Này thiện nam tử! Lúc đó thiệt ra ta không đem thuốc đến thành Ba La Nại đắp cho cô Ma Ha Tư Na Đạt Đa, nên biết đó là do sức căn lành của lòng từ khiến cô Ưu Bà Di ấy thấy những việc như vậy.
Này thiện nam tử! Ông Điều Đạt tham uống quá nhiều chất tô, nên nhức đầu đau bụng. Quá khốn khổ chịu không nổi, ông liền niệm: Nam mô Phật! Nam mô Phật!
Bấy giờ ta đương ở tại thành Ưu Thiền Ni, nghe tiếng niệm động lòng đại từ.
Điều Đạt liền thấy ta đem thuốc đến cho uống, cùng dùng tay xoa đầu xoa bụng, do đó ông được hết bệnh.
Này thiện nam tử! Thiệt ra ta không có đến chỗ Điều Đạt để xoa đầu xoa bụng và cho ông ấy uống thuốc. Đó là do sức căn lành của lòng từ khiến ông Điều Đạt thấy việc như vậy.
Này thiện nam tử! Nước Kiều Tát La có đảng cướp năm trăm người, lộng hành làm hại dân chúng, vua Ba Tư Nặc sai binh vây đánh bắt sống được trọn đảng cướp. Vua truyền khoét mắt cả năm trăm tên cướp rồi thả trong rừng sâu.
Đảng cướp này đã từng gieo trồng căn lành nơi chư Phật thuở quá khứ, nên khi đau đớn khốn khổ quá bèn đồng xướng rằng: Nam mô Phật! Nam mô Phật! Chúng con nay không người cứu hộ. Cùng nhau khóc than thê thảm.
Bấy giờ ta đương ở tại Kỳ Hoàn tịnh xá, nghe tiếng kêu cầu, động lòng đại từ. Lúc đó có gió mát thổi chất thuốc từ núi hương sơn đến tụ đầy lỗ mắt của năm trăm người, biến thành tròng mắt, bọn họ đều được thấy tỏ như xưa. Mở mắt ra bọn họ thấy đức Như Lai đứng trước mặt họ giảng pháp yếu. Sau khi nghe pháp, cả bọn đều phát tâm vô thượng bồ đề.
Này thiện nam tử! Lúc đó thiệt ra ta không làm gió thổi thuốc đến cứu mắt họ cũng không có đến thuyết pháp cho họ. Đó là do sức căn lành của lòng từ, khiến họ thấy những việc như vậy.
Này thiện nam tử! Vì ngu si, Thái tử Lưu Ly phế Phục Vương lập mình làm vua, lại nhớ đến sự hiển oán ngày trước giết hại dòng họ Thích. Vua Lưu Ly bắt hai ngàn phụ nữ họ Thích cắt tai xẻo mũi, chặt đứt tay chân, rồi bỏ xuống hầm. Các phụ nữ họ Thích quá đau khổ bèn niệm rằng: Nam mô Phật! Nam mô Phật! Chúng tôi ngày nay không ai cứu vớt. Cùng nhau khóc than thê thảm.
Các phụ nữ này đã từng trồng căn lành nơi chư Phật thuở quá khứ.
Lúc đó ta ở tại Trúc Lâm Tịnh Xá nghe tiếng than của họ liền sanh lòng từ. Các phụ nữ khốn nạn kia bèn thấy ta đến thành Ca Tỳ La, lấy nước rửa vết thương cho họ rồi dùng thuốc đắp lên vết thương. Họ không còn đau nhức. Lỗ tai lỗ mũi và tay chân lành lại như cũ. Ta liền vì họ giảng nói pháp yếu. Vừa hết đau khổ lại được nghe pháp, các phụ nữ ấy đều phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Sau đó các phụ nữ ấy đến nơi bà Đại Ái Đạo Tỳ Kheo Ni xuất gia thọ giới cụ-túc.
Này thiện nam tử! Thật ra lúc đó đức Phật không có đến thành Ca Tỳ La, cũng không có lấy nước rửa và đắp thuốc nơi vết thương. Phải biết đều là do sức căn lành của lòng từ làm cho các phụ nữ kia thấy những việc như vậy.
Như căn lành của lòng từ, lòng bi, lòng hỷ cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên đại Bồ Tát tu tập lòng từ là chân thật chẳng phải hư vọng.
Này thiện nam tử! Luận về vô lượng là chẳng thể nghĩ bàn. Công hạnh của Bồ Tát cũng chẳng thể nghĩ bàn, công hạnh của Phật và kinh Đại thừa Đại Niết Bàn cũng đều chẳng thể nghĩ bàn.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát tu từ, bi, hỷ rồi đặng trụ nơi bậc rất yêu thương con một.
Này thiện nam tử! Thế nào là "bậc"? Sao gọi là "rất yêu thương". Và sao gọi là "con một"?
Này thiện nam tử! Ví như cha mẹ thấy con an ổn lòng rất vui mừng. Đại Bồ Tát ở bậc này xem các chúng sanh đồng như con một, thấy người tu hạnh lành Bồ Tát rất vui mừng, vì thế nên bậc này gọi là "rất yêu thương".
Này thiện nam tử! Ví như cha mẹ thấy con đau ốm lòng rất khổ não xót thương, săn sóc không tạm rời. Cũng vậy, đại Bồ Tát ở trong bậc này thấy các chúng sanh bị bệnh phiền não ràng buộc bức khổ, trong lòng rầu lo thương tưởng như con, đến nỗi lỗ chân lông nơi thân đều rỉ máu ra. Vì thế nên gọi bậc này là "con một".
Này thiện nam tử! Như người lúc bé thơ lượm đất cục, ngói đá, xương khô, nhánh cây đút vào miệng. Cha mẹ xem thấy sợ bị hại, tay tả nắm đầu con, tay hữu móc ra. Cũng vậy, đại Bồ Tát trụ nơi bậc này thấy các chúng sanh pháp thân chưa tăng trưởng, hoặc thân khẩu ý tạo nghiệp chẳng lành. Bồ Tát bèn lấy "tay" trí huệ cứu vớt đó, chẳng muốn chúng sanh lưu chuyển trong sanh tử mà phải thọ những khổ não. Vì thế nên bậc này lại gọi là "con một".
Này thiện nam tử! Ví như đứa con thân yêu chết mất, thời cha mẹ buồn rầu muốn cùng chết theo con. Cũng vậy, đại Bồ Tát thấy hạng nhất-xiển-đề đọa nơi địa ngục, cũng nguyện cùng họ sanh chung trong địa ngục. Vì hạng nhất-xiển-đề này lúc bị khổ, hoặc sanh một niệm ăn năn chừa cải, Bồ Tát sẽ vì họ thuyết pháp làm cho họ sanh đặng một niệm căn lành. Vì thế nên bậc này gọi là "con một".
Này thiện nam tử! Ví như cha mẹ chỉ có một đứa con, lúc đứa con ngủ, thức, đi, đứng, ngồi, nằm, lòng cha mẹ luôn luôn nhớ tưởng. Nếu con có lỗi lầm cha mẹ chỉ thương xót dạy dỗ chớ chẳng làm hại. Cũng vậy, đại Bồ Tát thấy các chúng sanh hoặc bị đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, hoặc sanh trong loài người, trên trời, gây tạo những nghiệp lành nghiệp dữ, lòng Bồ Tát thường nhớ tưởng trọn không rời bỏ chúng sanh. Nếu có chúng sanh tạo ác, Bồ Tát trọn chẳng giận hờn, chẳng làm hại. Vì thế nên bậc này gọi là "con một".
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Như lời Phật đã nói ý rất sâu kín, nay tôi trí cạn cợt làm sao hiểu được. Nếu các vị đại Bồ Tát trụ nơi bậc "con một" có thể được như thế, tại sao đức Như Lai xưa kia là vị quốc vương thực hành đạo Bồ Tát mà lại giết hại dòng Bà La Môn. Nếu đặng bậc này thời lẽ ra phải xót thương ủng hộ, còn nếu chẳng đặng bậc này, nhân duyên gì lại chẳng đọa vào địa ngục?
Nếu bình đẳng xem tất cả chúng sanh là con như La Hầu La, cớ sao đức Phật lại quở Đề Bà Đạt Đa: đồ ngu si không biết hổ thẹn ăn nước miếng nước mũi của người. Làm cho Đề Bà Đạt Đa sanh lòng giận hờn hại thân Phật ra máu. Đề Bà Đạt Đa tạo nghiệp ác này rồi, đức Như Lai lại huyền ký cho ông ấy sẽ bị đọa địa ngục chịu khổ một kiếp.
Thế Tôn! Những lời như vậy làm thế nào chẳng trái nghịch với nghĩa lý.
Thế Tôn! Ông Tu Bồ Đề trụ bậc giải không, lúc muốn vào thành khất thực, trước hết ông quan sát nếu có người đối với ông sanh tâm ganh ghét thời ông thôi chẳng đi khất thực, dầu cho quá đói ông vẫn chẳng đi. Vì ông Tu Bồ Đề thường nghĩ rằng: Tôi tự nhớ đời trước đối với phước điền sanh một niệm ác, do nhân duyên này tôi bị đọa địa ngục lớn chịu nhiều thống khổ. Nay tôi thà đói trọn ngày chẳng ăn, quyết không khiến những người kia vì ganh ghét tôi mà phải đọa vào địa ngục chịu khổ. Ông Tu Bồ Đề lại nghĩ rằng: nếu có chúng sanh không bằng lòng cho tôi đứng, tôi sẽ trọn ngày ngồi yên chẳng đứng dậy. Nếu có chúng sanh không bằng lòng cho tôi ngồi, tôi sẽ đứng trọn ngày chẳng dời chỗ. Đi cùng nằm cũng vậy.
Ông Tu Bồ Đề vì hộ chúng sanh còn có tâm như vậy, hà huống là đại Bồ Tát. Bồ Tát nếu đặng bậc "con một", có duyên cớ gì mà đức Như Lai nói ra lời thô như vậy làm cho ông Đề Bà Đạt Đa sanh lòng giận ác?"
- "Này thiện nam tử! Nay ông chẳng nên gạn như vậy. Chẳng nên nói rằng đức Như Lai làm nhân duyên phiền não cho chúng sanh. Giả sử vòi con muỗi có thể hút hết nước đáy biển, đức Như Lai trọn chẳng làm nhân duyên phiền não cho chúng sanh. Giả sử mặt đất đều không màu, nước thành tướng khô, lửa thành lạnh, gió đứng lại, giả sử Tam Bảo, Phật tánh nhẫn đến hư không thành tướng vô thường, đức Như Lai cũng trọn chẳng làm nhân duyên phiền não cho chúng sanh. Giả sử người phạm bốn tội nặng, hạng nhất-xiển-đề hủy báng chánh pháp hiện thân đặng thành mười trí lực, bốn vô úy, ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tốt, đức Như Lai trọn chẳng làm nhân duyên phiền não cho chúng sanh. Giả sử hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật là thường trụ chẳng biến đổi, đức Như Lai trọn chẳng làm nhân duyên phiền não cho chúng sanh.
Giả sử bậc thập trụ Bồ Tát phạm bốn tội nặng làm nhất-xiển-đề hủy báng chánh pháp, đức Như Lai trọn chẳng làm nhân duyên phiền não cho chúng sanh.
Giả sử vô lượng chúng sanh dứt mất Phật tánh, chư Phật rốt ráo nhập Niết Bàn, đức Như Lai cũng trọn chẳng làm nhân duyên phiền não cho chúng sanh.
Giả sử vãi chài có thể cột trói được gió, răng có thể nhai nát sắt, móng tay cào đổ núi Tu Di, đức Như Lai trọn chẳng làm nhân duyên phiền não cho chúng sanh.
Thà ở chung với rắn độc, đút hai tay vào miệng sư tử đói, lấy than hồng dùng tắm rửa, trọn chẳng nên nói rằng đức Như Lai làm nhân duyên phiền não cho chúng sanh.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai thiệt có thể làm cho chúng sanh dứt trừ phiền não, chớ trọn chẳng làm nhân duyên sanh phiền não.
Này thiện nam tử! Như ông vừa nói đức Như Lai ngày xưa giết dòng Bà La Môn. Nên biết đại Bồ Tát còn không cố sát một con kiến, huống lại giết Bà La Môn. Bồ Tát thường dùng mọi cách thức ban bố vô lượng thọ mạng cho chúng sanh. Luận về bố thí thời là bố thí mạng sống, vật thực, đại Bồ Tát lúc thực hành đàn-ba-la-mật, thường ban bố vô lượng thọ mạng cho chúng sanh. Người giữ giới bất sát thời đặng sống lâu.
Đại Bồ Tát lúc thực hành thi-la-ba-la-mật (trì giới), thời là ban bố vô lượng thọ mạng cho tất cả chúng sanh.
Này thiện nam tử! Giữ gìn miệng không lỗi thời đặng sống lâu.
Đại Bồ Tát lúc thực hành sằn-đề (nhẫn nhục) ba-la-mật, thường khuyên chúng sanh chớ ôm lòng oán thù những việc phải cho người đem sự quấy về mình, không cãi cọ kiện cáo thời đặng sống lâu. Vì thế nên Bồ Tát lúc thực hành sằn-đề ba-la-mật, thời đã ban bố vô lượng thọ mạng cho chúng sanh.
Này thiện nam tử! Siêng năng tu tập hạnh lành thời đặng sống lâu, đại Bồ Tát lúc thực hành tỳ-lê-da (tinh tấn) ba-la-mật thường khuyên chúng sanh siêng tu pháp lành, chúng sanh thực hành rồi đặng sống lâu vô lượng. Vì thế nên đại Bồ Tát lúc thực hành tỳ-dê-la ba-la-mật đã ban bố vô lượng thọ mạng cho chúng sanh.
Này thiện nam tử! Người nhiếp tâm tu thiền thời đặng sống lâu. Đại Bồ Tát lúc thực hành thiền ba-la-mật, khuyên các chúng sanh tu tâm bình đẳng. Chúng sanh thực hành rồi thì đặng sống lâu. Vì thế nên Bồ Tát lúc thực hành thiền ba-la-mật đã ban bố cho chúng sanh vô lượng thọ mạng.
Này thiện nam tử! Ở nơi những pháp lành, người không phóng dật thời đặng sống lâu. Đại Bồ Tát lúc thực hành bát-nhã (trí tuệ) ba-la-mật, khuyên các chúng sanh nơi các pháp lành chẳng sanh lòng phóng dật. Chúng sanh thực hành rồi thời đặng sống lâu. Vì thế nên lúc Bồ Tát thực hành bát-nhã ba-la-mật đã ban bố vô lượng thọ mạng cho chúng sanh.
Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên đại Bồ Tát trọn không giết hại mạng sống của chúng sanh.
Này thiện nam tử! Như vừa rồi ông hỏi, lúc giết hại dòng Bà La Môn, đức Phật đã đặng được bậc "con một" (chưa)?
Này thiện nam tử! Lúc đó ta đã đặng bậc ấy. Vì lòng thương họ mà giết chẳng phải vì tâm ác.
Này thiện nam tử! Ví như cha mẹ chỉ có một đứa con nên rất cưng yêu, đứa con phạm hiến pháp của quan. Vì quá sợ nên cha mẹ hoặc đuổi hoặc giết. Dầu cha mẹ đuổi hay giết nhưng không có tâm ác.
Cũng vậy, đại Bồ Tát vì hộ trì chánh pháp nếu có chúng sanh hủy báng đại thừa, liền lấy roi gậy để trị, hoặc giết chết, đó là muốn chúng sanh chừa bỏ để tu pháp lành.
Bồ Tát thường nên suy nghĩ: dùng nhân duyên gì làm cho chúng sanh phát khởi lòng tin thanh tịnh, tùy phương cách nào thuận tiện thời sẽ thực hành đó. Những người Bà La Môn sau khi chết đọa A Tỳ địa ngục liền suy nghĩ ba điều: một là tự nghĩ rằng ta từ đâu mà sanh đến đây, liền tự biết rằng từ trong loài người. Hai là tự nghĩ rằng: ta hiện sanh đây là chỗ nào, liền tự biết rằng là địa ngục A Tỳ. Ba là tự nghĩ rằng do nghiệp duyên gì mà đọa địa ngục và tự biết rằng do chẳng tin và hủy báng kinh điển Đại thừa, bị nhà vua giết mà sanh đến địa ngục này. Họ nghĩ như vậy rồi liền sanh lòng kính tin kinh điển đại thừa. Do lòng kính tin đó thân địa ngục chết họ sanh đến thế giới của Cam Lồ Cổ Như Lai, sống lâu đủ mười kiếp.
Này thiện nam tử! Do nghĩa này, thuở xưa kia ta ban cho những người ấy mười kiếp thọ mạng, sao lại giết hại họ.
Này thiện nam tử! Có người đào đất, cắt cỏ, đốn cây, chặt tử thi, mắng chửi, đánh đập tử thi, do nghiệp duyên này có bị đọa địa ngục chăng?"
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Như tôi hiểu nghĩa của Phật nói kẻ đó phải đọa địa ngục. Vì cớ sao? Như ngày trước Phật nói pháp cho hàng Thanh Văn: Này các Tỳ Kheo ở nơi cây cháy rụi chớ sanh lòng ác. Vì tất cả chúng sanh do lòng ác mà phải đọa địa ngục."
Đức Phật khen Ca Diếp Bồ Tát: "Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông nói, phải khéo thọ trì.
Này thiện nam tử! Nếu nhân ác tâm phải đọa địa ngục, lúc đó Bồ Tát thiệt không ác tâm. Vì đại Bồ Tát đối với tất cả chúng sanh nhẫn đến con trùng, con kiến đều sanh lòng thương xót, muốn cho họ được lợi ích. Vì Bồ Tát khéo biết các phương tiện, các nhân duyên, do sức phương tiện muốn làm cho chúng sanh vun trồng cội lành. Do nghĩa đó, lúc ấy ta dùng phương tiện, dầu giết hại mạng họ mà chẳng phải là tâm ác.
Này thiện nam tử! Cứ theo giáo pháp Bà La Môn, cho rằng nếu giết chết kiến đầy cả mười xe không có tội báo, muỗi, ruồi, rận, rệp, mèo, chồn, sư tử, cọp, sói, gấu, những độc trùng, ác thú, và những loài có thể làm hại người: quỷ thần, La Sát, Cưu Bàn Trà, Ca La, Phú Đơn Na, điên cuồng, càn khô, có ai giết hại mạng họ đầy cả mười xe, cũng không có tội báo. Nếu giết người ác thời có tội báo. Giết rồi chẳng ăn năn thời đọa ngạ quỷ. Nếu có thể sám hối tuyệt thực ba ngày, thời tội đó tiêu diệt không còn thừa. Nếu giết Hòa Thượng, giết cha, hại mẹ, giết phụ nữ, giết bò, trâu thời phải đọa địa ngục trong vô số ngàn năm.
Này thiện nam tử! Chư Phật và Bồ Tát biết giết hại có ba hạng: hạ, trung và thượng.
Hạng hạ là trùng kiến nhẫn đến tất cả các súc sanh chỉ trừ Bồ Tát thị hiện thọ sanh. Đại Bồ Tát do nguyên lực nên thị hiện làm thân súc sanh, trừ đây ra gọi là sát sanh hạng hạ. Nghiệp duyên này sẽ phải đọa nơi địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ chịu lấy sự khổ hạng hạ. Vì những súc sanh có căn lành rất kém ít nên kẻ giết phải thọ tội báo hạng hạ.
Sát hại hạng trung là từ người phàm phu đến vị chứng quả A Na Hàm, đây gọi là hạng trung. Nghiệp duyên giết hại hạng này phải đọa nơi địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ thọ sự khổ hạng trung.
Sát sanh hạng thượng là giết cha mẹ, nhẫn đến A La Hán, Bích Chi Phật, quyết định Bồ Tát, đây gọi là hạng thượng. Nghiệp duyên giết hạng hạng này phải đọa vào trong địa ngục A Tỳ chịu lấy sự khổ hạng thượng.
Này thiện nam tử! Nếu có người giết kẻ nhất-xiển-đề, thời chẳng đọa vào trong ba hạng sát hại này.
Này thiện nam tử! Những người dòng Bà La Môn bị nhà vua giết trước kia tất cả đều là hạng nhất-xiển-đề. Thí như đào đất, cắt cỏ, đốn cây, chặt tử thi mắng nhiếc đánh đập, đều không có tội báo. Giết hại nhất-xiển-đề cũng không có tội báo như vậy . Vì những người Bà La Môn không có căn lành nhẫn đến không có năm pháp tin v.v… Vì thế nên dầu giết hại họ mà chẳng đọa địa ngục.
Này thiện nam tử! Ông trước nói rằng: Đức Như Lai cớ chi mắng Đề Bà Đạt Đa là người ngu si ăn nước miếng. Ông không nên hỏi như vậy. Vì chư Phật Thế Tôn phàm nói ra lời gì đều chẳng thể nghĩ bàn.
Này thiện nam tử! Hoặc có thiệt ngữ được người đời mến ưa nhưng phi thời, phi pháp chẳng lợi ích, những lời như vậy đức Phật trọn chẳng nói. Hoặc lại có lời thô vụng hư vọng, phi thời, phi pháp, chẳng lợi ích người nghe chẳng ưa thích, đức Phật cũng chẳng nói.
Này thiện nam tử! Nếu có những lời dầu là thô rắn nhưng chân thật chẳng hư vọng, phải thời đúng pháp có thể lợi ích cho tất cả chúng sanh, người nghe dầu chẳng vui đẹp nhưng ta cần phải nói. Vì chư Phật Thế Tôn chánh đẳng chánh giác khéo biết phương tiện.
Này thiện nam tử! Trước kia có một hôm ta đi ngang thôn Khoáng Dã, ở dưới rừng có một quỷ thần tên là Khoáng Dã. Quỷ này thuần ăn máu thịt giết hại nhiều chúng sanh. Quỷ ấy lại mỗi này ăn một người trong thôn xóm gần đó. Lúc đó ta rộng nói pháp yếu cho quỷ Khoáng Dã, nhưng quỷ ấy hung bạo ngu si chẳng lãnh thọ giáo pháp. Ta liền hóa thân ra đại lực quỷ, làm rúng động cung điện của nó. Quỷ Khoáng Dã dắt quyến thuộc và bộ hạ kéo ra muốn chống cự với ta. Chúng nó vừa thấy ta liền run sợ té xuống đất ngất xỉu như người chết. Ta dùng lòng từ bi lấy tay xoa lên mình nó. Nó tỉnh dậy nói rằng: "Hôm nay may mắn được sống lại. Vị Đại Thần Vương này có oai đức lớn, có tâm từ bi tha tội lỗi của tôi." Quỷ Khoáng Dã liền sanh tâm lành kính tin nơi ta.
Ta hiện hoàn lại thân Như Lai vì họ nói pháp yếu làm cho các quỷ thần kia thọ giới bất sát.
Chính ngày đó trong thôn Khoáng Dã có một ông trưởng giả đến phiên phải chết, người trong thôn đã đưa ông ấy giao cho quỷ Khoáng Dã. Quỷ Khoáng Dã liền đem đến cúng thí cho ta. Ta lãnh ông trưởng giả và đặt hiệu cho ông là Thủ trưởng giả.
Quỷ Khoáng Dã bạch ta rằng: "Thế Tôn! Con và quyến thuộc của con chỉ nhờ máu thịt mà đặng sống, nay thọ giới bất sát biết lấy gì để sống được?"
Ta bảo rằng: "Từ nay trở đi đức Phật sẽ bảo hàng Thanh Văn đệ tử tùy chỗ nào có Phật pháp lưu hành đều sẽ cúng thí đồ uống ăn cho nhà ngươi."
Này thiện nam tử! Do nhân duyên đó ta chế điều giới: Các Tỳ Kheo từ nay trở đi thường phải thí thực cho quỷ Khoáng Dã. Nếu người xuất gia nào chẳng cúng thí, nên biết người đó chẳng phải đệ tử Phật, chính là đồ đảng quyến thuộc của Thiên Ma.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai vì muốn điều phục chúng sanh nên thị hiện những phương tiện như vậy. Chẳng phải cố ý làm cho họ sanh lòng sợ hãi.
Cũng có một lúc ta dùng cây đánh quỷ hộ pháp.
Lại có một hôm ta đang đi trên một ngọn núi xô quỷ Dương Đầu làm nó té xuống dưới núi.
Lại một hôm nơi ngọn cây ta xô ngã quỷ Hộ Di Hầu.
Môt ngày nọ làm cho voi Hộ Tài thấy năm sư tử.
Có lúc ta sai thần Kim Cương khủng bố ngoại đạo Tát Giá Ni Kiền Tử.
Ngày kia ta cũng lấy kim đâm thân của quỷ Tiển Mao.
Dầu ta làm những việc như vậy nhưng cũng chẳng làm cho các quỷ thần kia đến phải chết. Chỉ vì muốn khiến họ an trụ nơi chánh pháp nên thị hiện những phương tiện như vậy.
Này thiện nam tử! Trước kia thiệt ra đức Phật chẳng mắng nhục Đề Bà Đạt Đa. Còn Đề Bà Đạt Đa cũng chẳng ngu si ăn nước miếng của người, cùng chẳng đọa A Tỳ địa ngục thọ tội một kiếp, cũng chẳng phá hoại chúng tăng, chẳng làm thân Phật ra máu, Đề Bà Đạt Đa cũng chẳng trái phạm bốn tội nặng, chẳng huỷ báng kinh điển đại thừa, ông ấy chẳng phải nhất-xiển-đề, chẳng phải Thanh Văn cũng chẳng phải Bích Chi Phật.
Này thiện nam tử! Đề Ba Đạt Đa thiệt chẳng phải cảnh giới Thanh Văn, Duyên Giác. Duy chư Phật thấy biết được thôi.
Này thiện nam tử! Vì thế nên nay ông chẳng nên gạn rằng: "Cớ gì đức Như Lai quở trách mắng nhiếc làm nhục Đề Bà Đạt Đa". Đối với cảnh giới của chư Phật, ông chẳng nên có lòng nghi như vậy."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Như mía nấu nhiều lần thời đặng nhiều thứ vị, tôi cũng như vậy, nghe Phật nói pháp nhiều lần đặng nhiều pháp vị. Chính là những vị: xuất gia vị, ly dục vị, tích-diệt vị, đạo vị. Thế Tôn! Như vàng ròng đốt đập nhiều lần càng thêm sáng sạch giá trị vô lượng, được trời người quý trọng. Đức Như Lai cũng vậy, trân trọng thưa hỏi liền đặng nghe thấy nghĩa rất sâu vi diệu, khiến người tu hành phụng tu thọ trì, vô lượng chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề. Do đó đức Phật được trời người tôn trọng cung kính cúng dường."
Đức Phật tán thán Ca Diếp Bồ Tát: "Lành thay! Lành thay! Đại Bồ Tát vì muốn lợi ích chúng sanh nên thưa hỏi đức Như Lai những nghĩa sâu như vậy. Do nghĩa này ta tùy theo ý của ông mà nói pháp Đại thừa Phương đẳng rất sâu, bí mật, tức là bậc rất yêu thương như con một."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Nếu Bồ Tát tu tâm từ, bi, hỷ, đặng bậc "con một", lúc tu tâm xả thời đặng bậc gì?"
Phật nói: "Lành thay! Lành thay! Ông khéo biết thời, biết ta muốn nói nên ông thưa hỏi.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát lúc tu tâm xả thời đặng bậc "bình đẳng không", như ông Tu Bồ Đề. Đại Bồ Tát trụ bậc "bình đẳng không" thời chẳng thấy có cha mẹ, anh em, chị em, họ hàng quyến thuộc, oán thù, kẻ không thân không oán, nhẫn đến chẳng thấy: ấm, giới, nhập, chúng sanh thọ mạng. Ví như hư không, không có cha mẹ, anh, em, vợ, con, nhẫn đến không có chúng sanh thọ mạng, tất cả các pháp cũng không có cha mẹ nhẫn đến thọ mạng.
Đại Bồ Tát thấy tất cả pháp cũng như vậy. Tâm của Bồ Tát bình đẳng như hư không, vì Bồ Tát khéo tu tập những pháp không."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Sao gọi là không?"
- "Này thiện nam tử! Nói là không đó: nội không, ngoại không, nội ngoại không, hữu vi không, vô vi không, vô thỉ không, tánh không, vô sở hữu không, đệ nhất nghĩa không, không không, đại không.
Đại Bồ Tát quán nội không như thế nào? Đại Bồ Tát này quán nội pháp là không, chính là không cha mẹ, kẻ oán, người thân, không oán, không thân, chúng sanh, thọ mạng, thường, lạc, ngã, tịnh, Như Lai, Pháp, Tăng, tài vật. Trong nội pháp này dầu có Phật tánh, nhưng Phật tánh này chẳng phải nội, chẳng phải ngoại. Vì Phật tánh thường trụ không biến đổi. Đây gọi là Đại Bồ Tát quán nơi nội không.
Ngoại không cũng như vậy không có ngoại pháp.
Nội ngoại không cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Chỉ có Như Lai, Pháp, Tăng, Phật tánh, chẳng ở nơi phạm vi hai thứ không. Vì bốn pháp như vậy là thường, lạc, ngã, tịnh, nên chẳng gọi là không. Đây gọi là nội và ngoại đều không.
Này thiện nam tử! Hữu vi không là các pháp hữu vi thảy đều không. Chính là nội không, ngoại không, nội ngoại không, thường, lạc, ngã, tịnh không, chúng sanh thọ mạng, Như Lai, Pháp, Tăng, đệ nhất nghĩa không. Trong đây Phật tánh chẳng phải pháp hữu vi, nên Phật tánh chẳng phải là pháp hữu vi không. Trên đây gọi là hữu vi không.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát quán vô vi không như thế nào? Pháp vô vi thảy đều là không tức là vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã, ấm, giới, nhập, chúng sanh, thọ mạng, hữu vi, hữu lậu, nội pháp, ngoại pháp. Trong pháp vô vi, Phật, Pháp v.v… bốn pháp đều chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi: vì là thiện nên chẳng phải vô vi, vì tánh thường trụ nên chẳng phải hữu vi. Đây gọi là Bồ Tát quán vô vi không.
Thế nào là Bồ Tát quán vô thỉ không? Đại Bồ Tát thấy sanh tử vô thỉ thảy đều không tịch gọi là không, đó tức là thường, lạc, ngã, tịnh, thảy đều không tịch chẳng có biến đổi. Chúng sanh thọ mạng Tam Bảo, Phật tánh và vô vi pháp cũng như vậy. Đây gọi là quán vô thỉ không.
Đại Bồ Tát quán nơi tánh không thế nào? Đại Bồ Tát này quán tất cả pháp bổn tánh đều không: Ấm, giới, nhập, thường, vô thường, khổ lạc, tịnh, bất tịnh, ngã, vô ngã. Tất cả pháp đều chẳng thấy bổn tánh, đây gọi là quán nơi tánh không.
Đại Bồ Tát quán vô sở hữu không như thế nào? Như người không con nói nhà cửa trống không, rốt ráo quán không chẳng có thân yêu. Người ngu si thời gọi là các phương không. Người nghèo cùng thời gọi là tất cả không. Những kiến chấp như vậy, hoặc không hoặc chẳng phải không. Lúc Bồ Tát quán sát như người nghèo cùng tất cả đều không. Đây gọi là Bồ Tát quán vô sở hữu không.
Đại Bồ Tát quán đệ nhất nghĩa không như thế nào? Bồ Tát lúc quán đệ nhất nghĩa, nhãn căn này lúc sanh ra không từ đâu lại, lúc nó diệt mất cũng không đi đến đâu, trước không, nay có, có rồi trở lại không suy thật tánh của nó không nhãn căn, không chủ tể. Như nhãn căn vô tánh, tất cả các pháp cũng như vậy. Những gì gọi là đệ nhất nghĩa không? Có nghiệp có báo, chẳng thấy tác giả, pháp không như vậy gọi là đệ nhất nghĩa không. Đây gọi là quán đệ nhất nghĩa không.
Đại Bồ Tát quán không-không như thế nào? Trong không-không này là chỗ mê mờ của Thanh Văn và Bích Chi Phật.
Này thiện nam tử! Là có, là không, đây gọi là không-không. Là phải là chẳng phải đây gọi là không-không.
Này thiện nam tử! Bậc thập trụ Bồ Tát còn ở trong đây thông đạt được phần ít như vi trần, huống là những người khác. Không-không như vậy cũng chẳng đồng không-không tam muội của Thanh Văn chứng đặng. Đây gọi là Bồ Tát quán nơi không-không.
Đại Bồ Tát quán Đại Không thế nào? Đại Không tức là bát-nhã ba-la-mật.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát đặng pháp môn Không như vậy thời đặng trụ nơi bậc hư không đẳng.
Này thiện nam tử! Nay đức Phật ở trong đại chúng này lúc nói những nghĩa không như vậy, có mười hằng-hà-sa đại Bồ Tát liền đặng trụ nơi bậc hư không đẳng.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát trụ nơi bậc này ở trong tất cả pháp không bị trở ngại, không bị ràng buộc câu chấp, tâm không mê muội. Do nghĩa này nên gọi là bậc hư không đẳng.
Này thiện nam tử! Ví như hư không đối sắc đáng ưa chẳng sanh tham đắm, đối với sắc chẳng ưa chẳng sanh giận hờn. Đại Bồ Tát trụ trong bậc này cũng như vậy, đối với sắc tốt xấu tâm không tham không giận, ví như hư không rộng lớn tuyệt đối, có thể dung chứa tất cả vật. Đại Bồ Tát trụ trong bậc này cũng như vậy, rộng lớn tuyệt đối đều có thể dung thọ tất cả pháp. Do nghĩa này nên đặng gọi là bậc hư không đẳng.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát trụ trong bậc này đối với tất cả pháp cũng thấy cũng biết, là hành, là duyên, là tánh, là tướng, là nhân, là duyên, là chúng sanh tâm, là căn, là thiền định, là thừa, là thiện tri thức, là trì cấm giới, là vật bố thí, những pháp như vậy tất cả đều biết đều thấy.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát trụ trong bậc này biết mà chẳng thấy. Thế nào là biết? Biết tự nhịn đói, gieo xuống vực, nhảy vào lửa, tự té từ ngọn núi cao, thường co một chân, năm thứ nóng đốt thân, thường nằm trên tro, trên đất, trên gai góc, trên lá cây, cỏ cứng, trên phân bò, mặc y phục bằng gai thô của người vất bỏ trong gò mã, áo lông phấn tảo, áo khâm-bà-la, da nai, da hươu, áo quần bằng cỏ, ăn rau, ăn trái, ăn ngó, ăn củ, xác dầu, phân bò. Nếu đi khất thực hạn định từ nhà, gia chủ nếu nói rằng không liền bỏ đi, dầu kêu trở lại cũng chẳng ngó ngoái lại. Chẳng ăn muối, ăn thịt cùng năm thứ sữa, lạc, tô, v.v… Thường uống nước cám trấu, nước sôi. Thọ trì ngưu giới, kê giới, cẩu giới, trỉ giới. Lấy tro trét lên mình, để tóc dài làm tướng. Lúc dùng dê để cúng tế trước chú nguyện rồi sau giết thịt. Bốn tháng thờ lửa, bảy ngày hớp gió. Trăm ngàn ức thứ hoa cúng dường chư Thiên. Muốn nhân những việc trên đây để được thành tựu chỗ mong cầu. Những phương pháp trên đây không bao giờ có thể làm nhân giải thoát được. Đây gọi là biết.
Thế nào là chẳng thấy? Đại Bồ Tát chẳng thấy một người nào thực hành phương pháp như vậy mà đặng chánh giải thoát. Đây gọi là chẳng thấy.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát cũng thấy cũng biết. Những gì là thấy? Thấy các chúng sanh thực hành tà pháp ấy quyết đọa địa ngục. Đây gọi là thấy.
Thế nào là biết? Biết các chúng sanh từ địa ngục ra, sanh trong loài người nếu có thể tu hành đàn-ba-la-mật nhẫn đến đầy đủ các môn ba-la-mật, người này quyết đặng tám môn chánh giải thoát. Đây gọi là biết.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát lại có cũng thấy cũng biết. Thế nào là thấy? Thấy thường, vô thường, khổ, lạc, tịnh, bất tịnh, ngã, vô ngã, đây gọi là thấy. Thế nào là biết? Biết các đức Như Lai quyết định chẳng rốt ráo nhập Niết Bàn, biết thân Như Lai là kim cang không hư hoại, chẳng phải là thân do phiền não mà thành, lại chẳng phải hôi nhơ hư rã. Cũng lại có thể biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đây gọi là biết.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát lại có cũng biết cũng thấy. Thế nào là biết? Biết chúng sanh này tín tâm thành tựu, biết chúng sanh này cầu pháp đại thừa, người này thuần lưu, người này nghịch lưu, người này chánh trụ, biết chúng sanh này đã đến bờ kia.
Người thuận lưu là nói hạng phàm phu. Người nghịch lưu là từ bậc Tu Đà Hoàn nhẫn đến Duyên Giác. Người chánh trụ là nói các bậc Bồ Tát. Người đến bờ kia là nói các đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Đây gọi là biết.
Thế nào là thấy? Đại Bồ Tát trụ nơi kinh điển đại thừa Đại Niết Bàn tu phạm hạnh dùng thiên nhãn thanh tịnh thấy các chúng sanh ba nghiệp thân, khẩu, ý tạo điều ác đọa nơi địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Thấy các chúng sanh tu nghiệp lành sau khi chết sẽ sanh lên cõi trời hay trong loài người. Những chúng sanh này từ tối tăm vào tối tăm. Có những chúng sanh từ tối tăm vào sáng suốt. Có những chúng sanh từ sáng suốt vào tối tăm. Có những chúng sanh từ sáng suốt vào sáng suốt. Đây gọi là thấy.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát lại có cũng biết cũng thấy. Đại Bồ Tát biết các chúng sanh tu thân, tu giới, tu tâm, tu huệ. Người này đời nay thành tựu nghiệp ác, hoặc nhân tham dục, sân khuể, ngu si, nghiệp này ắt phải thọ báo nơi địa ngục, người này do tu thân, tu giới, tu tâm, tu huệ, nên hiện đời thọ quả báo nhẹ chẳng đọa địa ngục. Nghiệp này thế nào có thể đặng báo hiện tại? Phát lồ sám hối những tội ác đã làm đã ăn năm chừa cãi về sau chẳng dám tái phạm. Vì hổ thẹn, vì cúng dường Tam Bảo, vì thường trụ quở trách, người này do nhân duyên nghiệp lành đây nên chẳng đọa địa ngục. Hiện đời thọ quả báo là nhức đầu, đau mắt, đau bụng, đau lưng, chết vì hoạn nạn, bị mắng nhiếc làm nhục, bị đánh đập trói nhốt, bị đói khát khốn khổ, những việc như vậy là hiện đời thọ quả báo nhẹ. Đây gọi là biết.
Thế nào là thấy? Đại Bồ Tát thấy người như vậy chẳng có thể tu tập thân, giới, tâm, huệ, tạo chút ít nghiệp ác. Nhân duyên của nghiệp này đáng lẽ hiện đời thọ quả báo. Người này tạo chút ít nghiệp ác chẳng có thể sám hối, chẳng tự quở trách, chẳng sanh lòng hổ thẹn, chẳng sợ sệt, nghiệp ác này tăng trưởng nên thọ quả báo nơi địa ngục. Đây gọi là thấy.
Lại có biết mà chẳng thấy. Thế nào là biết? Biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vì phiền não che đậy nên chẳng thể thấy. Đây gọi là biết mà chẳng thấy.
Lại có biết mà thấy chút ít. Bậc thập trụ Bồ tát biết tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, thấy chẳng được rõ ràng dường như đêm tối thấy vật chẳng rõ.
Lại có cũng thấy cũng biết, chính là chư Phật Như Lai cũng thấy cũng biết.
Lại có cũng thấy cũng biết, chẳng thấy chẳng biết. Cũng thấy cũng biết là: trong thế gian những văn tự, ngôn ngữ, nam, nữ, xe cộ, bình chậu, nhà cửa, thành ấp, áo xiêm, uống ăn, núi sông, vườn rừng, chúng sanh, thọ mạng. Đây gọi là cũng biết cũng thấy.
Thế nào là chẳng thấy chẳng biết? Thánh nhân chỗ có nói ra lời vi mật, không có nam nữ nhẫn đến vườn rừng. Đây gọi là chẳng thấy chẳng biết.
Lại có biết mà chẳng thấy: biết vật bố thí, biết chỗ cúng dường, biết người lãnh thọ, biết nhân quả. Đây gọi là biết. Chẳng thấy đồ bố thí, chỗ cúng dường, người thọ nhẫn đến quả báo. Đây gọi là chẳng thấy.
Đại Bồ Tát biết có tám thứ, chính là ngũ nhãn của đức Như Lai chỗ biết."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Đại Bồ Tát có thể biết như vậy thời đặng những lợi ích gì?"
"Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát có thể biết như vậy thời đặng bốn vô ngại: Pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ vô ngại, nhạo thuyết vô ngại. Pháp vô ngại là biết tất cả pháp, pháp và danh tự của pháp. Nghĩa vô ngại là: biết những nghĩa của danh tự, có thể tuỳ theo danh tự đã đặt cho các pháp mà giải nghĩa. Từ vô ngại là giảng luận tùy theo danh tự, giảng luận theo chánh âm, giảng luận về pháp cú, giảng luận về thế biện. Nhạo thuyết vô ngại là: Đại Bồ Tát khi diễn thuyết không có chướng ngại, không ai động chuyển được, không có sợ sệt, khó có ai tồi phục được.
Này thiện nam tử! Đây gọi là Bồ Tát có thể thấy và biết như vậy, bèn đặng bốn trí vô ngại như thế.
Lại này thiện nam tử! Pháp vô ngại là: Đại Bồ Tát biết khắp những pháp Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật. Nghĩa vô ngại là: thừa, dầu có ba, nhưng biết quy về một, trọn chẳng cho rằng có tướng sai biệt hẳn. Từ vô ngại là: Đại Bồ Tát ở trong một pháp đặt thành nhiều thứ tên, trải vô lượng kiếp nói chẳng hết, hàng Thanh Văn, Duyên Giác, không thể nói như vậy được. Nhạo thuyết vô ngại là: Đại Bồ Tát trong vô lượng kiếp vì các chúng sanh diễn thuyết các pháp: hoặc danh hoặc nghĩa, nhiều loại giảng thuyết khác nhau chẳng thể cùng tận.
Lại này thiện nam tử! Pháp vô ngại là: Đại Bồ Tát dầu biết các pháp nhưng chẳng chấp lấy. Nghĩa vô ngại là: Đại Bồ Tát dầu biết những nghĩa cũng chẳng chấp. Từ vô ngại là: Đại Bồ Tát dầu biết danh tự cũng chẳng chấp lấy. Nhạo thuyết là: Đại Bồ Tát dầu biết nhạo thuyết tối thượng như vậy nhưng cũng chẳng chấp. Vì cớ sao chẳng chấp? Vì nếu chấp lấy thời chẳng gọi là Bồ Tát."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Nếu chẳng chấp lấy thời chẳng biết pháp, nếu biết pháp thời là chấp lấy, nếu biết mà chẳng chấp lấy thời là không chỗ biết, thế sao đức Như Lai nói rằng: Biết pháp mà chẳng chấp lấy?"
Phật nói: "Này thiện nam tử! Luận về người chấp lấy thời chẳng gọi là vô ngại. Người không chấp lấy mới gọi là vô ngại. Thế nên tất cả Bồ Tát nếu có chấp lấy thời không vô ngại, nếu không vô ngại thời chẳng gọi là Bồ Tát. Nên biết người ấy gọi là phàm phu. Tại sao chấp lấy gọi là phàm phu. Vì tất cả phàm phu chấp lấy nơi sắc, thanh, nhẫn đến chấp lấy thức. Vì chấp lấy sắc thời sanh tâm tham, vì sanh tâm tham nên bị sắc ràng buộc, nhẫn đến bị thức ràng buộc. Do bị ràng buộc nên chẳng đặng thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ não. Thế nên chấp lấy gọi là phàm phu. Do nghĩa này nên tất cả phàm phu không có bốn vô ngại.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát đã ở nơi vô lượng a-tăng-kỳ kiếp biết và thấy pháp tướng. Do biết thấy nên biết nghĩa. Do thấy pháp tướng và biết nghĩa nên ở trong sắc v.v… chẳng sanh lòng chấp lấy, nhẫn đến trong thức cũng lại như vậy. Do chẳng chấp lấy, Bồ Tát đối với sắc chẳng sanh lòng tham, nhẫn đến nơi thức cũng chẳng sanh lòng tham. Do không tham nên chẳng bị sắc ràng buộc, nhẫn đến chẳng bị thức ràng buộc. Bởi chẳng ràng buộc thời đặng thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu bi, khổ não. Do nghĩa này nên tất cả Bồ Tát đặng bốn vô ngại.
Này thiện nam tử! Do nhân duyên này trong mười hai bộ kinh, đức Phật vì hàng đệ tử nói chấp lấy gọi là bị ma trói buộc. Nếu chẳng chấp lấy thời thoát khỏi sự trói buộc của ma. Ví như trong đời, người có tội bị vua bắt trói, người không tội nhà vua không bắt. Đại Bồ Tát cũng như vậy: người chấp lấy thời bị ma ràng buộc, người không chấp lấy thời ma không ràng buộc được. Do nghĩa này nên đại Bồ Tát không có chấp lấy.
Này thiện nam tử! Pháp vô ngại là: Đại Bồ Tát khéo biết danh tự giữ lấy chẳng quên. Nói giữ lấy là như đất, núi, như con mắt, như đám mây, như người, như mẹ, tất cả các pháp cũng lại như vậy. Nghĩa vô ngại là: Bồ Tát chẳng những biết danh tự của các pháp mà cũng biết nơi nghĩa. Biết nghĩa thế nào? Như đất khắp giữ lấy tất cả chúng sanh và phi chúng sanh, do nghĩa này nên gọi là đất giữ lấy. Bồ Tát lại suy nghĩ nói có thể giữ lấy đất làm cho vững vàng không nghiêng động nên gọi là núi giữ lấy. Con mắt có thể giữ lấy ánh sáng. Mây gọi là hơi của rồng, hơi của rồng giữ lấy nước cho nên gọi là mây giữ lấy. Người có thể giữ lấy pháp và phi pháp. Mẹ có thể giữ lấy con. Đại Bồ Tát biết danh tự cú nghĩa của tất cả pháp cũng như vậy.
Từ vô ngại là: đại Bồ Tát dùng các thứ ngôn từ diễn nói một nghĩa, cũng không có nghĩa. Như những danh từ nam nữ, nhà cửa, xe cộ, chúng sanh v.v… Cớ sao là vô nghĩa? Luận về nghĩa là cảnh giới của Phật của Bồ Tát, ngôn từ là cảnh giới của phàm phu. Do biết nghĩa nên đặng từ vô ngại.
Nhạo thuyết vô ngại là đại Bồ Tát biết từ, biết nghĩa, nên trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp thuyết từ, thuyết nghĩa, chẳng cùng tận. Đây gọi là nhạo thuyết vô ngại.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát trong vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp tu hành thế đế, do sự tu hành này biết pháp vô ngại. Lại trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp tu đệ nhất nghĩa đế nên đặng nghĩa vô ngại. Lại vô lượng a-tăng-kỳ kiếp tập đọc luận Tỳ Dà La Na nên đặng từ vô ngại. Cũng ở trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp tu tập luận thuyết về thế đế, nên đặng nhạo thuyết vô ngại. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác không đặng bốn vô ngại như vậy.
Này thiện nam tử! Trong chín bộ kinh, đức Phật nói Thanh Văn và Duyên Giác có bốn vô ngại, nhưng Thanh Văn Duyên Giác thật không có. Tại vì sao? Vì đại Bồ Tát nhân độ chúng sanh nên tu tập bốn trí vô ngại như vậy. Hàng Duyên Giác tu pháp tịch diệt chỉ ưa ở một mình, nếu hóa độ chúng sanh chỉ hiện thần thông, trọn ngày nín lặng không thuyết pháp làm sao có được bốn trí vô ngại. Cớ sao nín lặng mà không thuyết pháp? Hàng Duyên Giác chẳng thể thuyết pháp độ người khiến đặng pháp noãn, pháp đảnh, pháp nhẫn, pháp thế-đệ-nhất, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chẳng thể khiến người phát tâm vô thượng bồ đề.
Này thiện nam tử! Hàng Duyên Giác ra đời trong thế gian không có chín bộ kinh, vì thế nên Duyên Giác không có từ vô ngại và nhạo thuyết vô ngại. Hàng Duyên Giác dầu biết các pháp nhưng không được pháp vô ngại. Vì pháp vô ngại, gọi là biết văn tự. Hàng Duyên Giác dầu biết văn tự nhưng không được văn tự vô ngại. Vì chẳng biết hai "Thường Trụ". Thế nên hàng Duyên Giác chẳng đặng pháp vô ngại. Hàng Duyên Giác dầu biết nơi nghĩa nhưng không được nghĩa vô ngại.
Người thật biết nghĩa thời biết chúng sanh đều có Phật tánh. Nghĩa Phật tánh gọi là vô thượng chánh đẳng chánh giác. Do nghĩa này nên hàng Duyên Giác chẳng đặng nghĩa vô ngại, thế nên tất cả hàng Duyên Giác không có bốn trí vô ngại.
Thế nào là hàng Thanh Văn không có bốn trí vô ngại? Hàng Thanh Văn không có ba thứ thiện xảo phương tiện: một là quyết cần phải lời nói dịu dàng rồi sau mới lãnh thọ giáo pháp, hai là quyết phải lời nói thô rồi sau mới lãnh thọ sự giáo hóa, ba là lời nói chẳng dịu dàng chẳng thô rồi sau mới lãnh thọ sự giáo hóa. Vì hàng Thanh Văn không có ba phương tiện này nên không có bốn trí vô ngại. Lại hàng Thanh Văn Duyên Giác chẳng có thể biết lời, biết nghĩa rốt ráo, không có trí tự tại, hiểu rõ nơi cảnh giới, không có mười trí lực, bốn vô sở úy chẳng có thể rốt ráo ra khỏi sông lớn mười hai nhân duyên, chẳng có thể khéo biết những căn tánh lợi độn sai khác của chúng sanh, chưa có thể dứt hẳn lòng nghi đối với hai đế lý, chẳng biết các thứ cảnh giới sở duyên nơi tâm của chúng sanh, chẳng có thể khéo nói đệ nhứt nghĩa không, thế nên hàng nhị thừa không có bốn trí vô ngại."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Nếu tất cả hàng Thanh Văn Duyên Giác đều không có bốn trí vô ngại, tại sao đức Thế Tôn lại nói Xá Lợi Phất là trí huệ đệ nhất. Đại Mục Kiền Liên là thần thông đệ nhất, Ma Ha Câu Si La là tứ vô ngại đệ nhất. Nếu các ngài đó là không có bốn trí vô ngại, sao đức Như Lai tuyên bố những lời như vậy."
Đức Phật khen ngợi Ca Diếp Bồ Tát: "Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Ví như sông Hằng có nước nhiều vô lượng, sông lớn Tân Đầu cũng có nước vô lượng, sông lớn Bác Xoa cũng có nước vô lượng, sông lớn Tất Đà cũng có nước vô lượng, ao A Nậu Đạt cũng có nước vô lượng, trong đại hải nước cũng vô lượng. Các con sông lớn, ao A Nậu cùng đại hải dầu đồng có nước nhiều vô lượng, nhưng thật ra nhiều ít chẳng đồng nhau. Bốn trí vô ngại của hàng Thanh Văn Duyên Giác cùng các bậc đại Bồ Tát vốn cũng như vậy, nếu nói là đồng nhau thời không đúng.
Này thiện nam tử! Ta vì phàm phu mà nói Ma Ha Câu Si La bốn trí vô ngại đệ nhất. Ý nghĩa lời hỏi của ông là như vậy.
Này thiện nam tử! Hàng Thanh Văn hoặc có vị đặng một trí vô ngại, hoặc có vị đặng hai, không có vị nào có đủ được bốn."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Như trong phẩm Phạm Hạnh, đức Phật đã nói sự tri kiến của Bồ Tát đặng bốn trí vô ngại. Tri kiến của Bồ Tát thời là vô sở đắc cũng không có tâm niệm cho rằng vô sở đắc. Thế Tôn! Đại Bồ Tát này thật vô sở đắc. Nếu giả sử tâm niệm Bồ Tát có sở đắc thời chẳng phải là Bồ Tát, nên gọi là phàm phu. Đức Như Lai sao lại nói Bồ Tát mà có sở đắc?"
- "Này thiện nam tử! Lành thay! Lành thay! Ta sắp sửa nói mà ông lại hỏi. Đại Bồ Tát thật vô sở đắc, vô sở đắc gọi là bốn trí vô ngại.
Này thiện nam tử! Do nghĩa gì vô sở đắc gọi là bốn trí vô ngại. Nếu có sở đắc thời gọi là ngại. Có chướng ngại gọi là bốn thứ điên đảo.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát vì không bốn thứ điên đảo nên đặng vô ngại. Thế nên Bồ Tát gọi (là) vô sở đắc.
Lại này thiện nam tử! Vô sở đắc thời gọi là huệ. Đại Bồ Tát đặng huệ này nên gọi là vô sở đắc. Có sở đắc gọi là vô minh. Bồ Tát dứt hẳn vô minh tối tăm nên vô sở đắc. Vì thế nên Bồ Tát gọi là vô sở đắc.
Lại này thiện nam tử! Vô sở đắc gọi là Đại Niết Bàn. Bồ Tát an trụ trong Đại Niết Bàn như vậy, chẳng thấy tánh tướng của tất cả pháp vì thế nên Bồ Tát gọi là vô sở đắc. Có sở đắc gọi là hai mươi lăm cõi, Bồ Tát dứt hẳn hai mươi lăm cõi đặng đại Niết Bàn. Vì thế nên Bồ Tát gọi là vô sở đắc.
Lại này thiện nam tử! Vô sở đắc gọi là đại thừa, đại Bồ Tát chẳng trụ nơi các pháp nên đặng đại thừa. Vì thế nên Bồ Tát gọi là vô sở đắc.
Có sở đắc gọi là đạo Thanh Văn, Bích Chi Phật. Bồ Tát dứt hẳn đạo Nhị thừa nên đặng Phật đạo. Vì thế nên Bồ Tát gọi là vô sở đắc.
Lại này thiện nam tử! Vô sở đắc gọi là kinh Phương đẳng. Bồ Tát đọc tụng kinh như vậy nên đặng Niết Bàn. Vì thế nên Bồ Tát gọi là vô sở đắc.
Có sở đắc gọi là mười một bộ kinh. Bồ Tát tu tập kinh điển thuần giảng thuyết phương đẳng đại thừa. Vì thế nên gọi là Bồ Tát vô sở đắc.
Lại này thiện nam tử! Vô sở đắc gọi là hư không. Trong thế gian không có vật gọi là hư không. Bồ Tát đặng hư không tam muội này thời không chỗ thấy. Vì thế nên Bồ tát gọi là vô sở đắc.
Có sở đắc gọi là luân hồi sanh tử. Tất cả phàm phu luân hồi sanh tử nên có chỗ thấy. Bồ Tát dứt hẳn tất cả sanh tử nên gọi Bồ Tát là vô sở đắc. Lại này thiện nam tử! Vô sở đắc của Đại Bồ Tát gọi là thường, lạc, ngã, tịnh, vì đại Bồ Tát thấy Phật tánh nên đặng thường, lạc, ngã, tịnh. Do đó nên gọi Bồ Tát là vô sở đắc.
Có sở đắc gọi là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Đại Bồ Tát dứt bốn thứ này nên gọi Bồ Tát là vô sở đắc.
Lại này thiện nam tử! Vô sở đắc gọi là đệ nhất nghĩa không. Đại Bồ Tát quán đệ nhất nghĩa không đều không chỗ thấy nên gọi Bồ Tát là vô sở đắc.
Có sở đắc gọi là năm sự thấy. Bồ Tát dứt hẳn năm sự thấy này nên chứng đặng đệ nhất nghĩa không, vì thế nên gọi Bồ Tát là vô sở đắc.
Lại này thiện nam tử! Vô sở đắc gọi là vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đại Bồ Tát lúc đặng vô thượng chánh giác đều không chỗ thấy nên gọi Bồ Tát là vô sở đắc.
Có sở đắc gọi là Thanh Văn bồ đề, Duyên Giác bồ đề, Bồ Tát dứt hẳn bồ đề của nhị thừa nên gọi Bồ Tát là vô sở đắc.
Này thiện nam tử! Lời hỏi của ông cũng vô sở đắc. Lời của ta cũng vô sở đắc. Nếu có sở đắc là quyến thuộc của ma, chẳng phải đệ tử của Phật."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn vì tôi lúc nói Bồ Tát vô sở đắc này, có vô lượng chúng sanh dứt tâm chấp có tướng. Do việc này tôi dám thưa hỏi vô sở đắc, làm cho vô lượng chúng sanh như vậy rời quyến thuộc ma làm đệ tử của Phật."
Ca Diếp Bồ Tát lại bạch Phật: "Thế Tôn! Đức Như Lai vừa rồi ở rừng Ta La Song Thọ này vì Thuần Đà nói bài kệ:
Trước có nay không
Trước không nay có.
Ba đời có pháp
Không có lẽ ấy.
Này thiện nam tử! Đức Phật vì hóa độ chúng sanh mà nói lời ấy, cũng vì hàng Thanh Văn Duyên Giác mà nói lời ấy, cũng vì Văn Thù Sư Lợi mà nói lời ấy, chẳng phải chỉ vì một mình Thuần Đà mà nói kệ ấy. Lúc đó Văn Thù Sư Lợi toan muốn hỏi Phật. Phật biết tâm niệm của Văn Thù mà nói kệ ấy. Phật nói bài kệ ấy rồi thời Văn Thù Sư Lợi liền hiểu rõ."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Như Văn Thù Sư Lợi, có được mấy người hiểu nghĩa ấy, xin đức Như Lai vì đại chúng lại phân biệt giảng rộng."
- "Này thiện nam tử! Lóng nghe, lóng nghe! Nay sẽ vì ông diễn giải lại.
Nói rằng trước có đó: ngày trước ta vốn có vô lượng phiền não, do phiền não nên hiện tại không có đại Niết Bàn.
Nói rằng trước không có: trước không bát nhã ba-la-mật, vì không bát nhã ba-la-mật nên hiện tại có đủ phiền não. Hoặc Sa Môn hay Bà La Môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm Vương, hoặc người không ai có thể nói đức Như Lai thuở quá khứ vị lai hay hiện tại có phiền não.
Lại này thiện nam tử! Nói rằng trước có đó: ta trước có thân hòa hiệp của cha mẹ sanh vì thế nên hiện tại không có pháp thân kim cang vi diệu.
Nói rằng trước không đó: thân ta vốn không ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tốt, bởi trước không có tướng tốt nên hiện tại có đủ bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh.
Hoặc Sa Môn hay Bà La Môn, hoặc trời hoặc ma, hoặc Phạm Vương hoặc người, không thể nói rằng đức Như Lai thuở quá khứ, vị lai, hiện tại có bệnh khổ đó.
Lại này thiện nam tử! Nói rằng trước có đó là ta trước vốn có vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh. Bởi có vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh, nên hiện tại không có vô thượng bồ đề. Nói rằng trước không đó: trước không thấy Phật tánh, vì chẳng thấy nên không có thường, lạc, ngã, tịnh, hoặc Sa Môn hay Bà La Môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm Vương, hoặc người, không thể nói rằng đức Như Lai thuở quá khứ vị lai hiện tại không có thường, lạc, ngã, tịnh.
Lại này thiện nam tử! Nói rằng trước có đó, là trước có tâm niệm tu khổ hạnh của phàm phu cho rằng đặng vô thượng chánh giác, vì vậy nên hiện tại không thể phá hoại bốn thứ ma. Nói rằng trước không đó, ta trước không có sáu môn ba-la-mật nên có tâm niệm tu, tu hành khổ hạnh của phàm phu cho rằng đặng vô thượng bồ đề. Hoặc Sa Môn hay Bà la Môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm Vương không thể nói đức Như Lai thuở quá khứ vị lai, hiện tại có khổ hạnh.
Lại này thiện nam tử! Nói rằng trước có đó, ta xưa trước có thân tạp thực nên hiện tại không thân vô biên. Nói rằng trước không đó, trước không mười bảy pháp trợ đạo, do không pháp trợ đạo nên hiện tại có thân tạp thực. Hoặc Sa Môn hay Bà La Môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm Vương, hoặc người, nói rằng đức Như Lai thuở quá khứ vị lai hiện tại có thân tạp thực, thời không đúng.
Lại này thiện nam tử! Nói rằng trước có đó: ta xưa trước có tâm niệm chấp lấy tất cả pháp, vì thế nên hiện tại không có chánh định rốt ráo không. Nói rằng trước không đó: ta trước không có thật nghĩa trung đạo, do không có thật nghĩa trung đạo nên có tâm niệm chấp lấy tất cả pháp. Hoặc Sa Môn hay Bà La Môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm Vương, hoặc người nói rằng đức Như Lai thuở quá khứ, vị lai, hiện tại nói tất cả pháp là có tướng, thời không đúng.
Lại này thiện nam tử! Nói rằng trước có đó, lúc ta mới đặng vô thượng bồ đề, có các đệ tử Thanh Văn căn độn, do có đệ tử Thanh Văn căn độn nên không thể diễn nói đạo nhất thừa chân thật. Nói rằng trước không đó: trước không bậc lợi căn Tượng Vương trong loài người như Ca Diếp Bồ Tát v.v… Bởi không hạng lợi căn nên đức Phật tùy nghi phương tiện khai thị ba thừa. Nếu có Sa Môn hay Bà La Môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm Vương, hoặc người, nói rằng đức Như Lai thuở quá khứ vị lai hiện tại rốt ráo diễn thuyết pháp ba thừa, thời không đúng.
Lại này thiện nam tử! Nói rằng trước có đó: ta trước nói rằng sau đây ba tháng nơi rừng Ta La Song Thọ, ta sẽ nhập niết bàn. Vì thế nên hiện tại đây chẳng diễn thuyết được kinh đại thừa Đại Niết Bàn. Nói rằng trước không đó: ngày trước không có Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát v.v… Vì không có nên hiện tại nói đức Như Lai vô thường. Hoặc Bà La Môn, hoặc Phạm Vương, hoặc người, hoặc trời, hoặc ma, nói rằng đức Như Lai thuở quá khứ, hiện tại là vô thường thời không đúng.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai khắp vì chúng sanh nên dầu biết rõ tất cả pháp ma nói là chẳng biết, dầu thấy mà nói là chẳng thấy. Pháp có tướng nói rằng không tướng, pháp không tướng nói rằng có tướng. Thiệt có thường nói rằng vô thường. Lạc, ngã, và tịnh cũng như vậy. Pháp tam thừa nói là nhất thừa, pháp nhất thừa tùy nghi nói thành ba: tướng dón gọn nói thành tướng rộng, tướng rộng nói thành tướng dón gọn. Bốn tội trọng nói là tội thâu-lan-giá, tội thâu-lan-giá nói là bốn tội trọng. Phạm nói chẳng phải phạm, chẳng phải phạm nói là phạm. Tội khinh nói là trọng, tội trọng nói là khinh. Tại sao vậy? Vì đức Như Lai thấy rõ căn tánh của chúng sanh. Đức Như Lai dầu nói như vậy mà trọn không hư vọng. Vì lời hư vọng chính là tội lỗi. Đức Như Lai đã dứt hết tất cả tội lỗi, thời đâu còn có nói lời hư vọng.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai dầu không lời hư vọng, nếu biết chúng sanh do nơi lời hư vọng mà đặng lợi ích đối với chánh pháp, thời tùy nghi phương tiện vì họ mà nói.
Này thiện nam tử! Tất cả thế đế đối với Như Lai tức đệ nhất nghĩa đế. Chư Phật Thế Tôn vì đệ nhất nghĩa đế mà nói thế đế, là cho chúng sanh chứng đặng đệ nhất nghĩa đế. Giả sử chúng sanh chẳng đặng đệ nhất nghĩa đế như vậy, thời chư Phật trọn chẳng tuyên nói thế đế.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai có lúc diễn nói thế đế, chúng sanh cho rằng Phật nói đệ nhất nghĩa đế. Đức Như Lai có lúc diễn nói đệ nhất nghĩa đế, chúng sanh cho rằng Phật nói thế đế. Nên cảnh giới rất sâu của chư Phật chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giác có thể biết được.
Này thiện nam tử! Vì thế nên ông chẳng nên gạn rằng: Đại Bồ Tát là vô sở đắc, Bồ tát thường chứng đặng đệ nhất nghĩa đế, sao lại gạn rằng vô sở đắc."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Đệ nhất nghĩa đế cũng gọi là đạo, cũng gọi là bồ đề, cũng gọi là Niết Bàn. Nếu có Bồ Tát nói rằng có đắc đạo có bồ đề, Niết Bàn, thời là vô thường. Vì pháp nếu là thường thời chẳng thể đặng, dường như hư không, có ai được.
Thế Tôn! Như vật trong thế gian trước không nay có gọi đó là vô thường. Cũng vậy, nếu đạo là có thể được thời gọi là vô thường. Pháp nếu là thường thời không đặng, không sanh, dường như Phật tánh không đặng, không sanh.
Thế Tôn! Luận về đạo: chẳng phải sắc, chẳng phải chẳng sắc, chẳng dài, chẳng vắn, chẳng phải cao, chẳng phải thấp, chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải có, chẳng phải không, cớ sao đức Như Lai nói là có thể được. Bồ Đề cùng Niết Bàn cũng như vậy."
Phật nói: "Phải lắm! Phải lắm! Này thiện nam tử! Đạo có hai thứ: một là thường, hai là vô thường. Tướng Bồ Đề cũng có hai thứ: một là thường, hai là vô thường. Niết Bàn cũng vậy.
Đạo của ngoại đạo gọi là vô thường. Đạo của nội đạo gọi là thường. Bồ Đề của Thanh Văn Duyên Giác là vô thường. Bồ Đề của Bồ Tát và chư Phật gọi là thường. Ngoại giải thoát gọi là vô thường. Nội giải thoát gọi là thường.
Đạo cùng bồ đề và niết bàn đều gọi là thường. Tất cả chúng sanh vì bị vô lượng phiền não che đậy không huệ nhãn nên chẳng thể thấy được. Mà các chúng sanh vì muốn được thấy nên tu giới, định, huệ. Do tu hành nên thấy đạo cùng bồ đề và niết bàn. Đây gọi là Bồ Tát chứng đặng đạo cùng bồ đề và niết bàn.
Tánh tướng của đạo thật chẳng sanh chẳng diệt. Do nghĩa này nên chẳng thể nắm lấy. Này thiện nam tử! Đạo dầu không hình sắc thấy được, không thể cân lường biết. Nhưng thật có công dụng. Như tâm chúng sanh dầu chẳng phải sắc, chẳng phải dài, vắn, thô, tế, chẳng phải buộc chẳng phải mở. Chẳng phải là pháp có thể thấy nhưng cũng là có.
Do nghĩa này nên đức Phật vì ông Tu Đạt Đa nói rằng: Này trưởng giả! Tâm là chúa trong thành. Trưởng giả nếu chẳng giữ gìn tâm thời chẳng giữ gìn thân miệng. Nếu giữ gìn là giữ gìn thân miệng. Bởi chẳng khéo giữ gìn thân miệng nên làm cho chúng sanh sa đến ba ác thú. Giữ gìn thân miệng thời làm cho chúng sanh đặng báo trời người và niết bàn. Chứng đặng gọi là chân thật, còn chẳng chứng đặng gọi là chẳng chân thật. Đạo cùng Bồ Đề và Niết Bàn cũng như vậy: cũng là có, cũng là thường. Nếu như không có làm sao có thể dứt được tất cả phiền não. Vì có nên tất cả Bồ Tát thấy biết rõ ràng.
Này thiện nam tử! Một là thấy tướng mạo, hai là rõ ràng. Thế nào là thấy tướng mạo? Như thấy khói đằng xa gọi là thấy lửa, kỳ thật chẳng thấy lửa, dầu chẳng thấy lửa nhưng cũng chẳng phải là hư vọng. Thấy chim hạc bay trên không bèn nói thấy nước. Dầu chẳng thấy nước nhưng chẳng phải là hư vọng. Như thấy lá cây bèn nói là thấy gốc cây, dầu chẳng phải thấy gốc cây nhưng cũng chẳng phải là hư vọng. Như người thấy sừng trâu trong rào đằng xa bèn nói là thấy trâu, dầu chẳng thấy trâu nhưng cũng chẳng phải là hư vọng. Như thấy người nữ thai ghén bèn nói là thấy dục, dầu chẳng thấy dục nhưng cũng chẳng phải là hư vọng. Như thấy cây mọc lá bèn nói là thấy nước, dầu chẳng thấy nước nhưng cũng chẳng phải là hư vọng. Như thấy mây bèn nói là thấy mưa, dầu chẳng thấy mưa nhưng cũng chẳng phải là hư vọng. Như thấy thân nghiệp cùng khẩu nghiệp bèn nói là thấy tâm, dầu chẳng thấy tâm, nhưng cũng chẳng phải là hư vọng, đây gọi là thấy tướng mạo.
Thế nào là thấy rõ ràng? Như mắt thấy sắc. Này thiện nam tử! Như người có con mắt sáng tự xem trái A Ma Lặc trong bàn tay. Đại Bồ Tát thấy Bồ Đề, Bồ Đề và Niết Bàn rõ ràng cũng như vậy, dầu thấy như vậy nhưng vẫn không có tướng thấy.
Này thiện nam tử! Do nhân duyên này ngày trước ta bảo Xá Lợi Phất: tất cả trong đời hoặc Sa Môn, Bà La Môn, hoặc trời, hoặc ma, hoặc Phạm Vương, hoặc người chỗ chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu, chỉ có đức Như Lai đều biết thấy và hiểu, chư vị đại Bồ Tát cũng như vậy. Còn nếu trong các thế gian chỗ biết thấy và hiểu, thời ta cùng Bồ Tát cũng biết thấy và hiểu. Chúng sanh trong thế gian chỗ chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu, cũng chẳng tự biết là mình chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu. Chúng sanh trong thế gian chỗ biết thấy và hiểu bèn tự nói rằng tôi biết thấy và hiểu. Đức Như Lai tất cả đều biết thấy và hiểu, cũng chẳng tự nói rằng ta biết thấy và hiểu, tất cả Bồ Tát cũng như vậy, vì nếu giả sử đức Như Lai còn có tướng biết thấy và hiểu, phải biết đó là chẳng Phật Thế Tôn mà là phàm phu, Bồ Tát cũng vậy."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Như đức Thế Tôn bảo Xá Lợi Phất: thế gian biết ta cũng biết, thế gian chẳng biết ta cũng biết rõ. Ý nghĩa đó thế nào?"
"Này thiện nam tử! Tất cả thế gian chẳng biết, chẳng thấy chẳng hiểu được Phật tánh. Nếu có biết thấy và hiểu Phật tánh thời chẳng gọi là thế gian mà là Bồ Tát. Người thế gian cũng lại chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu mười hai loại kinh, mười hai nhân duyên, bốn đảo, bốn đế ba mươi bảy phẩm, vô thượng bồ đề, đại Niết Bàn, nếu biết, thấy và hiểu thời chẳng phải là thế gian nên gọi là Bồ Tát.
Này thiện nam tử! Đây gọi là thế gian chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu.
Thế nào là chỗ biết thấy và hiểu của thế gian? Chính là Phạm Thiên, Tự Tại Thiên, Bát Tý Thiên, tánh, thời, vi trần, pháp và phi pháp là chủ tạo hóa, chung chỉ của thế giới, hai kiến chấp đoạn thường, cho rằng sơ thiền đến trời phi-phi-tưởng là Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Đây gọi là chỗ thấy, biết và hiểu của thế gian. Đại Bồ Tát đối với những việc như vậy cũng biết thấy và hiểu. Bồ Tát thấy biết và hiểu như vậy rồi, nếu nói rằng chẳng biết chẳng thấy chẳng hiểu thời là hư vọng. Hư vọng thời là tội. Do tội này phải đọa địa ngục.
Này thiện nam tử! Hoặc nam nữ, hoặc Sa Môn hay Bà La Môn nói rằng không có đạo bồ đề niết bàn. Phải biết bọn này gọi là nhất-xiển-đề, là quyến thuộc của ma, gọi là hủy báng chánh pháp. Hủy báng chánh pháp như vậy chính là hủy báng chư Phật. Người như vậy chẳng gọi là thế gian cùng chẳng gọi là chẳng phải thế gian."
Lúc bấy giờ Ca Diếp Bồ Tát liền nói kệ tán thán Phật:
Đức đại từ thương chúng sanh,
Nên nay tôi quy y Phật.
Khéo nhổ những mũi tên độc,
Nên hiệu là đại y vương.
Y sĩ trong đời trị bệnh,
Dầu lành như sanh trở lại,
Đức Như Lai trị lành hẳn
Rốt ráo chẳng còn pháp sanh
Thuốc cam lộ của Thế Tôn
Đem ban cho các chúng sanh,
Chúng sanh đã uống thuốc rồi,
Thời chẳng chết cũng chẳng sanh.
Đức Như Lai nay vì tôi
Diễn nói kinh đại Niết Bàn,
Chúng sanh nghe trong bí mật
Liền đặng chẳng sanh chẳng diệt.
Nói kệ xong, Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Như lời Phật nói tất cả thế gian chẳng biết, thấy, hiểu, Bồ Tát đều có thể biết, thấy, hiểu. Giả sử Bồ Tát là thế gian thời chẳng đặng nói rằng thế gian chẳng biết chẳng thấy chẳng hiểu, mà Bồ Tát có thể biết thấy hiểu. Còn nếu Bồ Tát chẳng phải thế gian thời có tướng gì khác?"
- "Này thiện nam tử! Bồ Tát cũng là thế gian cũng chẳng phải thế gian. Chẳng biết, thấy, hiểu gọi là thế gian. Biết, thấy, hiểu chẳng gọi là thế gian. Ông hỏi có tướng gì khác nay ta sẽ nói.
Này thiện nam tử! Hoặc nam nữ nếu có người mới nghe kinh đại Niết Bàn này liền sanh lòng kính tin phát tâm vô thượng bồ đề, đây gọi là thế gian Bồ Tát. Tất cả thế gian chẳng biết, thấy, hiểu, Bồ Tát này cũng chẳng biết, thấy, hiểu đồng như thế gian. Bồ Tát nghe kinh đại Niết Bàn này rồi biết có sự mà thế gian chẳng biết, chẳng thấy, chẳng hiểu là chỗ biết, thấy, hiểu của Bồ Tát. Biết như vậy rồi liền tự nghĩ rằng: Tôi phải tu tập thế nào để được biết thấy và hiểu? Lại tự nghĩ: Chỉ phải thân tâm tu trì tịnh giới.
Này thiện nam tử! Do nhân duyên đó Bồ Tát này ở đời vị lai sanh vào chốn nào giới đức vẫn thường thanh tịnh.
Này thiện nam tử! Do giới thanh tịnh nên đại Bồ Tát sanh vào chốn nào vẫn thường không kiêu mạn, tà kiến, nghi lầm. Không bao giờ cho rằng: đức Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn. Đây gọi là Bồ Tát tu trì giới thanh tịnh.
Giới đã thanh tịnh kế đến tu thiền định. Do tu thiền định nên đời đời chẳng mất chánh niệm: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, mười hai bộ kinh, chư Phật Thế Tôn thường, lạc, ngã, tịnh. Tất cả Bồ Tát an trụ nơi kinh Phương Đẳng đại Niết Bàn đều thấy Phật tánh những việc như vậy đời đời nhớ chẳng quên. Do tu chánh định, nên chứng đặng mười một pháp không. Đây gọi là Bồ Tát tu định thanh tịnh.
Giới định đã đủ kế tu huệ thanh tịnh. Do tu huệ nên chẳng chấp trước trong thân có ngã, trong ngã có thân, là thân là ngã, chẳng phải thân chẳng phải ngã. Đây gọi là Bồ Tát tu tập huệ thanh tịnh. Do tu huệ nên giới cấm đang thọ trì bền chắc chẳng lay động.
Như núi Tu Di chẳng bị bốn ngọn gió làm lay động. Cũng vậy, đại Bồ Tát chẳng bị bốn thứ điên đảo làm lay động.
Bấy giờ Bồ Tát tự rõ biết rằng giới cấm của mình thọ trì không có lay động. Đây gọi là chỗ thấy biết của Bồ Tát, chẳng phải là thế gian.
Này thiện nam tử! Bồ Tát thấy giới cấm của mình thọ trì bền chắc chẳng lay động thời tâm không hối hận. Vì không hối hận nên tâm vui mừng. Vì vui mừng nên tâm thỏa thích. Vì thỏa thích nên tâm an ổn. Vì an ổn nên đặng chánh định vô động. Vì đặng chánh định vô động nên đặng tri kiến chân thật. Vì đặng tri kiến chân thật nên nhàm lìa sanh tử. Vì nhàm lìa sanh tử bèn đặng giải thoát. Vì đặng giải thoát nên thấy rõ Phật tánh. Đây gọi là chỗ thấy biết của Bồ Tát, chẳng phải là thế gian.
Này thiện nam tử! Như trên đây gọi là thế gian chẳng biết chẳng thấy, mà là chỗ thấy chỗ biết của Bồ Tát."
No comments:
Post a Comment