Thursday, September 29, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 1)

B - CHÍNH TÔN

Phần này lại chia ra hai phần lớn:
i - Phật dạy tu Diệu Định.
ii - Phật dạy tránh những lầm lẫn, tu lạc sang đường tà.

i - Phật dạy tu Diệu Định:

Lại chia làm 3 phần:
a - Ông A Nan cầu Phật dạy Pháp Diệu Định.
b - Phật cặn kẽ chỉ phương pháp Diệu Định.
c - Ông A Nan ngộ.

a - Ông A Nan cầu Phật dạy Pháp Diệu Định:

Ông A Nan về thấy Phật, liền khóc lóc đảnh lễ. Nghĩ giận mình từ bao lâu nay, một bề nghe rộng nhớ nhiều, mà chưa toàn đạo lực. Ông ân cần xin dạy những pháp Sa Ma Tha (Samatha), Tam Ma (Samadhi), Thuyền Na (Dhyana), là pháp tu đầu tiên để tiến đến quả Bồ Đề của đức Như Lai.
Lúc đó, vô số Bồ Tát cùng đại A La Hán, Bích Chi Phật từ mười phương đến, thảy đều mong cầu Phật thuyết pháp, lui về chỗ, ngồi yên lặng, chờ Phật dạy.

b - Phật cặn kẽ chỉ phương pháp Diệu Định:

2 phần:
1 - Chính nói kinh.
2 - Tên của kinh.

1 - Chính nói kinh:

3 phần:
A) - Dạy tu pháp Sa Ma Tha
B) - Dạy tu pháp Tam Ma
C) - Dạy tu pháp Thuyền Na
A) - Dạy tu pháp Sa Ma Tha
2 phần:
i) - Trước hết, nói "không Như Lai Tạng".
ii) - Nói hai Như Lai Tạng sau.
i) - Nói "Không Như Lai Tạng"
2 phần:
a) - Như Lai phá vọng hiển chân
b) - A Nan giác ngộ, lễ tạ và phát tâm.
a) - Phật phá vọng hiển chân
2 phần:
1) - Phá chỗ chấp vọng tâm.
2) - Chỉ rõ Như Lai Tạng.
1) - Phá chỗ chấp vọng tâm
3 phần:
A/ - Chúng sinh nhận lầm ý thức của mình là tâm.
B/ - Phật phá những điều nhận lầm đó.
C/ - Kết luận.
A/ - Chúng sinh nhận lầm ý thức của mình là tâm.
i/ - Tại sao phát tâm?
Phật bảo ông A Nan: "Tôi với ông đồng một phái, tình như anh em ruột. Lúc mới phát tâm, thì ở trong pháp tôi, ông thấy những tướng tốt gì mà bỏ ngay được những ân ái sâu nặng ở thế gian".
Ông A Nan đáp: "Tôi thấy đức Như Lai có đủ 32 tướng tốt, người trong sáng như ngọc lưu ly, tốt đẹp lạ thường.
Tôi thường nghĩ: Tướng ấy không thể do dục ái sinh ra được. Vì sao? Vì sự dâm dục nhơ nhớp tanh hôi, máu mủ xen lộn, không thể sinh ra cái thân sạch sáng chói như vàng lóng lánh ấy được.
Vì vậy tôi quý trọng Phật, cắt tóc theo học Phật."
ii/ - Phật bảo chúng sinh nhận lầm.
Phật bảo: "Hay thay, A Nan! Các ông nên biết: hết thảy chúng sinh, từ bao xưa đến giờ, sống chết nối luôn, bởi vì chẳng biết chân tâm(1) thường còn mãi mãi, rất trong rất sáng, cứ theo các vọng tưởng(2). Vọng tưởng không phải là chân lý, nên bị luân chuyển.
(1) Chân tâm: cảnh giới Phật, mà Phật đã tu chứng đến. Đó mới là chân lý, vì thường còn mãi mãi.
(2) Vọng tưởng: tư tưởng sai lầm, tức là trí biết hẹp hòi, nông cạn của chúng sinh.

B/ - Phật phá những điều nhận lầm đó.
i/ - Mật chỉ vọng thức không có chỗ ở.
ii/ - Chỉ rõ vọng thức không phải tâm.
iii/ - Suy phá: vọng thức không có thực.
i/ - Mật chỉ vọng thức không chỗ ở:
2 phần:
a/ - Án định.
b/ - Phá chấp.
a/ - Án định: Phật án định, gạn hỏi chỗ ở của vọng thức:
Nay ông muốn hiểu Bồ Đề vô thượng(3) để phát minh chân tính, ông phải đem tâm ngay thẳng đáp lời hỏi của tôi. Mười phương các Như Lai, đều do một đường ra khỏi sinh tử, đó là nhờ trực tâm. Tâm ngay thẳng là từ đầu đến cuối thẳng tắp, không chút quanh co.
(3) Bồ Đề vô thượng: cảnh giới Phật cao nhất, không còn ai cao hơn.
A Nan! Nay tôi hỏi ông: khi ông phát tâm vì mến 32 tướng tốt của Như Lai, ông lấy cái gì mà thấy, và cái gì ưa mến?"
Ông A Nan bạch Phật: "Thưa Thế Tôn, ưa mến như vậy, là dùng tâm và con mắt của tôi. Bởi mắt nhìn thấy tướng tốt của Phật, tâm sinh ưa mến, nên tôi phát tâm, nguyện bỏ sinh tử."
Phật bảo ông A Nan: "Như lời ông nói: thật ông vì tâm và con mắt mà có ưa mến. Nếu chẳng biết tâm và con mắt ở đâu, thì ông không thể dẹp được lòng ưa muốn và các trần lao(4). Ví như một vị Quốc Vương bị giặc xâm lấn, phát binh đánh dẹp, thì binh vua cần phải biết chỗ ở của quân giặc rồi mới dẹp được. Khiến ông trôi lăn trong đường sinh tử, chính là tại tâm và con mắt của ông. Nay tôi hỏi ông: Tâm và con mắt hiện ở chỗ nào?"
(4) Trần lao: trần là bụi, lao là lay động nhọc mỏi. Tâm hồn và cảnh của chúng sinh ví như bụi bẩn, lay động, làm đau khổ.
b/ - Phá chấp: Phật theo chỗ chấp mà phá:
7 phần:
1/ - Phá chấp: tâm ở trong.
2/ - Phá chấp: tâm ở ngoài.
3/ - Phá chấp: tâm ở trong căn.
4/ - Phá chấp: tâm ở cả trong lẫn ngoài thân.
5/ - Phá chấp: tùy hợp.
6/ - Phá chấp: tâm ở giữa.
7/ - Phá chấp: tâm không dính mắc.
1/ - Phá chấp: Tâm ở trong
2 phần:
A# - A Nan chấp tâm ở trong
Ông A Nan bạch Phật: "Thưa Thế Tôn, tất cả trong thế gian, mười loại chúng sinh đều cho tâm hay biết ở trong thân. Con mắt giống như hoa sen của Phật cũng ở nơi mặt Phật. Con mắt phàm của tôi, cũng ở trên mặt tôi. Như vậy tâm hay biết thực ở trong thân."
B# - Phật phá
3 phần:
i# - Ví dụ: thấy thứ lớp
Phật bảo ông A Nan: "Hiện nay ông ngồi trong giảng đường của Như Lai, ông thấy rừng Kỳ Đà ở đâu chăng?"
- Thưa Thế Tôn, cái nhà giảng đường cao lớn thanh tịnh này ở trong vườn Cấp Cô Độc. Còn rừng Kỳ Đà ở ngoài giảng đường.
- A Nan, nay ông ở trong giảng đường, thấy cái gì trước?
- Thưa Thế Tôn, tôi ở trong giảng đường, trước hết thấy Như Lai, sau thấy đại chúng, rồi nhìn ra ngoài mới thấy vườn rừng.
- A Nan, ông nhờ chi mà thấy vườn rừng.
- Thưa Thế Tôn, nhân vì các cửa giảng đường mở rộng, nên tôi ở trong thấy suốt ra ngoài.
ii# - Phật chỉ cái tên của Chính định
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong đại chúng đưa tay màu vàng xoa đầu ông A Nan, bảo ông A Nan và đại chúng:
"Có pháp Tam Ma Đề(5) (Samadhi) tên là Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm (Sulamgama) vương, gồm đủ muôn hạnh. Mười phương các đức Như Lai đều do môn pháp ấy thẳng đến quả Phật. Các ông hãy lắng tai nghe."
(5) Chính định: Tam Ma Đề.
Ông A Nan đỉnh lễ, nghe lời Phật dạy.
iii# - Phật phá
Phật bảo ông A Nan: "Như ông đã nói, ông ở trong giảng đường, nhờ cửa mở rộng nên thấy vườn, rừng.
Có chúng sinh nào ở trong giảng đường mà lại không thấy Như Lai, chỉ thấy rừng ở ngoài giảng đường hay không?"
Ông A Nan đáp: "Thưa Thế Tôn, không có ai ở trong giảng đường mà lại không thấy Như Lai, chỉ thấy vườn rừng ở ngoài. Thật là vô lý."
- "A Nan, chính ông cũng thế. Cái tâm linh của ông là biết rõ hết thảy. Nếu nó thật ở trong thân, nó phải biết rõ trong thân. Vậy có chúng sinh nào trước thấy rõ trong thân mình, rồi sau mới thấy những vật ở ngoài, hay không? Dù cho không thấy tim, gan, tì vị đi nữa, đến như móng tay mọc, tóc dài, gân chuyển, mạch nhảy, tất cũng phải biết. Sao lại không biết? Đã không biết rõ trong thân, sao lại biết rõ ngoài thân. Vậy ông nói cái tâm rõ biết ở trong thân ông, chắc không có lẽ như vậy."

BÌNH LUẬN
B - Phần Chính Tôn
Đây là phần chính của bộ Kinh Lăng Nghiêm.
Vì cớ ông A Nan bị nạn, ông ta mới cầu Phật dạy tu pháp Chính Định, để không còn bị lay chuyển nữa.
Phần này lại chia làm hai phần lớn:
i - Phần đầu, gồm hầu hết bộ kinh, Phật dạy cách tu Chính Định.
ii - Phần sau, sau khi cặn kẽ chỉ dạy lối tu, từ lý thuyết đến thực hành, Phật lại căn dặn người tu nên tránh những cạm bẫy trên đường tu chứng. Biết bao người không thầy chỉ dạy, đã tu lạc, chịu bao khổ sở, không biết kiếp nào mới trở lại đường ngay, để thẳng tới quả Phật.
Ta hãy nghiên cứu phần đầu:
i - Phật dạy tu Diệu Định:
Phần này lại chia làm 3 phần:
a - Vào đề: Ông A Nan cầu Phật dạy.
b - Phật cặn kẽ chỉ phương pháp Diệu Định, tức là phần chính.
c - Ông A Nan ngộ, tức là kết quả (kết luận).
Trong phần: b - PHẬT CHỈ PHƯƠNG PHÁP DIỆU ĐỊNH, lại chia làm 3 phần:
A) - Dạy tu phép Sa Ma Tha
B) - Dạy tu phép Tam Ma
C) - Dạy tu phép Thuyền Na
Ta thấy rõ, Phật chỉ dạy rất có phương pháp, dạy xong lớp này, mới sang lớp khác.
Ta hãy nghiên cứu phần:
A) - Dạy tu pháp Sa Ma Tha:
i) - Trước hết, Phật nói về "Không Như Lai Tạng".
ii) - Sau, mới nói "Hai Như Lai Tạng sau".
Ngay trong phần:
i) - Nói "Không Như Lai Tạng":
a) - Phật trước hết phá chỗ chấp nặng nề của chúng sinh, cứ bám lấy trí biết hẹp hòi của mình.
b) - Sau khi chúng sinh tỉnh ngộ, không bám lấy cái vọng nữa, Phật mới chỉ rõ Như Lai Tạng.
Ta hãy nghiên cứu phần:
1) - Phá chỗ chấp vọng tâm:

 Phần này lại chia làm 3 phần chính:
A/ - Chúng sinh nhận lầm ý thức của mình là tâm: Phật nhận thấy điều đó.
B/ - Phật phá những điều nhận lầm trên.
C/ - Kết luận phần này.
Nay ta nghiên cứu phần:
A/ - Chúng sinh nhận lầm ý thức của mình là tâm:
i/ - Trước hết, Phật hỏi ông A Nan tại sao phát tâm? Tại sao ông A Nan dám bỏ những điều mà ai cũng quý báu như danh lợi, vợ con, tiền của, mà theo Phật đi tu, chắc ông thấy ở Phật điều gì quý báu lắm.
Ông A Nan đáp: "Vì thân Phật đẹp đẽ, sáng chói, đủ cả 32 tướng tốt".
Phật thấy rõ: quan niệm như ông A Nan là sai lầm. Ông A Nan bỏ cả danh lợi, phú quý của cuộc đời, bỏ bao thứ mà người ta ham hích, để theo Phật. Đáng lẽ vì ông ngộ chân lý cao siêu. Trái lại, tại ông thấy thân Phật tốt đẹp. Như thế cũng không khác gì một người mê cô gái tuyệt sắc, bỏ mọi thứ để theo cô, có khi chết vì ái tình. Vì sắc đẹp của cô gái, và sắc đẹp của thân Phật cũng là hình tướng bề ngoài.
Bởi thấy thế, Phật mới than: "Chúng sinh cứ bị luân hồi sinh tử, vì bám chấp vào cái thấy, nghe, hay, biết của mình. Họ không được biết Chân lý, biết cảnh giới thường còn bao la của Phật, nên không nương theo đó để lo giải thoát".
Phật muốn chỉ cho ông A Nan hiểu rõ căn bản đó, nhưng Phật biết ông ta còn chấp quá nặng, nên Phật đưa dần từ chỗ thấp đến chỗ cao.
Trước hết, Phật muốn gián tiếp chỉ cho ông A Nan biết là: trí biết của ông không có chỗ ở.
Phật đặt những câu hỏi và biện luận để ông A Nan tự phát minh ra là trí biết, tức vọng thức của ông không có chỗ ở.
Tiến lên một tầng nữa, Phật chỉ rõ: vọng thức đó không phải là tâm của ông A Nan.
Tiến lên tầng nữa: Phật chứng minh là vọng thức đó không có thực.
Khi ông A Nan hiểu rồi, Phật mới chỉ chân lý.
Bởi thế, ta thấy trong phần:
B/ - Phật phá những điều nhận lầm trên:
Có 3 tầng biện luận:
i/ - Mật chỉ vọng thức không có chỗ ở.
ii/ - Quở trách: vọng thức không phải tâm.
iii/ - Suy phá: vọng thức không có thực.
Nay ta nghiên cứu phần:
i/ Mật chỉ vọng thức không có chỗ ở.
Mật chỉ: nghĩa là chỉ một cách gián tiếp, Phật giúp ông A Nan tự phát minh ra là vọng thức không có chỗ ở.
Phần này lại chia làm 2 phần:
a/ - Án định: tức là đặt vấn đề: Hỏi ông A Nan tâm và con mắt ở đâu?
b/ - Phá chấp: tức là Phật tùy theo chỗ chấp của ông A Nan mà phá.
a/ - Đặt vấn đề:
Phật sắp đặt một câu hỏi cho ông A Nan trả lời.
Trước khi hỏi, Phật khuyên ông A Nan phải tâm cho ngay thẳng. Phải thành tâm, trọng sự thực, mới thấy được Chân lý.
Phật hỏi ông A Nan: "Khi ông phát tâm, thấy thân Phật đẹp, rồi sinh ưa mến. Vậy ông lấy gì mà thấy, lấy gì mà ưa mến?".

 Ông A Nan đáp: "Tôi dùng con mắt thấy, và tâm tôi sinh ưa mến".
Phật hỏi: "Tâm và con mắt ông ở đâu?"
Vậy ta thấy vấn đề đã đặt rõ ràng.
Trước khi theo dõi cuộc tranh luận giữa Phật và ông A Nan, ta hãy bàn về tâm ngay thẳng.
TÂM NGAY THẲNG
Một đức tính quan trọng của người muốn học Phật pháp, muốn hiểu chân lý, muốn tu thành Phật, đó là "tâm ngay thẳng".
Tâm ngay thẳng là trực tâm.
Đó là lòng thành thực, ngay thực, thẳng thắn, thành tâm, từ đầu, giữa, cuối thẳng tắp.
Đây là đức tính đầu tiên, cần thiết cho ai muốn tiến xa về đường Chân lý.
Ở thế gian, đức tính này cũng quan trọng lắm.
Một nhà bác học muốn nhìn rõ sự thật, cũng phải hết sức khách quan, đứng ngoài cái "tôi" của mình, phải bỏ hết những thành kiến, cố chấp, ra ngoài tình yêu ghét để nhìn rõ sự thật.
Một nhà đạo đức cũng phải tu đức đầu tiên là thành thực, ngay thực. Khổng Tử cũng nói: "Chí thành là bậc thánh".
Người thanh niên nên sớm nuôi lòng thành thực, ngay thẳng, cho thành thói quen.
Người Phật tử lại càng nên trọng sự thực. Có thế mới hiểu được chính pháp. Đừng bị mờ mắt vì danh lợi bề ngoài, vì những chức lớn, danh to, vì phong trào, vì óc bè phái, vì tình yêu ghét.
Hư danh làm nhiều kẻ không bao giờ biết được Chân lý. Hại hơn nữa là tâm đảo điên, mánh lới, lại xui nhiều kẻ làm sai lạc chính pháp, làm người đời lầm lẫn chính tà. Người giỏi là người dám thú thực là "không biết". Người hèn là kẻ manh tâm dìm người giỏi hơn mình. Hèn hạ nữa là dìm Chính pháp...
Ta hãy nghiên cứu phần:
b/ - Phá chấp
Tức là phần biện luận giữa Phật và ông A Nan để tìm chỗ ở của tâm.
Phần này lại chia làm 7 phần:
1/ - Phá chấp: tâm ở trong.
2/ - Phá chấp: tâm ở ngoài.
3/ - Phá chấp: tâm ở trong căn.
4/ - Phá chấp: tâm ở cả trong lẫn ngoài thân.
5/ - Phá chấp: tùy hợp.
6/ - Phá chấp: tâm ở giữa.
7/ - Phá chấp: tâm không dính mắc.
Ông Nan cố gắng tìm chỗ ở của Tâm.
Những lý lẽ của ông đưa ra đều bị Phật bẻ.
Ta thử theo dõi cuộc tranh luận
1/ - Phá chấp: tâm ở trong
Ông A Nan cho là: tâm ở trong thân.
Phật bẻ ông A Nan bằng ví dụ lấy thứ lớp: như ông A Nan ở trong giảng đường, trông thấy Phật, rồi đại chúng, rồi nhìn qua cửa mới thấy vườn, rồi xa nữa là rừng.
Vậy nếu tâm ở trong thân, phải thấy rõ gan, ruột ở trong thân đã, mới thấy ngoài thân.
Đây là Phật tùy theo cái chấp của ông A Nan mà bẻ. Phật tùy trình độ hiểu biết của ông A Nan và của thời đó mà biện luận, cốt sao đưa được đại chúng tới chỗ hiểu Chân lý.

No comments:

Post a Comment