
Như các bậc Bồ Tát
Thường lìa lời ác khẩu
Nói ra người thích nghe
Thời sanh cõi Bất Động
Nhẫn đến lúc giỡn cười
Chẳng nói lời phi thời
Gìn giữ lời chánh pháp
Thời sanh cõi Bất Động
Thấy người đặng lợi dụng
Thường sanh lòng vui mừng
Chẳng sanh lòng tật đố
Thời sanh cõi Bất Động
Chẳng não hại chúng sanh
Thường sanh lòng từ bi
Chẳng làm phương tiện ác
Thời sanh cõi Bất Động
Tà kiến bác bố thí
Không cha mẹ, khứ lai
Chẳng có tà kiến ấy
Thời sanh cõi Bất Động
Đường xa làm giếng tốt
Trồng rừng rậm cây trái
Thường thí người khất thực
Thời sanh cõi Bất Động
Đối với Phật, Pháp, Tăng
Cúng một đèn một hương
Nhẫn đến dâng một hoa
Thời sanh cõi Bất Động.
Nếu vì cớ sợ sệt
Lợi dưỡng cùng phước đức
Chép một kệ kinh này
Thời sanh cõi Bất Động
Nếu vì cầu phước lợi
Được ở trong một ngày
Đọc tụng kinh điển này
Thời sanh cõi Bất Động
Nếu vì đạo vô thượng
Trong một ngày một đêm
Thọ trì bát quan trai
Thời sanh cõi Bất Động
Chẳng cùng người phạm tội
Người hủy báng đại thừa
Đồng ở chung một chỗ
Thời sanh cõi Bất Động
Nếu thí cho người bệnh
Nhẫn đến một trái cây
Vui mừng mà săn sóc
Thời sanh cõi Bất Động
Chẳng lạm dùng của Tăng
Khéo giữ vật của Phật
Tô quét chỗ Phật Tăng
Thời sanh cõi Bất Động
Tạo tượng và tháp Phật
Chứng bằng ngón tay cái
Thường sanh lòng vui mừng
Thời sanh cõi Bất Động.
Nếu vì kinh điển này
Đem thân cùng của cải
Cúng dường người thuyết pháp
Thời sanh cõi Bất Động.
Nếu nghe và biên chép
Thọ trì cùng đọc tụng
Tạng bí mật của Phật
Thời sanh cõi Bất Động.
Vô Úy Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Nay tôi đã biết những công hạnh đặng sanh về cõi nước Bất Động.
Thế Tôn! Cao Quý Đức Vương Bồ Tát này vì khắp xót thương tất cả chúng sanh nên trước kia có chỗ thưa hỏi, nếu đức Như Lai giải quyết thời có thể lợi ích an vui cho hàng trời, người, bát bộ."
Đức Phật bảo Cao Quý Đức Vương Bồ Tát: "Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Ông nên hết lòng lóng nghe, tôi sẽ vì ông phân biệt giải quyết.
Vì có nhân duyên nên chưa đến chẳng đến. Vì có nhân duyên nên chẳng đến mà đến, vì có nhân duyên nên đến mà chẳng đến. Vì có nhân duyên nên đến mà đến.
Này thiện nam tử! Xét về chẳng đến gọi là Đại Niết Bàn. Hàng phàm phu chưa đến bởi có tham dục sân khuể và ngu si. Vì hai nghiệp thân và khẩu chẳng thanh tịnh, cùng lãnh thọ tất cả vật bất tịnh, phạm bốn tội trọng, hủy báng phương đẳng đại thừa là hạnh nhất-xiển-đề tạo tội ngũ nghịch, do nghĩa này nên chưa đến chẳng đến.
Chẳng đến gọi là chẳng đến Đại Niết Bàn. Do nghĩa gì mà được đến? Vì dứt hẳn tham dục sân khuể ngu si và tội ác của thân khẩu, chẳng thọ tất cả vật bất tịnh, chẳng phạm bốn tội trọng, chẳng hủy báng phương đẳng đại thừa, chẳng làm hạng nhất-xiển-đề, chẳng tạo tội ngũ nghịch. Do nghĩa này nên gọi là chẳng đến mà đến.
Bậc Tu Đà Hoàn tám muôn kiếp thì đến, bậc Tu Đà Hàm sáu muôn kiếp thì đến, bậc A Na Hàm bốn muôn kiếp thì đến, bậc A La Hán hai muôn kiếp thì đến, Bích Chi Phật mười ngàn kiếp thì đến. Do nghĩa này nên gọi là chẳng đến mà đến.
Đến gọi là hai mươi lăm cõi. Tất cả chúng sanh đều bị vô lượng phiền não che đậy, qua lại chẳng ngừng dường như bánh xe lăn, đây gọi là đến. Thanh Văn Duyên Giác và Bồ Tát vì đã đặng lìa hẳn nên gọi chẳng đến, lại ba bậc này vì muốn hóa độ chúng sanh nên thị hiện ở trong đó, nên cũng gọi là đến.
Đến chính là hai mươi lăm cõi. Tất cả phàm phu, Tu Đà Hoàn nhẫn đến A Na Hàm, vì phiền não nên gọi là đến mà đến.
Này thiện nam tử! Nghe chỗ chẳng nghe cũng như vậy. Có chẳng nghe mà nghe, chẳng nghe mà chẳng nghe, nghe mà chẳng nghe, nghe mà nghe.
Chẳng nghe là Đại Niết Bàn vì chẳng phải hữu vi, vì chẳng phải âm thanh, vì chẳng thể nói. Thế nào là cũng nghe?
Vì đặng nghe danh từ: thường, lạc, ngã và tịnh. Do nghĩa này nên gọi là chẳng nghe mà nghe."
Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Như Phật nói đại Niết Bàn là chẳng thể nghe được, sao lại nói rằng thường, lạc, ngã, tịnh mà có thể nghe được. Vì người đoạn phiền não gọi là đặng Niết Bàn, nếu chưa đoạn gọi là chẳng được. Do nghĩa này tánh Niết Bàn trước không mà nay có. Nếu pháp thế gian trước không mà nay có thời gọi là vô thường. Ví như bình bồn v.v… Trước không mà nay có, đã có hoàn không, nên gọi là vô thường. Niết Bàn nếu như vậy, sao lại nói rằng thường, lạc, ngã, tịnh.
Bạch Thế Tôn! Phàm do trang nghiêm mà được thành đều gọi là vô thường. Niết Bàn nếu như vậy lẽ ra là vô thường. Những gì trang nghiêm Niết Bàn? Chính là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, sáu pháp ba-la-mật, bốn tâm vô lượng, quán tướng xương trắng, a-na ba-na, lục niệm xứ, phá tích sáu đại, do những pháp đó mà thành tựu Niết Bàn nên là vô thường.
Bạch Thế Tôn! Phàm là có, thời gọi là vô thường. Nếu Niết Bàn là có thời lẽ ra là vô thường. Như ngày trước trong kinh A Hàm Phật nói: Thanh Văn Duyên Giác, chư Phật đều có Niết Bàn, do nghĩa này nên gọi là vô thường.
Bạch Thế Tôn! Pháp có thể thấy thời gọi là vô thường. Như ngày trước đức Phật nói: Người thấy Niết Bàn thời dứt trừ được tất cả phiền não. Ví như hư không chẳng có chướng ngại nên gọi là thường. Giả sử Niết Bàn là thường v.v…, cớ sao chúng sanh lại có người được, người chẳng được. Như vậy Niết Bàn đối với chúng sanh chẳng bình đẳng lẽ ra chẳng gọi là thường.
Ví như trăm người chung có một kẻ oán thù, nếu hại được kẻ này thời nhiều người được an lạc. Giả sử Niết Bàn là pháp bình đẳng, lúc một người được, lẽ ra nhiều người cũng được, một người dứt kiết-sử lẽ ra nhiều người cũng dứt, nếu chẳng như vậy sao lại gọi là thường.
Như có người cung kính cúng dường tôn trọng tán thán quốc vương, vương tử, phụ mẫu, sư trưởng thời được lợi dưỡng, đây chẳng gọi là thường. Niết Bàn cũng vậy, như ngày trước trong kinh A Hàm đức Phật nói với A Nan: Nếu có người cung kính Niết Bàn thời dứt được kiết-sử hưởng thọ vô lượng an lạc do đây nên chẳng gọi là thường.
Bạch Thế Tôn! Nếu trong Niết Bàn có danh từ thường, lạc, ngã, tịnh thời chẳng gọi là thường, như không có, sao lại có thể nói?"
Đức Phật bảo Cao Quý Đức Vương Bồ Tát: "Thể Niết Bàn chẳng phải trước không nay có. Nếu thể Niết Bàn trước không nay có thời chẳng phải vô lậu. Pháp thường trụ, có Phật hay không Phật, tánh tướng vẫn thường trụ. Bởi chúng sanh bị phiền não che đậy nên chẳng thấy Niết Bàn, bèn gọi là không. Đại Bồ Tát dùng giới định huệ siêng tu tâm mình, dứt xong phiền não bèn đặng thấy Niết Bàn. Phải biết Niết Bàn là pháp thường trụ chẳng phải trước không nay có nên gọi là thường.
Như dưới giếng trong nhà tối có các thứ châu báu, người cũng biết là có nhưng vì tối nên không thấy. Người có trí, thắp đèn sáng lớn cầm soi đó thời thấy châu báu rõ ràng. Người trí này trọn chẳng nghĩ rằng: Nước giếng cùng châu báu, trước không mà nay có.
Cũng vậy, Niết Bàn trước vốn tự có, chẳng phải nay mới có, vì phiền não tối tăm nên chúng sanh chẳng thấy. Đức Như Lai đại trí thắp đèn trí huệ, làm cho Bồ Tát đặng thấy Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh. Do đây nên người trí chẳng nên nói rằng Niết Bàn trước không mà nay có.
Này thiện nam tử! Như ông nói do trang nghiêm nên đặng thành Niết Bàn lẽ ra là vô thường, nghĩa này cũng không phải. Vì thể của Niết Bàn chẳng phải sanh, chẳng phải xuất, chẳng phải thiệt, chẳng phải hư, chẳng phải tạo tác mà có, chẳng phải là pháp hữu lậu hữu vi, chẳng phải nghe, chẳng phải thấy, chẳng phải đọa, chẳng phải chết, chẳng phải tướng biệt đi, cũng chẳng phải tướng đồng, chẳng phải qua, chẳng phải lại, chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng phải một và nhiều, chẳng phải dài và vắn, chẳng phải tròn và vuông, chẳng phải nhọn và méo, chẳng phải có tướng và không tướng, chẳng phải danh và sắc, chẳng phải nhân và quả, chẳng phải ngã và ngã sở. Do những nghĩa này nên Niết Bàn là thường không biến đổi. Phải tu tập pháp lành trong vô lượng kiếp để tự trang nghiêm rồi với được thấy.
Ví như dưới đất có mạch nước trong mát chúng sanh chẳng thấy được, người trí ra công đào đất, thời đặng nước. Niết Bàn cũng như vậy.
Ví như người mù chẳng thấy mặt trời, mặt trăng, lương y điều trị thời đặng thấy. Mặt trời, mặt trăng chẳng phải là trước không mà nay có. Niết Bàn cũng như vậy từ trước đã tự có, chẳng phải mới có ngày nay.
Như người có tội bị trói nhốt trong khám, lâu ngày mãn tù mới được thả ra, trở về nhà đặng thấy cha mẹ anh em vợ con quyến thuộc. Niết Bàn cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Ông nói vì nhân duyên nên pháp Niết bàn lẽ ra vô thường, nghĩa này chẳng đúng.
Này thiện nam tử! Xét về nhân có năm thứ: Một là sanh nhân, hai là hòa hiệp nhân, ba là trụ nhân, bốn là tăng trưởng nhân, năm là viễn nhân.
Sanh nhân chính là nghiệp phiền não, cũng như hột giống của cây cỏ.
Hòa hiệp nhân, như pháp lành hòa hiệp với tâm lành, pháp chẳng lành hòa hiệp với tâm chẳng lành, pháp vô-ký hòa hiệp cùng tâm vô-ký.
Trụ nhân, như dưới có cột thời nóc nhà chẳng sập, núi sông, cây cối, nhân mặt đất mà đặng đứng vững, cũng vậy, nhờ có tứ đại cùng vô lượng phiền não mà chúng sanh an trụ. Tăng trưởng nhân, do uống ăn, y phục v.v… làm cho chúng sanh tăng trưởng. Ví như lửa chẳng đốt, chim chẳng ăn thời hột giống của cây cỏ được tăng trưởng. Như hàng Sa Môn, Bà La Môn nhờ thầy lành bạn tốt mà được tăng trưởng. Như nhờ cha mẹ mà con được tăng trưởng.
Viễn nhân, như nhân thần chú mà quỷ chẳng hại được, độc chẳng trúng được; như nhờ quốc vương không có trộm cướp; như nương đất nước mà mầm mọc lên; như nước khuấy, công người là viễn nhân của chất tô; như ánh sáng màu sắc v.v… là viễn nhân của nhận thức; tinh huyết của cha mẹ là viễn nhân của chúng sanh; như thời tiết v.v… đều gọi là viễn nhân.
Này thiện nam tử! Thể Niết Bàn chẳng phải do nhân như vậy mà thành, sao ông lại nói là vô thường.
Lại có hai thứ nhân: Một là tác nhân, hai là liễu nhân. Như khí cụ của thợ gốm thời gọi là tác nhân, như đèn đuốc v.v… soi vật trong tối thời gọi là liễu nhân.
Này thiện nam tử! Đại Niết Bàn chẳng do tác nhân mà có, chỉ do liễu nhân. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, sáu pháp ba-la-mật gọi là liễu nhân. Bố thí là nhân của Niết Bàn, chẳng phải là nhân của đại Niết Bàn. Đàn ba-la-mật mới được gọi là nhân của đại Niết Bàn. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là nhân của Niết Bàn chẳng phải nhân của đại Niết Bàn. Vô lượng vô số pháp trợ bồ đề mới được gọi là nhân của Đại Niết Bàn."
(Hán Bộ quyển thứ 22)
Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạchh Phật: "Thế Tôn! Tại sao bố thí chẳng được gọi là đàn-ba-la-mật? Bố thí nào mới được gọi là đàn-ba-la-mật, nhẫn đến bát-nhã ba-la-mật? Thế nào gọi là Niết Bàn và đại Niết Bàn?"
Phật nói: "Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát tu hành đại thừa phương đẳng Đại Niết Bàn, chẳng nghe bố thí cũng chẳng thấy bố thí. Chẳng nghe đàn-ba-la-mật cũng như chẳng thấy nhẫn đến chẳng nghe Bát Nhã, chẳng thấy Bát Nhã, cũng chẳng nghe chẳng thấy bát-nhã ba-la-mật. Chẳng nghe chẳng thấy Niết Bàn và Đại Niết Bàn.
Đại Bồ Tát tu Đại Niết Bàn, biết và thấy pháp giới, hiểu rõ thật tướng không có tất cả tướng: Không có tướng hòa hiệp giác tri, đặng tướng vô lậu, tướng vô tác, tướng như huyễn hóa, tướng ánh nắng, tướng thành Càn Thát Bà, tướng trống không. Bồ Tát thấy được những tướng như vậy thời không tham, sân, si, chẳng nghe chẳng thấy. Đây gọi là Đại Bồ Tát an trụ thật tướng.
Đại Bồ Tát tự biết đây là bố thí, đây là đàn-ba-la-mật nhẫn đến đây là bát-nhã, đây là bát-nhã ba-la-mật, đây là Niết Bàn, đây là đại Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Thế nào là bố thí mà chẳng phải ba-la-mật? Thấy có người xin rồi sau mới cho, đây là bố thí chẳng phải ba-la-mật. Nếu không người xin tâm tự thí xả, thời gọi là đàn-ba-la-mật. Nếu bố thí có thời gian thời gọi là bố thí chẳng ba-la-mật. Nếu thường thực hành bố thí thời gọi là đàn-ba-la-mật, nếu bố thí rồi trở lại sanh lòng hối hận đây gọi là bố thí chẳng ba-la-mật. Thí rồi chẳng ăn năn thời gọi là đàn-ba-la-mật.
Đại Bồ Tát đối với của cải có bốn quan niệm lo sợ: Một là vua quan tịch thu, hai là trộm cướp, ba là nước lụt, bốn là lửa cháy, do đó nên vui vẻ đem bố thí, đây gọi là đàn-ba-la-mật, nếu mong được báo đền mà bố thí thời chẳng phải ba-la-mật. Bố thí chẳng mong báo đền thời gọi là đàn-ba-la-mật.
Nếu vì kinh sợ, vì tiếng tăm lợi lộc, vì gia pháp tương truyền, vì cầu vui cõi trời, vì kiêu mạn, vì hơn người, vì quen thân, vì cầu báo đền thời như là buôn bán đổi chác, như người trồng cây để được bóng mát, được bông, trái, hoặc để được cây gỗ. Nếu người tu hành mà bố thí như vậy thời gọi là bố thí chẳng phải ba-la-mật.
Đại Bồ Tát tu hành phương đẳng đại Niết Bàn, chẳng thấy người bố thí cũng như chẳng thấy kẻ lãnh thọ và của cải, chẳng thấy thời tiết, chẳng thấy phước điền hay chẳng phải phước điền, chẳng thấy nhân duyên, quả báo, chẳng thấy người làm kẻ thọ, chẳng thấy nhiều hay ít, tịnh hay bất tịnh, chẳng khinh người lãnh thọ cũng như chẳng khinh thân mình hay của cải, chẳng để ý người ngó thấy hay không ngó thấy, chẳng chấp mình cùng người chỉ vì pháp thường trụ phương đẳng đại Niết Bàn mà thực hành bố thí, chỉ vì lợi ích tất cả chúng sanh mà thực hành bố thí, vì dứt tất cả phiền não cho chúng sanh mà thực hành bố thí, chỉ vì chúng sanh nên chẳng thấy người thí kẻ thọ cùng của cải mà thực hành bố thí.
Ví như có người té xuống biển lớn, ôm lấy tử thi mà được thoát nạn, Đại Bồ Tát tu đại Niết Bàn lúc thực hành bố thí cũng như ôm lấy tử thi để được vào bờ.
Ví như có người nhốt trong ngục kín, cửa nẻo đều đóng chặt, chỉ có lỗ cầu xí, bèn do nơi đó chui ra mà được thong thả, Đại Bồ Tát tu hành đại Niết Bàn lúc thực hành bố thí cũng như vậy.
Ví như người sang quý phải nạn gấp kinh sợ không có chỗ dựa nương, bèn nương nhờ Chiên Đà La. Đại Bồ Tát tu đại Niết Bàn thực hành bố thí cũng như vậy.
Ví như người bệnh nặng, vì muốn được lành mạnh nên uống chất thuốc dơ. Đại Bồ Tát tu đại Niết Bàn thực hành bố thí cũng như vậy.
Như Bà La Môn gặp lúc mất mùa đói khát vì mạng sống nên ăn thịt chó. Đại Bồ Tát tu đại Niết Bàn thực hành bố thí cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Trong Đại Niết Bàn những việc như vậy, từ vô lượng kiếp đến nay chẳng nghe mà được nghe. Giới luật cùng thi-la ba-la-mật nhẫn đến bát-nhã cùng bát-nhã ba-la-mật, như trong kinh Tạp Hoa đức Phật đã giảng rộng.
Này thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát tu Đại Niết Bàn chẳng nghe mà được nghe? Mười hai bộ kinh nghĩa lý thâm thúy từ trước chẳng nghe, nay nhân kinh này mà được nghe đầy đủ. Trước dầu được nghe nhưng chỉ nghe danh tự, nay ở kinh này mới đặng nghe nghĩa lý. Thanh Văn Duyên Giác chỉ nghe danh tự của mười hai bộ kinh mà chẳng nghe nghĩa lý, nay ở kinh này được nghe đầy đủ. Đây gọi là chẳng nghe mà được nghe.
Trong tất cả kinh của Thanh Văn Duyên Giác chẳng nghe đức Phật có thường, lạc, ngã, tịnh, chẳng rốt ráo nhập diệt, Tam Bảo và Phật tánh không có tướng sai khác, người phạm bốn trọng tội, hủy báng kinh điển đại thừa, tạo tội ngũ nghịch và nhất-xiển-đề, tất cả đều có Phật tánh. Nay ở kinh này mà đặng nghe đó, đây gọi là chẳng nghe mà được nghe."
Cao Quý Đức Vương Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Nếu nhất-xiển-đề v.v… mà có Phật tánh, tại sao bọn họ lại đọa địa ngục?
Bạch Thế Tôn! Giả sử bọn họ có Phật tánh, sao lại nói là không có thường, lạc, ngã, tịnh?
Nếu dứt căn lành gọi là nhất-xiển-đề, lúc dứt căn lành tại sao Phật tánh lại chẳng dứt? Phật tánh nếu dứt sao lại nói rằng thường, lạc, ngã, tịnh? Như Phật tánh chẳng dứt sao lại gọi là nhất-xiển-đề?
Bạch Thế Tôn! Phạm bốn tội nặng gọi là bất định, hủy báng kinh đại thừa, tạo tội ngũ nghịch cùng nhất-xiển-đề đều gọi là bất định. Những hạng này nếu quyết định làm sao đặng thành vô thượng bồ đề. Tu Đà Hoàn nhẫn đến Bích Chi Phật cũng gọi là bất định, vì nếu quyết định lẽ ra Tu Đà Hoàn nhẫn đến Bích Chi Phật đều chẳng được thành Vô Thượng Bồ Đề.
Bạch Thế Tôn! Nếu phạm bốn tội nặng là chẳng quyết định, thời Tu Đà Hoàn nhẫn đến Bích Chi Phật cũng là chẳng quyết định, chư Phật Như Lai cũng lại chẳng quyết định. Như thế, thể tánh Niết Bàn cũng lại chẳng quyết định, tất cả pháp cũng chẳng quyết định. Tại sao chẳng quyết định gọi là nhất-xiển-đề. Trừ nhất-xiển-đề thời thành Phật đạo. Chư Phật Như Lai lẽ ra cũng như vậy, nhập Niết Bàn rồi đáng lẽ cũng lại trở ra chẳng nhập Niết Bàn. Nếu như vậy thời tánh Niết Bàn cũng là chẳng nhất định. Vì chẳng nhất định nên biết chẳng có thường, lạc, ngã, tịnh. Sao lại nói rằng: nhất-xiển-đề v.v… sẽ đặng Niết Bàn?"
Đức Phật nói: "Lành thay! Lành thay! Ông vì muốn lợi ích an lạc chúng sanh, vì lòng từ bi xót thương thế gian, vì muốn sách tấn các Bồ Tát phát Bồ Đề tâm, nên hỏi Phật những điều như vậy.
Ông đã gần gũi vô lượng chư Phật quá khứ trồng những căn lành, từ lâu đã thành tựu công đức bồ đề hàng phục các loài ma, đã giáo hóa vô lượng vô biên chúng sanh đưa họ đến vô thượng chánh giác, từ lâu đã thông đạt tạng thâm mật của Như Lai, đã từng đem những nghĩa thâm mật như trên thưa hỏi hằng-hà-sa chư Phật thuở quá khứ. Tất cả thế gian, hoặc người, hoặc trời, hoặc Sa Môn, hoặc Bà La Môn, hoặc Ma Vương, Phạm Vương, ta đều không thấy ai có thể hỏi được như vậy. Ông nên thành tâm lóng nghe.
Này thiện nam tử! Nhất-xiển-đề cũng chẳng nhất định. Vì nếu nhất định thời nhất-xiển-đề trọn không thể thành vô thượng chánh giác. Vì chẳng nhất định nên có thể đặng thành.
Như ông hỏi: Phật tánh chẳng dứt, sao nhất-xiển-đề lại dứt căn lành?
Này thiện nam tử! Căn lành có hai thứ: trong và ngoài. Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, nên chẳng dứt.
Căn lành lại có hai thứ: hữu lậu và vô lậu, Phật tánh chẳng phải hữu lậu vô lậu nên chẳng dứt.
Lại có hai thứ căn lành: Thường và vô thường. Phật tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường nên chẳng dứt.
Nếu là những thứ bị dứt, thời trở lại đặng. Nếu chẳng trở lại đặng thời gọi là chẳng dứt. Nếu dứt rồi trở lại đặng thời gọi là nhất-xiển-đề. Phạm bốn tội nặng, hủy báng đại thừa, tạo tội ngũ nghịch cũng chẳng nhất định như vậy. Vì nếu nhất định thời những hạng này trọn chẳng thể đặng thành vô thượng bồ đề.
Sắc cùng tướng của sắc, hương, vị, xúc, sanh đến vô minh, ấm, nhập, giới, hai mươi lăm cõi, bốn loài sanh, tất cả pháp cũng đều không có tướng nhất định.
Ví như nhà ảo thuật ở trong đại chúng biến hóa làm quân lính, chuỗi ngọc, đồ trang sức, xóm làng, thành ấp, rừng cây, suối, ao, sông, giếng. Trong đại chúng có bọn trẻ thơ vì không đủ trí, nên lúc xem coi cho đó là thiệt. Người trí biết đó là hư dối, do sức ảo thuật làm lầm mắt người.
Tất cả phàm phu nhẫn đến Thanh Văn Bích Chi Phật, đối với tất cả pháp thấy có tướng nhất định. Chư Phật Bồ Tát đối với tất cả pháp chẳng thấy tướng nhất định.
Ví như mùa hạ thấy ánh nắng dợn, trẻ thơ cho là nước. Người trí trọn chẳng nhận là nước thiệt, chỉ là ánh nắng gợn làm lầm mắt người.
Tất cả phàm phu Thanh Văn Duyên Giác thấy tất cả pháp cho là thật. Chư Phật Bồ Tát chẳng thấy có tướng nhất định.
Ví như khe núi, do tiếng mà có vang. Trẻ thơ cho là thiệt tiếng. Người trí hiểu là không thật, chỉ có tướng tiếng phỉnh dối nơi nhĩ thức.
Tất cả phàm phu Thanh Văn Duyên Giác đối với tất cả pháp thấy có tướng nhất định. Chư Phật Bồ Tát hiểu rõ đều không tướng nhất định, thấy là tướng vô thường, tướng không tịch, tướng không sanh diệt. Do nghĩa này, đại Bồ Tát thấy tất cả pháp là tướng vô thường.
Này thiện nam tử! Cũng có định tướng, chính là thường, lạc, ngã, tịnh nơi quả đại Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Quả Tu Đà Hoàn cũng chẳng quyết định, vì chẳng quyết định nên trải qua tám muôn kiếp đặng vô thượng chánh giác. Quả Tư Đà Hàm cũng chẳng quyết định, vì trải qua sáu muôn kiếp đặng vô thượng chánh giác. Quả A Na Hàm cũng chẳng quyết định, vì trải qua bốn muôn kiếp đặng vô thượng chánh giác. Quả A La Hán cũng chẳng quyết định, vì trải qua hai muôn kiếp đặng vô thượng chánh giác.
Bích Chi Phật cũng chẳng quyết định, vì trải qua mười ngàn kiếp đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Này thiện nam tử! Hôm nay Như Lai ở trong rừng Ta La Song Thọ nơi thành Câu Thi Na, thị hiện nằm dựa trên giường sư tử sắp nhập Niết Bàn, làm cho chúng đệ tử chưa chứng quả A La Hán cùng các lực sĩ rất lo rầu, cũng làm cho trời, người, A Tu La, Càn Thát Bà, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già v.v… thần thiết đồ cúng dường. Muốn khiến mọi người dùng ngàn bức vải lông vấn thân Như Lai, bảy báu làm quan tài, đựng đầy dầu thơm, chất những gỗ thơm để thiêu đó. Chỉ trừ hai thứ chẳng thể cháy được: một là y lót mình, hai là lớp vải vấn phía ngoài hết. Vì chúng sanh nên phân chia Xá Lợi làm tám phần.
Tất cả hàng Thanh Văn đệ tử đều cho rằng đức Như Lai nhập Niết Bàn. Phải biết đức Như Lai cũng chẳng quyết định rốt ráo nhập Niết Bàn, vì đức Như Lai thường trụ chẳng biến đổi. Do nghĩa này nên đức Như Lai nhập Niết Bàn cũng chẳng nhất định.
Này thiện nam tử! Nên biết Như Lai cũng chẳng quyết định. Như Lai chẳng phải Thiên. Có bốn hạng thiên: Một là thế gian thiên, hai là sanh thiên, ba là tịnh thiên, bốn là nghĩa thiên.
Thế gian thiên, lệ như các vị quốc vương. Từ Tứ Thiên Vương nhẫn đến trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng gọi là sanh thiên. Từ Tu Đà Hoàn đến Bích Chi Phật gọi là tịnh thiên. Thập trụ Bồ Tát v.v… gọi là nghĩa thiên vì có thể hiểu rõ nghĩa của các pháp, chính là thấy nghĩa không của tất cả các pháp.
Này thiện nam tử! Như Lai chẳng phải Quốc Vương, chẳng phải Tứ Thiên Vương nhẫn đến trời Phi Phi Tưởng, cũng chẳng phải Tu Đà Hoàn, Bích Chi Phật, Thập trụ Bồ Tát. Do đây nên Như Lai chẳng phải Thiên. Mặc dù như vậy, nhưng chúng sanh cũng gọi Phật là Thiên Trung Thiên. Vì thế nên Như Lai chẳng phải là Thiên cũng chẳng phải là chẳng phải Thiên, chẳng phải là người cũng chẳng phải là chẳng phải người, chẳng phải là quỷ cũng chẳng phải chẳng phải quỷ, chẳng phải là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, cũng chẳng phải là chẳng phải địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, chẳng phải là chúng sanh cũng chẳng phải là chẳng phải chúng sanh, chẳng phải pháp cũng chẳng phải là chẳng phải pháp, chẳng phải là sắc cũng chẳng phải là chẳng phải sắc, chẳng phải là dài, vắn cũng chẳng phải là chẳng phải dài, vắn. Chẳng phải là tướng cũng chẳng phải là chẳng phải tướng, chẳng phải là tâm cũng chẳng phải là chẳng phải tâm, chẳng phải là hữu lậu, chẳng phải là vô lậu, chẳng phải là hữu vi, chẳng phải là vô vi, chẳng phải là thường, chẳng phải là vô thường, chẳng phải là huyễn hóa cũng chẳng phải là chẳng phải huyễn hóa, chẳng phải là danh cũng chẳng phải là chẳng phải danh, chẳng phải là định cũng chẳng phải là chẳng phải định, chẳng phải có không cũng chẳng phải là chẳng phải có không, chẳng phải ngôn thuyết cũng chẳng phải là chẳng phải ngôn thuyết, chẳng phải Như Lai cũng chẳng phải là chẳng phải Như Lai. Do nghĩa này nên Như Lai chẳng quyết định.
Này thiện nam tử! Cớ sao Như Lai chẳng gọi là thế gian Thiên? Thế gian Thiên chính là các vị quốc vương. Đức Như Lai từ vô lượng kiếp đã bỏ ngôi quốc vương cho nên Như Lai chẳng phải là quốc vương. Như Lai giáng sanh nơi nhà vua Tịnh Phạn tại thành Ca Tỳ La Vệ, nên Như Lai chẳng phải là chẳng phải quốc vương.
Như Lai từ lâu đã lìa khỏi các cõi, nên chẳng phải là sanh thiên. Như Lai lên trời Đâu Suất xuống Diêm Phù Đề, nên chẳng phải là chẳng phải sanh thiên.
Như Lai chẳng phải Tu Đà Hoàn nhẫn đến Bích Chi Phật, nên Như Lai chẳng phải là tịnh thiên.
Tám pháp trong đời chẳng ô nhiễm được, dường như Liên Hoa chẳng dính bụi, nước, nên Như Lai chẳng phải là chẳng phải tịnh thiên.
Như Lai chẳng phải là Thập trụ Bồ tát, nên Như Lai chẳng phải là nghĩa thiên. Như Lai thường tu mười tám nghĩa không, nên Như Lai chẳng phải là chẳng phải nghĩa thiên.
Như Lai chẳng phải là người vì Như Lai từ vô lượng kiếp đã lìa quả báo người. Như Lai giáng sinh tại thành Ca Tỳ La nên chẳng phải là chẳng phải người.
Như Lai chẳng phải là quỷ vì chẳng hại tất cả chúng sanh. Như Lai cũng dùng thân quỷ để hóa độ chúng sanh nên chẳng phải là chẳng phải quỷ.
Như Lai chẳng phải là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ vì từ lâu đã lìa ác nghiệp, cũng hiện thọ thân trong ác đạo để giáo hóa chúng sanh nên Như Lai chẳng phải là chẳng phải địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ.
Như Lai chẳng phải là chúng sanh vì từ lâu đã lìa tánh chúng sanh.
Có lúc Như Lai diễn thuyết chúng sanh, nên cũng chẳng phải là chẳng phải chúng sanh.
Các pháp mỗi mỗi đều có tướng sai khác, Như Lai chỉ có một tướng, nên chẳng phải là pháp. Như Lai là pháp giới nên cũng chẳng phải là chẳng phải pháp.
Như Lai chẳng nhiếp trong mười sắc pháp, nên chẳng phải là sắc.
Thân Như Lai có ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp, nên chẳng phải là chẳng phải sắc.
Vì dứt tất cả sắc nên Như Lai chẳng phải là cao. Tất cả thế gian không ai thấy được đỉnh đầu của Như Lai, nên chẳng phải là chẳng phải cao.
Từ lâu đã xa lìa kiêu mạn, nên Như Lai chẳng phải là thấp. Vì độ Trưởng giả Cù Sư La, Như Lai hiện thân ba thước, nên chẳng phải là chẳng phải thấp.
Từ lâu đã xa lìa các hình tướng, nên Như Lai chẳng phải là tướng. Như Lai biết rành tất cả tướng, nên chẳng phải là chẳng phải tướng.
Như Lai rỗng rang như hư không, nên chẳng phải là tâm. Vì Như Lai có mười tâm trí lực, cũng có thể rõ biết tâm của chúng sanh, nên cũng chẳng phải là chẳng phải tâm.
No comments:
Post a Comment