Sunday, September 25, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Duyên Khởi

KINH LĂNG NGHIÊM

ĐẠI PHẬT ĐỈNH
NHƯ LAI MẬT NHÂN
TU CHỨNG LIỄU NGHĨA
CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH
THỦ LĂNG NGHIÊM KINH
Đời Đường, Sa Môn Bát Lặc Mật Đế dịch ra Hán văn


(Quyển thứ nhất)

A - DUYÊN KHỞI

I. Chung:

Chính tôi được thân nghe: một thủa Phật ở thành Thất La Phiệt (Sravasti), trong tinh xá(1) Kỳ Hoàn (Jetavana), cùng với chúng Đại Tỳ Kheo(2) một nghìn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc vô lậu(3) A La Hán (Arhat). Các vị Phật tử(4) giữ gìn chính pháp; ở cõi đời mà thường giải thoát(5); lại hay ở nơi quốc độ, thành tựu các uy nghi(6); theo Phật chuyển bánh xe chính pháp(7), nhận lĩnh(8) di chúc nhiệm mầu của Phật; nghiêm giữ giới luật thanh tịnh, làm khuôn phép cho ba cõi(9), thị hiện(10) ra vô số thân để cứu thoát chúng sinh, làm mọi chúng sinh ở đời vị lai khỏi bị ràng buộc bởi trần cảnh.
(1) Tinh xá: nhà của Phật và tăng chúng ở, để giảng kinh.
(2) Tỳ Kheo: theo tiếng Phạn là Bikhou, tức là người tu xuất gia.
(3) Vô lậu: không còn mê lầm, tức là đã chứng quả A La Hán, vượt ba cõi dục, sắc và vô sắc.
(4) Phật tử: con Phật, có tâm Bồ Tát, nhờ Phật dạy, tu hạnh Bồ Tát, sẽ thành Phật.
(5) Giải thoát: không bị ràng buộc.
(6) Cách đi đứng đúng phép của thầy tu.
(7) Bánh xe chính pháp: Chính pháp của Phật hoàn toàn, tròn như bánh xe. Chuyển bánh xe chính pháp tức là truyền bá chính pháp.
(8) Di chúc: lời dặn cuối cùng
(9) Ba cõi: là cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc. Sau Phật sẽ giảng kỹ.
(10) Thị hiện: hóa ra thân này thân khác để độ các loài.

Các vị tên là: Đại trí Xá Lợi Phất (Sariputra), Ma Ha Mục Kiền Liên (Maha Maudgalyayana), Ma Ha Câu Si La (Mahakausthila), Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử (Purna Maitreyaniputra), Tu Bồ Đề (Subbuti), Ưu Ba Ni Sa Đà (Upanisad), đều là bậc thượng thủ.
Lại có vô số bậc Bích Chi(11) (Pratyckabuddha) vô học(12), với những hàng sơ tâm(13), cùng đến chỗ Phật.
(11) Bích Chi: đã chứng Duyên Giác.
(12) Vô học: Đã chứng quả, không học về tiểu thừa nữa.
(13) Sơ tâm: mới phát tâm.

Nhằm ngày tự tứ(14) của các thầy Tỳ Kheo ra hạ(15), các vị Bồ Tát từ mười phương đến xin cắt nghĩa mấy chỗ còn nghi, kính hầu Đức Từ Nghiêm(16), để cầu nghĩa sâu xa.
(14) Tự tứ: ngày các thầy Tỳ Kheo ra hạ.
(15) Hạ: thời kỳ ở yên tu hành lúc mùa hạ, từ 16-4 đến 15-7
(16) Từ nghiêm: cha lành

Đức Như Lai trải tọa cụ, ngồi khoan thai, vì mọi người trong hội tỏ bày nghĩa sâu nhiệm. Các người trong hội thanh tịnh được nghe điều chưa từng có. Giọng nói của Phật thanh tao như tiếng chim Ca Lăng Tần Già(17) (Karavinka) vang khắp mười phương. Các Bồ Tát nhiều như số cát sông Hằng (Gange), đều đến nơi đạo trường(18), có ông Văn Thù Sư Lợi (Manjusri) làm thượng thủ.
(17) Chim Ca Lăng Tần Già: giống chim ở Ấn Độ hót rất hay.
(18) Đạo trường: nơi tu học và giảng pháp.

II. Riêng:

Khi ấy vua Ba Tư Nặc(19) (Pasanajit) nhân ngày kỵ Phụ Vương, mời Phật dùng cơm chay trong cung, có sắm đủ các món ăn chay quý báu; đích thân vua đến rước Phật và mời các vị Đại Bồ Tát.
(19) Ba Tư Nặc: Vua thành Thất La Phiệt.
Lại có các vị trưởng giả, cư sĩ trong thành cũng đồng thời trai tăng, mong Phật đến chứng.
Phật cử ông Văn Thù phân lĩnh các Bồ Tát và A La Hán đến các trai chủ.
Chỉ có ông A Nan (Ananda) trước đã được một người mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng trai chứng. Ông đi về giữa đường chỉ có một mình, không có vị thượng tọa(20) và vị A Xà Lê(21) (Acaryat).
(20) Thượng tọa: vị Tỳ Kheo tu nhiều hạ.
(21) A Xà Lê: thầy làm khuôn phép cho chúng. Ông Tỳ Kheo đi xa, theo luật phải có hai ông này đi cùng, để giữ cho mình.

Nhằm bữa không có ai cúng, ông cầm bình bát vào thành phố, đi từng nhà theo thứ lớp mà khất thực.
Ý ông cầu gặp một thí chủ chưa từng bố thí, bất luận người sang hay hèn, dòng Sát Đế Lợi(22) (Ksatriya) hay Chiên Đà La(23) (Candala). Ông đương thực hành từ tâm bình đẳng, chẳng lựa giàu nghèo, phát tâm làm cho mọi chúng sinh đều được hoàn toàn vô lượng công đức.
(22) Sát Đế Lợi: dòng quý tộc.
(23) Chiên Đà La: dòng hèn hạ.

Ông đã biết Phật quở ông Tu Bồ Đề và ông Đại Ca Diếp (Maha Kasyapa) làm A La Hán mà tâm chẳng quân bình(24). Ông kính vâng lời dạy vô giá(25) của Phật, tránh các sự chê bai, nghi hoặc(26). Ông đến bên thành, thong thả vào cửa, uy nghi nghiêm chỉnh, kính giữ phép hóa trai(27).
(24) Chẳng quân bình: thiên về người giàu hay người nghèo.
(25) Vô giá: không ngăn ngại.
(26) Chê bai, nghi hoặc: Vì sự thiên lệch
(27) Phép hóa trai: khuôn phép phải giữ trong khi đi khất thực.

Trong khi khất thực, ông A Nan đi ngang qua nhà dâm nữ Ma Đăng Già (Matanga), bị phép huyễn thuật. Nàng ấy dùng tà chú Tiên Phạm Thiên của đạo Ta Tì Ca La, bắt vào phòng dâm vuốt ve, làm cho ông A Nan gần phá giới thể(28).
(28) gần phá giới thể: suýt phá giới.
Đức Như Lai biết ông A Nan mắc nạn, dùng trai xong về ngay. Vua cùng đại thần, trưởng giả, cư sĩ đều đi theo Phật, cầu nghe pháp màu.
Khi ấy trên đỉnh đức Thế Tôn phóng hào quang sáng rực, đủ trăm thứ báu, rất tự tại, không e sợ. Trong hào quang có hoa sen nghìn cánh, có hóa thân Phật(29) ngồi kiết già trên đài hoa, đọc bài thần chú, khiến ông Văn Thù Sư Lợi mang chú ấy đến mà dẹp trừ tà chú, đem ông A Nan cùng nàng Ma Đăng Già đến chỗ Phật.
(29) hóa thân Phật: vị Phật do đức Thích Ca hóa ra, y hệt Phật.

BÌNH LUẬN(30)

(30) Phần giải thích và bình luận của Tuệ Quang.
Tên của kinh
Đại Phật đỉnh: cái tướng quý trên đỉnh đầu Phật.
Như Lai mật nhân: cái nguyên nhân sâu kín của Phật.
Tu chứng liễu nghĩa: Liễu nghĩa là nghĩa hoàn toàn, đúng chân lý.
Tu chứng liễu nghĩa là tu chứng đúng với chân lý, đúng với cảnh giới Phật.
Chư Bồ Tát vạn hạnh: muôn hạnh tu tốt đẹp của mọi Bồ Tát.
Thủ lăng nghiêm: có nghĩa là bền vững, không bị cảnh đời lôi cuốn, không bị thoái chuyển.
Nghĩa cả câu tên của kinh này:
"Đại Phật đỉnh, Như Lai mật nhân, tu chứng liễu nghĩa, chư Bồ Tát vạn hạnh, Thủ Lăng Nghiêm Kinh" nghĩa là: "Kinh này dạy phép tu vào chính định. Chính định này rất kiên cố, bền vững, giúp người tu thẳng đến chân lý, đến quả Phật. Mọi Bồ Tát muốn tu tới chân lý, đều phải tu qua phép Định này. Đó là nguyên nhân sâu kín đã giúp Phật thành Phật. Kinh này rất cao, rất quý, nên ví với cái đỉnh đầu Phật".
Ta hay gọi tắt kinh này là Thủ Lăng Nghiêm hay "Lăng Nghiêm".
Bộ kinh Lăng Nghiêm có 10 quyển.
Ta bắt đầu nghiên cứu quyển thứ nhất.
A - DUYÊN KHỞI
Bộ kinh nào do Phật dạy cũng đều rất mạch lạc, bao giờ cũng có vào đề, phần chính và kết luận.
Riêng bộ kinh Lăng Nghiêm này, Phật giảng cho những người thông minh, thích lý luận, mà tiêu biểu là ông A Nan.
Vì thế, Phật áp dụng "nhân minh học" là cả một khoa học và nghệ thuật về lý luận, để biện minh chân lý, và để giảng cho những tâm hồn hay thắc mắc, băn khoăn, muốn tìm hiểu nguyên lý của cuộc đời.
Phật khéo chỉ dần từ nông đến sâu, thấp đến cao, để người học tự biện luận, tự phá cái chấp của mình, mà khám phá ra sự thật.
Cả bộ kinh rất mạch lạc, tinh vi, có mở có đóng, có chuyển từ vấn đề nọ sang vấn đề kia.
Chúng tôi theo dõi lối biện luận của Phật, phân tích cặn kẽ từng đoạn từng phần, ví như vẽ tấm bản đồ cho một khu rừng rậm rạp, quanh co, để người học biết đường, biết lối mà băng qua, không đến nỗi bị lạc trong đám cây tưởng là vô tận.
Nếu người đọc mất công theo dõi, dựa theo từng phần từng đoạn, sẽ hiểu rất sâu bộ kinh này, và đồng thời đã có một căn bản vững chắc về Phật học.
Chúng tôi cũng nhân bộ kinh này, nói rộng về Phật pháp, mong giúp người học bớt nhiều băn khoăn, đỡ nhiều công tìm tòi.
Nhiều người học Phật, bị ảnh hưởng của đạo Nho, đạo Lão, quy đạo Phật trong mấy chữ Tâm, Tính, Thể, Dụng, Chân Tâm… làm chết đạo Phật. Vị đó lấy mấy giọt nước đục, làm thiên hạ tưởng rằng đó là đại dương mênh mông, trong suốt.
Tôi cố gắng tránh những lầm đó, mang lại chân giá trị cho Phật pháp, cho một nền giáo lý bao giờ cũng đứng đầu nhân loại, giúp nhân loại tiến mãi, ngày càng cao thượng, vĩ đại, đẹp đẽ hơn.
Bộ Kinh Lăng Nghiêm cũng chia làm 3 phần chính:
A - "Vào đề" hay "Duyên khởi"
B - "Phần chính" hay "Chính tôn"
C - "Kết luận" hay "Lưu thông"
Nay ta hãy xét phần duyên khởi.
Phần vào đề này đặt vấn đề cho bộ kinh.
Trước hết là phần "vào đề chung": kinh nào cũng vào đề như thế. Ông A Nan thuật lại ông được nghe kinh đó vào lúc nào, ở đâu, những ai nghe, quang cảnh lúc Phật giảng kinh như thế nào.
Rồi đến phần "vào đề riêng": tức là nguyên nhân nào đã khiến Phật giảng kinh này. Mỗi kinh đều có duyên cớ riêng. Ở đây, duyên cớ vì ông A Nan mắc nạn, được Phật cứu cho. Vì thế, ông A Nan cầu Phật dạy cho phép chính định kiên cố, không còn bị lay chuyển nữa.

No comments:

Post a Comment