Sunday, January 11, 2015

Kinh Đại Bát Niết Bàn - Quyển 2


  1. Tựa - Nghi thức sám hối - Nghi thức trì tụng
  2. Phẩm PHẠM HẠNH (phần 1, phần 2, phần 3, phần 4)
  3. Phẩm ANH NHI HẠNH
  4. Phẩm QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÝ ĐỨC VƯƠNG BỒ TÁT (phần 1, phần 2, phần 3, phần 4)
  5. Bổ khuyết tâm kinh
Ebook: .epub, .mobi (tìm trong dropbox folder này: Kinh_Dai_Bat_Niet_Ban_2)

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q1) - Bồ khuyết tâm kinh

BỔ KHUYẾT TÂM KINH
Ma ha Bát nhã Ba La Mật Đa tâm kinh
Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị. Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng: bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới; vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử diệc, vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc, vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề tát đỏa y Bát nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn.
Tam thế chư Phật y Bát nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc a-nậu đa-la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát nhã Ba-la-mật-đa chú. Tức thuyết chú viết:
"Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha".

VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN
Nam mô A Di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa, tỳ ca lan đế a di rị đa, tỳ ca lan đa, già di nị già già na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần)
Khể thủ Tây phương An Lạc quốc
Tiếp dẫn chúng sanh đại đạo sư
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ
Ngã kim phổ nguyện vị tứ ân tam hữu, cập pháp giới chúng sanh cầu ư chư Phật, nhứt thừa vô thượng bồ đề đạo cố, chuyên tâm trì niệm A Di Đà Phật vạn đức hồng danh kỳ sanh tịnh độ. Duy nguyện Từ Phụ, A Di Đà Phật ai lân nhiếp thọ từ bi gia hộ.
A Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di,
Hám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật. (Niệm 10, 20, 30 lần tùy ý)
Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát (10 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát (10 lần)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (10 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (10 lần)

HỒI HƯỚNG
Đệ tử chúng đẳng, hiện thị sanh tử phàm phu tội chướng thâm trọng luân hồi lục đạo, khổ bất khả ngôn; kim ngộ tri thức, đắc văn A Di Đà danh hiệu, bổn nguyện công đức, nhứt tâm xưng niệm cầu nguyện vãng sanh, nguyện Phật từ bi bất xả, ai lân nhiếp thọ, đệ tử chúng đẳng, bất thức Phật thân, tướng hảo quang minh, nguyện Phật thị hiện, lĩnh ngã đắc kiến, cập kiến Quan Âm Thế Chí Bồ Tát chúng, bỉ thế giới trung, thanh tịnh trang nghiêm, quang minh diệu tướng đẳng, linh ngã liễu liễu đắc kiến A Di Đà Phật.
Ngã kim trì niệm A Di Đà
Tức phát bồ đề quảng đại nguyện
Nguyện ngã định huệ tốc viên minh
Nguyện ngã công đức giai thành tựu
Nguyện ngã thắng phước biến trang nghiêm
Nguyện cộng chúng sanh thành Phật đạo.
Vãng tích sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thỉ tham sân si
Tùng thân ngũ ý chi sở sanh
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời
Tận trừ nhứt thiết chư chướng ngại
Diện kiến ngã Phật A Di Đà
Túc đắc vãng sanh Cực Lạc sát
Ngã ký vãng sanh Cực Lạc dĩ
Hiện tiền thành tựu thử đại nguyện
Nhứt thiết viên mãn tận vô dư
Lợi lạc nhứt thiết chúng sanh giới
Ngã Phật chúng hội hàm thanh tịnh
Ngã thời ư thắng liên hoa sanh
Thân kiến Như Lai Vô Lượng Quang
Hiện tiền thọ ngã bồ đề ký.
Mong ngã Như Lai thọ ký dĩ
Hóa thân vô số bá cu chi
Trí lực quảng đại biến thập phương
Phổ lợi nhứt thiết chúng sanh giới.
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô lượng thệ nguyện thành.
Nguyện sanh Tây phương tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Trang nghiêm Phật tịnh độ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả
Tức phát bồ đề tâm
Tận thử nhứt báo thân
Đồng sanh Cực Lạc quốc,
Tận thử nhứt báo thân
Đồng sanh An Dưỡng quốc.

NGUYỆN
A Di Đà Phật, thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhơn, lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thính phân minh, diện phụng Di Đà, dữ chư thánh chúng, thù chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã.
Nhứt sát na khoảnh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ Tát đạo, quảng độ chúng sanh đồng thành chủng trí.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô A Di Đà Phật Thế Tôn.
Nguyện ngã tội chướng tất tiêu diệt (1 lạy)
Nguyện ngã thiện căn nhựt tăng trưởng (1 lạy)
Nguyện ngã thân tâm hàm thanh tịnh (1 lạy)
Nguyện ngã Nhứt tâm tảo thành tựu (1 lạy)
Nguyện ngã Tam muội đắc hiện tiền (1 lạy)
Nguyện ngã Tịnh nhơn tốc viên mãn (1 lạy)
Nguyện ngã Liên đài dự tiêu danh (1 lạy)
Nguyện ngã Kiến Phật ma đảnh ký (1 lạy)
Nguyện ngã Dự tri mạng chung thời (1 lạy)
Nguyện ngã Vãng sanh Cực Lạc quốc (1 lạy)
Nguyện ngã viên mãn Bồ Tát đạo (1 lạy)
Nguyện ngã quảng độ chư chúng sanh (1 lạy)
Chí tâm quy mạng đảnh lễ Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô lượng vô biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ tận hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Như Lai biến pháp giới Tam Bảo. (1 lạy)
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh thể giải đại đạo, phát vô lượng tâm. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q1) - Phẩm THÁNH HẠNH (phần 3)

Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát còn nhớ những trường hợp ái biệt ly khổ thuở quá khứ, huống là Bồ Tát trụ nơi kinh Đại thừa Đại Niết Bàn mà nên chẳng quán sát sự ái biệt ly khổ trong đời hiện tại! 
Này thiện nam tử! Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành kinh Đại thừa Đại Niết Bàn quán sát oán tắng hội khổ?
Đại Bồ Tát này quan sát địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, loài người, trên trời đều có sự oán tắng hội khổ như vậy.
Ví như có người quan sát lao ngục giam nhốt, gông xiềng là rất khổ. Cũng vậy Đại Bồ Tát quan sát năm loài chúng sanh đều là oán tắng hội hiệp rất khổ sở.
Ví như có người thường sợ kẻ oán thù, gông cùm, xiềng xích, nên bỏ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, cùng của báu sản nghiệp mà trốn lánh đi xa. Cũng vậy, Đại Bồ Tát sợ sanh tử, nên tu hành sáu môn ba-la-mật, chứng nhập niết bàn. Đây gọi là Bồ Tát tu hành Đại thừa Đại Niết Bàn quan sát oán tắng hội khổ.
Này thiện nam tử! Thế nào là Đại Bồ Tát tu hành Đại thừa Đại Niết Bàn quan sát cầu bất đắc khổ?
Cầu là mong cầu tất cả, có hai thứ: một là cầu pháp lành, hai là cầu pháp chẳng lành. Cầu pháp lành mà chưa đặng thời khổ, pháp ác muốn rời mà chưa rời được thời khổ.
Đây là lược nói ngũ ấm thạnh khổ. Đây gọi là khổ đế."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Như lời Phật nói, ngũ ấm thạnh khổ nghĩa đó chẳng phải. Vì như ngày trước Phật bảo Thích Ma Nam: nếu sắc là khổ, tất cả chúng sanh lẽ ra chẳng nên cầu sắc, nếu có người cầu thời chẳng gọi là khổ. Lại như Phật bảo các Tỳ Kheo thọ có ba thứ: khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ. Lại như lúc trước đức Phật nói với các Tỳ Kheo: nếu người nào có thể tu hành pháp lành thời đặng thọ lạc. Lại như đức Phật nói: ở trong đường lành sáu căn lãnh thọ sáu cảnh vui: mắt thấy sắc đẹp là vui, tai, mũi, lưỡi, thân nhẫn đến ý suy nghĩ pháp lành cũng như vậy.
Như Phật từng nói kệ:
Trì giới thời là vui
Thân chẳng thọ sự khổ
Ngủ nghĩ đặng an ổn
Thức dậy lòng vui vẻ.
Lúc nhận lấy y thực
Đọc tụng và kinh hành
Ở riêng nơi núi rừng
Như vậy là rất vui.
Nếu đối với chúng sanh
Ngày đêm tu lòng từ
Nhơn đây được thường vui
Vì chẳng hại người khác.
Ít muốn biết đủ vui
Học rộng biết nhiều vui
A La Hán không chấp
Cũng gọi là thọ vui
Cũng vị đại Bồ Tát
Rốt ráo đến bờ kia
Những việc làm đã xong
Đây gọi là rất vui.
Thế Tôn! Trong các bộ kinh nói về tướng vui ý nghĩa như vậy. Thế nào tướng ứng với nghĩa của Phật nói hôm nay?"
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Lành thay! Lành thay! Ông khéo có thể thưa hỏi đức Như Lai những nghĩa như vậy.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh đối với sự khổ hạng hạ tưởng lầm là vui. Vì thế nên nay ta nói tướng khổ không khác với ngày trước đã nói."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Như lời Phật hỏi: đối với sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, thời sanh, lão, bệnh, tử hạng hạ cùng ái biệt ly, cầu bất đắc, oán tắng hội, ngũ ấm thạnh hạng hạ, những sự khổ như vậy lẽ ra cũng nên có vui.
Thế Tôn! Sanh hạng hạ là ba ác thú, sanh hạng trung là loài người, sanh hạng thượng là trên trời.
Nếu lại có người hỏi rằng: nếu ở nơi sự vui hạng hạ tưởng cho là khổ, trong sự vui hạng trung tưởng cho là không khổ không vui, trong sự vui hạng thượng tưởng cho là vui, thời phải trả lời thế nào?
Thế Tôn! Nếu trong sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, chưa thấy có người nào sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, lúc mới đánh một trượng đầu mà đã tưởng là vui. Nếu lúc đánh trượng đầu chẳng tưởng là vui, thế, sao nói rằng: nơi trong sự khổ hạng hạ mà tưởng cho là vui?"
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Phải lắm! Phải lắm! Đúng như lời ông nói. Do nghĩa này nên không có tưởng là vui, vì như người tội kia sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, khi bị đánh một trượng rồi liền đặng tha. Người này bèn sanh lòng vui. Vì thế nên biết rằng trong sự không vui lầm tưởng là vui."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Người đó chẳng vì đánh một trượng mà sanh vui. Chính vì đặng tha mà sanh lòng vui."
- "Này thiện nam tử! Vì thế nên ta ngày trước nói với Thích Ma Nam trong ngũ ấm có vui, lời đó là đúng, thiệt chẳng phải mâu thuẫn vậy.
Này thiện nam tử! Có ba thọ và ba khổ. Ba thọ là: lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Ba khổ là: khổ khổ, hành khổ, hoại khổ.
Này thiện nam tử! Khổ thọ chính là cả ba món khổ: khổ khổ, hành khổ, và hoại khổ. Hai món thọ kia chính là hành khổ và hoại khổ. Do đây nên trong sanh tử thiệt có lạc thọ. Đại Bồ Tát thấy tánh khổ cùng tánh lạc chẳng rời lìa nhau nên nói rằng tất cả đều khổ.
Này thiện nam tử! Trong sanh tử thiệt không có vui, vì chư Phật Bồ Tát tùy thuận thế gian nên nói là có vui."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Chư Phật và Bồ Tát nếu tùy thuận thế tục mà nói, thời là có hư vọng chăng? Như Phật từng nói, người tu hành pháp lành thời thọ quả báo vui. Trì giới an vui thân chẳng thọ khổ, nhẫn đến việc đã làm xong đây là rất vui. Lời nói thọ vui trong các kinh như vậy, chừng có hư vọng chăng. Nếu là hư vọng, thời chư Phật Thế Tôn trong vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp tu hành đạo bồ đề đã lìa vọng ngữ. Nay Phật nói như vậy ý nghĩa thế nào?"
- "Này thiện nam tử! Như bài kệ nói về những sự thọ lạc trước kia chính là cội gốc của đạo bồ đề, cũng có thể trưởng dưỡng vô thượng bồ đề. Do nghĩa đó nên trong những kinh trước nói tướng vui như vậy.
Ví như trong thế gian những đồ cần dùng cho đời sống, có thể làm nhơn cho sự vui, nên gọi là vui. Như nữ sắc, rượu uống đồ ăn ngon, lúc khát được nước, lúc lạnh được lửa, y phục, chuỗi ngọc, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, vàng bạc, lưu ly, san hô, chơn châu, kho đựng lúa gạo, những vật như vậy người đời cần dùng có thể làm nhơn cho sự vui, nên gọi là vui.
Này thiện nam tử! Những vật như vậy cũng có thể sanh sự khổ. Nhơn nơi nữ sắc sanh sự khổ lo, rầu, buồn, khóc, nhẫn đến phải chết cho người nam. Nhơn nơi rượu, đồ ăn ngon, nhẫn đến lúa gạo cũng có thể làm cho người phải lo khổ nhiều. Do nghĩa đó nên tất cả đều khổ không có tướng rốt ráo vui.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát nơi tám điều khổ này hiểu rõ là khổ nên không bị khổ.
Này thiện nam tử! Tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác chẳng biết nhơn của sự vui, nên Phật vì họ ở trong sự khổ hạng hạ nói có tướng vui. Chỉ có Bồ Tát trụ nơi Đại thừa Đại Niết Bàn bèn có thể biết nhơn của sự khổ sự vui này.
Này thiện nam tử! Thế nào là Đại Bồ Tát trụ nơi Đại thừa Đại Niết Bàn quan sát tập đế? Đại Bồ Tát quan sát tập đế là nhơn duyên ngũ ấm. Tập nghĩa là trở lại ái luyến nơi hữu. Ái có hai thứ: một là ái thân mình, hai là ái đồ cần dùng. Lại có hai thứ: năm thứ dục lạc, lúc chưa đặng tâm luôn tìm cầu, đã tìm cầu đặng rồi luôn đắm trước. Lại có ba thứ: dục ái, sắc ái, vô sắc ái. Lại có ba thứ: nghiệp nhơn duyên ái, phiền não nhơn duyên ái, khổ nhơn duyên ái. Người xuất gia có bốn thứ ái: y phục, đồ uống ăn, đồ nằm, thuốc thang. Lại có năm thứ: tham lam nơi ngũ ấm, tùy chỗ cần dùng tất cả đều tham ái toan tính phân biệt vô lượng vô biên.
Này thiện nam tử! Ái có hai thứ: một là thiện ái, hai là bất thiện ái. Chỉ người ngu tìm cầu bất thiện ái. Các vị Bồ Tát cầu nơi thiện ái. Thiện ái lại có hai thứ: bất thiện và thiện. Cầu pháp Nhị thừa gọi là bất thiện. Cầu pháp Đại thừa gọi là thiện.
Này thiện nam tử! Kẻ phàm phu tham ái gọi là "tập" chẳng gọi là "đế". Sự ái của Bồ Tát thời gọi là thật đế chẳng gọi là tập, vì Bồ Tát muốn độ chúng sanh nên thị hiện thọ sanh, chẳng phải vì tham ái mà thọ sanh."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Như trong các kinh khác đức Phật vì chúng sanh mà nói nghiệp làm nhơn duyên, hoặc nói kiêu mạn, hoặc nói lục xúc, hoặc nói vô minh làm nhơn duyên, mà có ngũ ấm xí thạnh. Hôm nay do nghĩa gì đức Phật nói bốn thánh đế riêng lấy ái làm nhơn cho ngũ ấm."
Phật khen Ca Diếp Bồ Tát: "Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông vừa nói, các nhơn duyên chẳng phải làm cũng chẳng phải nhơn, chỉ vì năm ấm cần phải nhơn nơi ái.
Ví như quốc vương lúc đi tuần du các quan quyến thuộc thảy đều theo hầu. Cũng vậy, ái đi đến chỗ nào thời các kiết sử cũng đi theo.
Ví như y phục thấm mồ hôi, bụi bay đến liền bám dính. Cũng vậy, chỗ nào có ái những nghiệp kiết cũng ở nơi đó.
Ví như đất ướt thời có thể mọc mầm. Cũng vậy, ái có thể sanh tất cả mầm nghiệp phiền não.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát trụ nơi Đại thừa Đại Niết Bàn quan sát kỹ ái này có chín thứ: một là thiếu nợ, hai là như vợ La Sát, ba là như trong cọng hoa đẹp có rắn độc vấn, bốn là như vật thực độc mà cố ăn đó, năm là như dâm nữ, sáu là như hột ma-lâu-ca, bảy là như thịt thúi trong mụn nhọt, tám là như gió bão, chín là như sao chổi.
Như thiếu nợ là thế nào? Ví như người nghèo cùng thiếu tiền của người khác, dầu đã trả nợ mà vẫn còn thiếu, nên bị giam nhốt chưa ra khỏi ngục. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác vì còn tập khí thừa của ái nên chẳng chứng đặng vô thượng bồ đề.
Như vợ La Sát là thế nào? Ví như có người lấy gái La Sát làm vợ, gái La Sát này hể sanh con liền ăn thịt, ăn thịt con đẻ hết lại ăn luôn thịt chồng. Ái cũng vậy, tùy người sanh thiện căn nó liền ăn, ăn hết thiện căn nó lại ăn luôn cả người làm cho phải đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Chỉ trừ các vị Bồ Tát.
Như cọng hoa đẹp có rắn độc vấn là thế nào? Như có người thích hoa đẹp mà chẳng thấy cùng hoa có rắn độc, liền đến ngắt hoa bị rắn cắn chết. Tất cả phàm phu tham đắm ngũ dục mà chẳng thấy độc hại của ái nên bị ái làm hại, sau khi chết đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ Tát.
Vật thực độc mà cố ăn là thế nào? Như có người cố ăn vật thực độc, ăn xong đau bụng thổ tả mà chết. Chúng sanh trong ngũ đạo vì tham ái mà phải bị đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ Tát.
Như dâm nữ là thế nào? Như người ngu tư thông với dâm nữ, dâm nữ này thường dối phỉnh gạt đoạt hết tiền của rồi xua đuổi người ấy. Người ngu không có trí tuệ bị tham ái đoạt tất cả pháp lành rồi xua đổi vào trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ Tát.
Như hột ma-lâu-ca là thế nào? Nếu chim ăn hột ma-lâu-ca, phân chim do gió thổi rớt dưới cây liền mọc lên đeo vấn cây to làm cho khô chết, tham ái ràng buộc phàm phu làm cho pháp lành không tăng trưởng nhẫn đến khô diệt, sau khi chết đọa vào ba đường ác. Chỉ trừ các vị Đại Bồ Tát.
Thịt thúi trong mụn nhọt như thế nào? Như người bị ung nhọt, trong nhọt sanh thịt thúi, người bệnh này phải chuyên tâm chạy chữa, nếu chểnh mảng thời thịt thúi sanh trùng có thể phải chết, ngũ ấm của phàm phu cũng như vậy, ái sanh trong đó, phải nên siêng năng điều trị tham ái, nếu không điều trị sẽ phải đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ Tát.
Như gió bão là thế nào? Gió bão có thể làm lở núi ngã cây. Cũng vậy, tham ái sanh tâm ác đối với cha mẹ, có thể làm ngã trốc cội cây vô thượng bồ đề của các ông Đại Trí Xá Lợi Phất v.v… Chỉ trừ các vị Bồ Tát.
Như sao chổi là thế nào? Như sao chổi mọc thời trong thiên hạ phải bệnh tật, đói kém, họa tai khổ sở. Cũng vậy, ái có thể dứt tất cả căn lành làm cho phàm phu cơ cùng thiếu sanh bệnh phiền não lưu chuyển trong sanh tử, mang nhiều sự khổ. Chỉ trừ các vị Bồ Tát.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát Đại thừa trụ nơi Đại Niết Bàn quan sát tham ái có chín thứ như vậy.
Do nghĩa trên đây, hàng phàm phu có khổ, không đế. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác có khổ đế mà không chơn thật. Các vị Bồ Tát hiểu khổ không có khổ mà có chơn đế. Hàng phàm phu có tập không có đế. Hàng Thanh Văn Duyên Giác có tập có tập đế. Các vị Bồ Tát hiểu tập không có tập mà có chơn đế. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác có diệt mà chẳng phải chơn. Đại Bồ Tát có diệt có chơn đế. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác có đạo mà chẳng phải chơn. Đại Bồ Tát có đạo có chơn đế.
Này thiện nam tử! Thế nào là Đại Bồ Tát trụ nơi Đại thừa Đại Niết Bàn thấy diệt cùng thấy diệt đế? Chính là dứt trừ tất cả phiền não, nếu phiền não đã dứt thời gọi là thường. Dứt lửa phiền não thời gọi là tịch diệt. Vì phiền não diệt nên đặng hưởng thọ chơn lạc. Chư Phật và Bồ Tát chẳng nguyện cầu nên gọi là tịnh, chẳng còn thọ thân trong hai mươi lăm cõi nên gọi là xuất thế. Do xuất thế nên gọi là ngã, là thường. Đối với sắc, thinh, hương, vị, xúc, nam, nữ, sanh, trụ, diệt, khổ, lạc, bất khổ, bất lạc, đều chẳng chấp lấy tướng mạo nên gọi là rốt ráo tịch diệt chơn đế. Đây là Đại Bồ Tát trụ nơi Đại thừa Đại Niết Bàn quan sát diệt thánh đế.
Thế nào là Đại Bồ Tát trụ nơi Đại thừa Đại Niết Bàn quan sát đạo thánh đế?
Ví như trong tối nhơn đèn mà đặng thấy những vật lớn nhỏ. Cũng vậy, Đại Bồ Tát trụ nơi Đại thừa Đại Niết Bàn nhơn bát thánh đạo mà thấy tất cả pháp: thường, vô thường, hữu vi, vô vi, chúng sanh, phi chúng sanh, vật, phi vật, khổ, lạc, ngã, vô ngã, tịnh, bất tịnh, phiền não, phi phiền não, nghiệp, phi nghiệp, thật, phi thật, thừa, phi thừa, tri, bất tri, đà-la-phiên, phi đà-la-phiên, cầu-na, phi cầu-na, kiến, phi kiến, sắc, phi sắc, đạo, phi đạo, giải, phi giải. Bồ Tát trụ nơi Đại thừa Đại Niết Bàn quan sát đạo thánh đế như vậy."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Nếu tám Thánh đạo là đạo thánh đế thời nghĩa chẳng tương ứng. Như đức Phật hoặc có lúc nói lòng tin là đạo có thể thoát khỏi các phiền não. Hoặc có lúc nói chẳng phóng dật là đạo vì chư Phật chẳng phóng dật nên đặng vô thượng bồ đề, và cũng là phép trợ đạo của Bồ Tát. Hoặc có lúc nói tinh tấn là đạo, như Phật bảo A Nan nếu có người siêng tu tinh tấn thời đặng thành vô thượng bồ đề. Hoặc có lúc nói quán thân niệm xứ, nếu chuyên tu tập thân niệm xứ này đặng thành vô thượng Bồ Đề. Hoặc có lúc nói chánh định là đạo, như Phật bảo Ma-ha Ca Diếp: Chánh định là đạo chơn thật, nếu nhập chánh định bèn có thể tư duy sự sanh diệt của ngũ ấm, chẳng nhập thời không thể tư duy. Hoặc có lúc nói một pháp: Nếu người tu tập có thể thanh tịnh chúng sanh, dứt trừ tất cả ưu sầu khổ não chứng đặng chánh pháp, tức là niệm Phật tam muội. Hoặc Phật lại nói rằng tu quán tưởng vô thường thời gọi là đạo có thể chứng đặng vô thượng Bồ Đề. Hoặc Phật nói không tịch ở nơi A Lan Nhã, ngồi một mình tư duy có thể mau chứng đặng vô thượng Bồ Đề. Hoặc có lúc Phật nói: vì người diễn thuyết thời gọi là đạo, nếu người nghe pháp dứt được lưới nghi thời chứng đặng vô thượng Bồ Đề. Hoặc có lúc Phật nói trì giới là đạo, nếu người tinh tấn tu trì giới cấm, người này thoát khỏi khổ sanh tử. Hoặc có lúc Phật nói gần gũi thiện hữu gọi là đạo, như Phật bảo A Nan: người gần gũi thiện tri thức thời đầy đủ tịnh giới, nếu có chúng sanh nào gần gũi nơi Phật thời đặng phát tâm vô thượng bồ đề. Hoặc có lúc Phật nói tu lòng từ là đạo, người tu học lòng từ dứt các phiền não thời đặng bậc bất động. Hoặc có lúc Phật nói trí huệ là đạo, như ngày trước Phật vì Tỳ Kheo Ni Ba Xà Ba Đề mà nói rằng: này Tỳ Kheo Ni! Như hàng Thanh Văn dùng sức trí huệ dứt được các lậu phiền não. Hoặc có lúc Phật nói bố thí là đạo, như ngày trước Phật bảo vua Ba Tư Nặc: Này Đại Vương! Ngày trước đức Phật làm nhiều việc bố thí do đó mà nay đặng thành vô thượng bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Nếu bát thánh đạo là đạo đế, những kinh như vậy há chẳng phải là hư vọng. Nếu những kinh đó chẳng phải hư vọng thời duyên cớ gì trong những kinh đó chẳng nói bát thánh đạo là đạo thánh đế. Nếu những kinh đó chẳng nói, dễ thường ngày trước đức Như Lai có lầm lộn. Nhưng tôi quyết định biết rằng chư Phật từ lâu đã lìa lầm lộn."
Đức Phật khen Ca Diếp Bồ Tát: "Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Nay ông muốn biết kinh điển đại thừa vi diệu có những pháp bí mật nên hỏi như vậy. Những kinh ngày trước như vậy đều vào trong đạo thánh đế.
Này thiện nam tử! Như ta nói lòng tin là đạo. Tin căn này có thể tá trợ đạo bồ đề. Vì thế nên lời Phật nói không có lầm lộn. Đức Như Lai khéo biết vô lượng phương tiện vì muốn hóa độ chúng sanh nên sự thuyết pháp có nhiều loại.
Ví như lương y biết các căn bệnh của chúng sanh, tùy theo bệnh mà hiệp thuốc và những thứ cấm kỵ đối với thuốc. Chỉ nước chẳng ở trong lệ cấm. Hoặc cho uống nước gừng, nước cam thảo, nước tế tân, nước đường phèn, nước trái a-ma-lặc, nước ni-ba-la, hoặc nước bát-trú-la, hoặc cho uống nước lạnh, nước nóng, nước nho, nước thạch lựu.
Này thiện nam tử! Lương y ấy khéo biết căn bệnh của chúng sanh. Dầu rằng thuốc có nhiều sự cấm kỵ, nhưng chỉ có nước là không ở trong lệ cấm.
Cũng như vậy, đức Như Lai khéo biết phương tiện, trong một pháp tướng tùy theo các loài chúng sanh mà phân biệt diễn thuyết nhiều loại danh tướng. Các loài chúng sanh kia tùy theo chỗ lãnh thọ của họ mà tu tập, dứt trừ phiền não. Như người bệnh kia theo lời dặn của lương y mà bệnh được lành.
Này thiện nam tử! Như có một người biết nhiều thứ tiếng ở chung trong đại chúng. Một hôm đại chúng khát nước đều kêu rằng: Tôi muốn uống nước! Tôi muốn uống nước! Người đó liền đem nước mát lạnh tùy theo từng người mà trao cho uống. Hoặc nói là ba-ni, hoặc nói là uất-đặt, hoặc nói là xa-ly-lam, hoặc nói là bà-ly, hoặc nói là ba-da, hoặc nói là cam-lồ, hoặc nói là ngu-nhũ, dùng vô lượng tên nước như vậy để nói với đại chúng. Cũng vậy, đức Như Lai dùng một thánh đạo vì hàng Thanh Văn mà diễn thuyết nhiều cách, từ Tín-căn v.v… đến bát thánh đạo.
Này thiện nam tử! Như thợ kim hoàn cùng một chất vàng tùy ý tạo làm các thứ trang sức: dây chuyền, vòng, xuyến, xoa, khoen tai, mão, ấn. Dầu làm nhiều thứ chẳng đồng nhưng chẳng rời chất vàng. Cũng vậy, đức Như Lai dùng một Phật đạo, tùy theo mọi loài chúng sanh mà phân biệt diễn thuyết. Hoặc nói một thứ, như nói chư Phật một đạo không  hai. Hoặc nói hai thứ là định và huệ. Hoặc nói ba thứ là kiến, trí và huệ. Hoặc nói bốn thứ là kiến đạo, tu đạo, vô học đạo, và Phật đạo. Hoặc nói năm thứ là tín hành đạo, pháp hành đạo, tín giải thoát đạo, kiến đáo đạo, thân chứng đạo. Lại nói sáu thứ là Tu Đà Hoàn đạo, Tu Đà Hàm đạo, A Na Hàm đạo, A La Hán đạo, Bích Chi Phật đạo, và Phật đạo. Lại nói bảy thứ là niệm giác phần, trạnh pháp giác phần, tinh tấn giác phần, hỷ giác phần, trú giác phần, định giác phần và xả giác phần. Lại nói tám thứ là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định. Lại nói chín thứ là bát thánh đạo và tín. Lại nói mười thứ là thập lực. Lại nói mười một thứ là thập lực và đại từ. Lại nói mười hai thứ là thập lực, đại từ và đại bi. Lại nói mười ba thứ là thập lực, đại từ, đại bi và niệm Phật tam muội. Lại nói mười sáu thứ là thập lực, đại từ, đại bi, niệm Phật tam muội và ba chánh niệm. Lại nói hai mươi đạo là thập lực, tứ vô sở úy, đại từ, đại bi, niệm Phật tam muội và ba chánh niệm.
Đạo chỉ là một thể, ngày trước đức Như Lai vì chúng sanh mà phân biệt diễn nói sai khác.
Này thiện nam tử! Như một thứ lửa, nhơn nơi chỗ nó đốt cháy mà có nhiều tên sai khác, như lửa cây, lửa cỏ, lửa trấu, lửa phân bò, lửa phân ngựa. Cũng vậy, Phật đạo chỉ là một không có hai, vì chúng sanh mà phân biệt sai khác.
Này thiện nam tử! Như một thức phân biệt nói có sáu, nếu đến nơi nhãn căn, thời gọi là nhãn thức, nhẫn đến nơi ý căn thời gọi là ý thức. Đạo cũng như vậy, chỉ là một không hai vì hóa độ chúng sanh mà phân biệt sai khác.
Này thiện nam tử! Như một sắc pháp, mắt thấy thời gọi là sắc, tai nghe thời gọi là tiếng, mũi ngửi thời gọi là mùi, lưỡi nếm thời gọi là vị, thân cảm giác thời gọi là xúc. Đạo cũng như vậy, là một không có hai, vì muốn hóa độ chúng sanh nên đức Như Lai phân biệt sai khác.
Do nghĩa này nên bát thánh đạo gọi là đạo thánh đế.
Này thiện nam tử! Bốn thánh đế này chư Phật theo thứ lớp mà giảng nói. Do đây vô lượng chúng sanh đặng thoát khỏi sanh tử."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Ngày trước có một lúc Phật ở trong rừng Thi Thủ trên bờ sông Hằng, đức Như Lai lấy lá cây bảo các Tỳ Kheo: Lá trong tay của ta đây là nhiều hay tất cả lá trên mặt địa cầu là nhiều? Các Tỳ Kheo bạch Phật tất cả lá trên địa cầu rất nhiều không thể tính đếm, lá trong tay Phật cầm rất ít không đáng kể. Phật bảo các Tỳ Kheo: những pháp mà ta giác ngộ nhiều như những lá cỏ cây trên địa cầu, còn pháp mà ta vì chúng sanh tuyên nói như mấy chiếc lá trong bàn tay.
Bạch Thế Tôn! Cứ theo lời của Phật, thời đức Như Lai rõ biết vô lượng pháp môn, nếu vào trong bốn thánh đế thời như đã nói, còn nếu chẳng vào nơi bốn thánh đế lẽ ra phải có năm đế."
Phật khen Ca Diếp Bồ Tát: "Lành thay! Lành thay! Lời hỏi của ông có thể lợi ích an vui vô lượng chúng sanh.
Này thiện nam tử! Những pháp môn như vậy đều đã nhiếp ở trong bốn thánh đế."
Ca Diếp Bồ Tát lại bạch Phật: "Những pháp như vậy ở trong bốn thánh đế cớ sao đức Như Lai xướng rằng chẳng nói?"
- "Này thiện nam tử! Dầu là nhiếp trong bốn thánh đế nhưng còn chẳng gọi là đã nói vì người rõ biết thánh đế có hai thứ trí: Một là trí bậc trung, hai là trí bậc thượng. Bậc trung là trí của Thanh Văn Duyên Giác. Bậc thượng là trí của chư Phật và Bồ Tát. Biết thân ngũ ấm là khổ thời gọi là trí bậc trung, phân biệt các ấm có vô lượng tướng thảy đều là khổ thời chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết được, đây gọi là trí bậc thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác ta trọn chẳng nói đến.
Này thiện nam tử! Biết các nhập gọi đó là môn cũng gọi là khổ, đây gọi là trí bậc trung. Phân biệt các nhập có vô lượng tướng thảy đều là khổ thời chẳng hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết được, đây gọi là trí bậc thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Này thiện nam tử! Biết các giới gọi đó là phần, cũng gọi là tánh, cũng gọi là khổ, đây gọi là trí bậc trung. Phân biệt các giới có vô lượng tướng thảy đều là khổ thời chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết được. Đây gọi là trí bậc thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Này thiện nam tử! Biết sắc là tướng hư hoại, đây là trí bậc trung. Phân biệt các sắc có vô lượng tướng hư hoại thảy đều là khổ, thời chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết được đây lại gọi là trí bậc thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Này thiện nam tử! Biết thọ là tướng giác xúc đây gọi là trí bậc trung. Phân biệt các thọ vô lượng tướng giác xúc thời chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết được, đây gọi là trí bậc thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Này thiện nam tử! Biết tưởng là chấp lấy tướng đây gọi là trí bậc trung. Phân biệt nơi tưởng có vô lượng tướng chấp lấy, thời chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết được, đây gọi là trí bậc thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác, ta cũng chẳng nói.
Này thiện nam tử! Biết hành là tướng tạo tác, đây gọi là trí bậc trung. Phân biệt nơi hành có vô lượng tướng tạo tác thời chẳng phải hành Thanh Văn, Duyên Giác biết được, đây gọi là trí bậc thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác, ta cũng chẳng nói.
Này thiện nam tử! Biết thức là tướng phân biệt, đây gọi là trí bậc trung. Phân biệt nơi thức có vô lượng trí tướng, thời chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết được, đây gọi là trí bậc thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Này thiện nam tử! Biết ái làm nhơn duyên có thể sanh năm ấm đây gọi là trí bậc trung. Một người sanh ra ái vô lượng vô biên, hàng Thanh Văn, Duyên Giác không biết được. Có thể biết tất cả chúng sanh khởi lên lòng có những ái như vậy đây gọi là trí bậc thượng. Những nghĩa ấy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Này thiện nam tử! Biết dứt phiền não đây gọi là trí bậc trung, phân biệt phiền não chẳng thể tính đếm, dứt diệt cũng chẳng thể tính đếm như vậy thời chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết được đây gọi là trí bậc thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Này thiện nam tử! Biết đạo có thể lìa phiền não đây gọi là trí bậc trung. Phân biệt đạo có vô lượng vô biên tướng, lìa phiền não cũng vô lượng vô biên thời chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giác biết được đây gọi là trí bậc thượng. Những nghĩa ấy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Này thiện nam tử! Biết thế đế gọi là trí bậc trung. Phân biệt đế thế vô lượng vô biên chẳng thể tính đếm thời chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giác biết được, đây gọi là trí bậc thượng. Những nghĩa ấy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói.
Này thiện nam tử! Tất cả hạnh vô thường, các pháp vô ngã, niết bàn tịch diệt, đây là đệ nhứt nghĩa, gọi là trí bậc trung. Biết đệ nhứt nghĩa vô lượng vô biên chẳng thể tính đếm thời chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giác biết được đây gọi là trí bậc thượng. Những nghĩa như vậy nơi các kinh khác ta cũng chẳng nói."
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Đức Phật nói thế đế và đệ nhứt nghĩa đế ý nghĩa thế nào? Bạch Thế Tôn trong đệ nhứt nghĩa đế có thế đế chăng? Trong thế đế có đệ nhứt nghĩa đế chăng? Nếu là có thời là một đế. Nếu là không, chừng có phải đức Như Lai hư vọng diễn thuyết chăng?"
- "Này thiện nam tử! Thế đế chính là đệ nhứt nghĩa đế."
- "Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thời không có hai đế."
- "Này thiện nam tử! Có phương tiện khéo tùy thuận chúng sanh diễn thuyết hai đế. Nếu cứ theo ngôn thuyết thời có hai thứ. Một là thế pháp, hai là xuất thế pháp.
Như chỗ biết của người xuất thế. Thời gọi là đệ nhứt nghĩa đế. Chỗ biết của người đời thời gọi là thế đế.
Này thiện nam tử! Năm ấm hòa hiệp gọi tên mỗ giáp. Phàm phu chúng sanh tùy theo tên gọi đó là thế đế. Hiểu biết năm ấm không có tên mỗ giáp, rời ngũ ấm cũng không có mỗ giáp, người xuất thế đúng như tánh tướng mà hiểu biết, gọi là đệ nhứt nghĩa đế.
Này thiện nam tử! Hoặc có pháp có tên có sự thiệt. Lại có pháp có tên không sự thiệt. Có tên không sự thiệt chính là thế đế. Có tên có sự thiệt là đệ nhứt nghĩa đế.
Như: ngã, chúng sanh, thọ mạng, tri kiến dưỡng dục, sĩ phu, tác giả, thọ giả, dương diệm, thành Càn Thát Bà, lông rùa, sừng thỏ, vòng lửa xây, các ấm, giới, nhập… đây gọi là thế đế. Khổ, tập, diệt, đạo, gọi là đệ nhứt nghĩa đế.
Thế pháp có năm thứ: một là danh thế, hai là cú thế, ba là phược thế, bốn là pháp thế, năm là chấp trước thế.
Nam, nữ, bình, áo, xe, nhà… những vật này gọi là danh thế.
Bốn câu thành một bài kệ, những bài kệ như vậy gọi là cú thế.
Cuốn, hiệp, trói, cột, chấp tay… đây gọi là phược thế.
Đánh kiền chùy nhóm tăng, chiêng trống răn quân lính, thổi ốc để biết giờ… đây gọi là pháp thế.
Như trông thấy đằng xa có người mặc y hoại sắc tưởng là Sa Môn chẳng phải Bà La Môn, thấy có người gút dây đeo trên thân bèn nghĩ rằng là Bà La Môn chẳng phải Sa Môn, đây là chấp trước thế.
Như trên đây gọi là năm thứ thế pháp.
Này thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào đối với năm thứ thế pháp như vậy tâm không điên đảo biết đúng sự thật đây gọi là đệ nhứt nghĩa đế.
Lại như hoặc đốt, hoặc cắt, hoặc chết, hoặc hoại, đây gọi là thế đế.
Không đốt, không cắt, không chết, không hoại, đây gọi là đệ nhứt nghĩa đế.
Lại có tám hướng khổ gọi là thế đế, không sanh, không già v.v…, đây gọi là đệ nhứt nghĩa đế.
Ví như một người có nhiều tài: Lúc họ chạy thời gọi là người chạy, lúc gặt cắt gọi là người gặt, lúc nấu nướng thời gọi là người làm đồ ăn, lúc cưa đẽo cây gỗ thời gọi là thợ mộc, lúc nấu đập vàng bạc thời gọi là thợ bạc. Chỉ có một người mà có nhiều danh hiệu. Pháp cũng như vậy, thiệt chỉ một mà có nhiều tên. Nhơn nơi cha mẹ hòa hiệp gọi là thế đế. Mười hai nhơn duyên hòa hiệp mà sanh gọi là đệ nhứt nghĩa đế."
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Thật đế của Phật nói ý nghĩa thế nào?"
- "Này thiện nam tử! Thật đế là pháp chơn thật. Nếu pháp chẳng phải chơn thời chẳng gọi là thật đế. Thật đế là không điên đảo. Thật đế không hư vọng. Thật đế gọi là đại thừa. Thật đế là lời của Phật nói chẳng phải lời của ma. Thật đế là đạo duy nhứt thanh tịnh không có hai, có thường, có lạc, có ngã, có tịnh, thời gọi là nghĩa thật đế."
Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: "Thế Tôn! Nếu cho chơn thật là thật đế thời pháp chơn thật tức là Như Lai, hư không, phật tánh. Nếu như vậy thời Như Lai, hư không và phật tánh không có sai khác!"
Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: "Có khổ có đế có thật. Có tập có đế có thật. Có diệt có đế có thật. Có đạo có đế có thật.
Này thiện nam tử! Như Lai chẳng phải khổ chẳng phải đế là "thật". Hư không chẳng phải khổ chẳng phải đế là "thật". Phật tánh chẳng phải khổ chẳng phải đế là "thật".
Khổ là tướng vô thường, là tướng dứt được đó là thật đế. Như Lai tánh chẳng phải khổ chẳng phải vô thường chẳng phải tướng dứt được vì thế nên gọi là thật. Hư không và phật tánh cũng như vậy.
Tập là có thể làm cho ngũ ấm hòa hiệp mà sanh, cũng gọi là khổ cũng gọi là vô thường, là tướng dứt được, đây là thật đế. Như Lai chẳng phải là tập, chẳng phải nhơn của ngũ ấm, chẳng phải tướng dứt được vì thế nên là thật. Hư không và phật tánh cũng như vậy.
Diệt là nói phiền não dứt, diệt cũng là thường, cũng là vô thường, hàng nhị thừa chứng đặng gọi là vô thường, chư Phật chứng đặng thời gọi là thường, cũng gọi là pháp chứng đặng, đây là thật đế. Như Lai tánh chẳng gọi là diệt, có thể dứt diệt phiền não, chẳng phải thường chẳng phải vô thường, chẳng gọi là chứng tri, thường trụ không biến đổi, vì thế nên là thật. Hư không và Phật tánh cũng như vậy.
Đạo là có thể dứt phiền não cũng là thường, cũng là vô thường, là pháp có thể tu tập, đây gọi là thật đế. Như Lai chẳng phải đạo có thể dứt phiền não, chẳng phải là thường chẳng phải vô thường, chẳng phải pháp có thể tu tập, thường trụ chẳng biến đổi, vì thế nên là thật. Hư không và Phật tánh cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Chơn thật chính là Như Lai. Như Lai chính là chơn thật. Hư không và Phật tánh cũng như vậy.
Này Văn Thù Sư Lợi có khổ, có khổ nhơn, có khổ tận, có khổ đối. Như Lai chẳng phải khổ nhẫn đến chẳng phải đối, vì thế nên là thật, chẳng gọi là đế. Hư không và Phật tánh cũng như vậy.
Khổ là hữu vi hữu lậu không an lạc. Như Lai chẳng phải hữu vi chẳng phải hữu lậu, đứng lặng an vui, nên là thật chẳng phải đế."
Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: "Thế Tôn! Như lời Phật nói chẳng điên đảo gọi là thật đế, nếu vậy trong tứ đế có bốn thứ điên đảo chăng? Nếu là có, sao lại nói rằng không có điên đảo gọi là thật đế! Tất cả điên đảo chẳng gọi là thật."
- "Này thiện nam tử! Tất cả điên đảo đều vào trong khổ đế. Như chúng sanh có tâm điên đảo thời gọi là điên đảo. Ví như có người chẳng lãnh thọ lời dạy răn của cha mẹ tôn trưởng, hoặc dầu lãnh thọ mà không tùy thuận thật hành, người này gọi là điên đảo. Điên đảo như vậy chẳng phải không là khổ mà chính là khổ."
Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: "Như lời Phật nói chẳng hư vọng chính là thật đế. Nếu như vậy thời biết rằng hư vọng chẳng phải thật đế."
- "Này thiện nam tử! Tất cả hư vọng đều vào trong khổ đế. Như có chúng sanh khi dối người khác, do nhơn duyên đầy đọa nơi địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, đây gọi là hư vọng, cũng chính là khổ. Những điều đó hàng Thanh Văn Duyên Giác cùng chư Phật đều xa lìa chẳng thật hành, vì thế nên gọi là hư vọng. Những điều hư vọng như vậy là chỗ dứt trừ của nhị thừa và chư Phật, nên gọi là thật đế."
Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: "Như lời Phật nói đại thừa là thật đế. Do đó biết rằng Thanh Văn thừa và Bích Chi Phật thừa thời là chẳng thật."
- "Này thiện nam tử! Hàng nhị thừa cũng là thật cũng là chẳng thật. Thanh Văn Duyên Giác dứt các phiền não thời gọi là thật. Hàng nhị thừa vô thường chẳng trụ pháp biến đổi nên gọi là chẳng thật."
Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: "Như lời Phật nói những pháp của đức Phật nói gọi là thật.
Do đó biết rằng lời nói của ma thời chẳng phải thật. Bạch Thế Tôn! Lời nói của ma có nhiếp trong thánh đế chăng?"
- "Này thiện nam tử! Lời nói của ma nhiếp trong hai đế là khổ và tập. Phàm tất cả những điều phi pháp phi luật không thể làm cho người được lợi ích, dầu cả ngày diễn nói cũng không có người nào thấy được khổ, dứt được tập, chứng được diệt, tu được đạo, đây gọi là hư vọng. Những điều hư vọng như vậy cũng đều là lời nói của ma."
Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: "Như lời Phật nói đạo duy nhứt thanh tịnh không có hai. Các phái ngoại đạo cũng nói ta có đạo duy nhứt thanh tịnh không hai. Nếu cho rằng đạo duy nhứt là thật đế thời cùng với ngoại đạo kia có sai khác gì. Nếu không sai khác thời lẽ ra chẳng nên nói rằng đạo duy nhứt thanh tịnh."
- "Này thiện nam tử! Các phái ngoại đạo có khổ đế và tập đế mà không diệt đế và đạo đế. Ở trong chẳng phải diệt đế chẳng phải đạo đế, mà họ tưởng là diệt đạo. Ở trong chẳng phải quả chẳng phải nhơn, mà họ tưởng là quả là nhơn. Do nghĩa này nên họ không có đạo duy nhứt thanh tịnh không hai."
Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: "Như lời Phật nói có: thường, lạc, ngã, tịnh là thật nghĩa, thời các phái ngoại đạo lẽ ra cũng có thật đế mà trong Phật pháp thời không. Vì các phái ngoại đạo nói hạnh là thường. Thế nào là thường? Vì khả ý, bất khả ý, các nghiệp báo v.v… Khi thọ rồi thời chẳng mất. Khả ý là nói mười báo lành. Bất khả ý là nói mười báo chẳng lành. Nếu cho rằng các hạnh thảy đều vô thường, kẻ tạo nghiệp đã chết mất thời ai ở nơi kia mà thọ quả báo. Do nghĩa này nên các hạnh là thường. Sát sanh nhơn duyên gọi là thường. Nếu cho rằng vô thường thời kẻ giết cùng bị giết đều vô thường cả, còn ai ở nơi địa ngục mà thọ tội báo. Nếu nói quyết định có địa ngục thọ báo, thời các hạnh thiệt chẳng phải vô thường. Chuyên tâm ghi nhớ cũng gọi là thường, như chỗ nhớ biết trải qua mười năm nhẫn đến trăm năm cũng chẳng quên mất, vì thế nên là thường. Nếu là vô thường thời những việc đã thấy biết lấy gì để nhớ. Do cớ ấy nên tất cả các hạnh chẳng phải là vô thường. Tất cả sự tưởng nhớ cũng là thường. Như có người ngày trước thấy tay chân mặt mày đầu cổ của người khác, lúc sau gặp lại liền nhớ biết. Nếu là vô thường thời những tướng thấy biết ngày trước lẽ ra đã diệt mất. Nghề nghiệp tạo tác do học tập từ lâu, hoặc ba năm hoặc năm năm rồi sau mới giỏi, nên gọi là thường. Phương pháp tính đếm từ một, hai, ba nhẫn đến trăm ngàn, nếu là vô thường lẽ ra một phải diệt, nếu một đã diệt thời lấy chi đến hai. Do một chẳng diệt nên được đến hai, nhẫn đến trăm ngàn, vì thế nên là thường. Như phương pháp đọc tụng: đọc Nhứt A Hàm rồi đến Nhị A Hàm, nhẫn đến tam tứ A Hàm. Nếu là vô thường thời chỗ đọc tụng trọn chẳng đến bốn. Do sự đọc tụng có tăng trưởng nên gọi là thường. Bình, y, xe cộ, như người mang nợ, hình tướng, địa cầu, núi, sông, cây rừng, cây cỏ, lá thuốc, chúng sanh trị bệnh tất cả đều là thường cũng như vậy. Các phái ngoại đạo đều nói rằng các hạnh là thường. Nếu là thường thời là thật đế.
Bạch Thế Tôn! Các phái ngoại đạo lại nói lạc. Thế nào biết rằng có? Vì người thọ quyết định đặng báo khả ý. Phàm người thọ lạc quyết định đặng đó. Như Đại Phạm Thiên Vương, Đại Tự Tại Thiên, Thích Đề Hoàn Nhơn, và chư Thiên. Do nghĩa này nên nói rằng quyết định có lạc. Lại vì chúng sanh mong cầu nên ngoại đạo nói rằng có lạc. Như người đói cầu ăn, người khát cầu uống, người lạnh cầu ấm, người nóng cầu mát, người mệt nhọc cầu nhơi nghỉ, người bệnh cầu lành. Nếu không có lạc thời những người kia duyên cớ gì mà cầu. Do vì có người cầu nên biết rằng có lạc.
Các phái ngoại đạo lại cho rằng bố thí có thể đặng lạc. Người đời ưa bố thí cho Sa Môn, Bà La Môn và kẻ nghèo cùng khốn khổ những y phục, vật thực, giường ghế, thuốc thang, voi ngựa, xe cộ, hương bột, hương thoa, nhà cửa, đèn đuốc. Bố thí những thứ như vậy vì muốn đời sau tôi được thọ báo khả ý. Vì thế nên biết rằng quyết định có lạc.
Có phái ngoại đạo nói rằng người thọ lạc vì nhơn duyên nên có lạc xúc. Nếu không lạc đâu thành có nhơn duyên, như sừng thỏ không có, thời không nhơn duyên. Vì có nhơn duyên lạc, nên biết rằng có lạc.
Ngoại đạo lại nói lạc có thượng, trung và hạ. Thọ lạc bậc hạ như Thích Đề Hoàn Nhơn. Thọ lạc bậc trung như Đại Phạm Thiên Vương. Thọ lạc bậc thượng như Đại Tự Tại Thiên. Vì thế nên biết rằng có lạc.
Ngoại đạo lại nói rằng có tịnh. Nếu không tịnh thời lẽ ra chẳng sanh lòng mong muốn. Vì có mong muốn nên biết là có tịnh. Như vàng bạc, châu báu, lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, san hô, chơn châu, bích ngọc, kha bối, suối mát, ao tắm, vật thực, y phục, hoa hương, đèn đuốc, những vật như vậy đều là tịnh. Họ lại nói thân ngũ ấm chính là tịnh khí đựng những tịnh vật như thân người, Trời, tiên, A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư Phật. Do nghĩa này nên gọi là tịnh.
Có phái ngoại đạo lại nói rằng có ngã vì có thấy biết vì có thể tạo tác. Như có người vào nhà thợ gốm, dầu chẳng thấy thân người thợ nhưng vì thấy khí cụ nên biết quyết định nhà đó là nhà thợ gốm. Ngã cũng như vậy, do mắt thấy sắc biết chắc là có ngã. Nếu không có ngã thời ai có thể thấy sắc? Nghe tiếng nhẫn đến giác xúc cũng như vậy. Họ lại nói có ngã. Làm sao biết rằng có? Vì do nơi tướng mà biết: thở, ngáy, ngó nháy, mạng sống, móng tâm, lãnh thọ sự khổ vui, tham cầu, giận hờn, đều là tướng của ngã. Vì thế nên biết quyết định của ngã.
Ngoại đạo lại nói rằng có ngã, vì phân biệt được mùi vị: như có người ăn trái cây, thấy trái biết mùi vị. Do đây nên biết quyết định có ngã.
Ngoại đạo lại nói vì có chấp tác làm việc nên biết là có ngã: như cầm lưỡi liềm thời có thể cắt gặt, cầm búa thời có thể chặt, cầm bình thời đựng nước, ngồi xe thời cầm cương, do đó nên biết quyết định có ngã. Ngoại đạo lại nói lúc mới sanh biết đòi bú đó là do tập quán đời trước, nên biết quyết định có ngã.
Ngoại đạo lại nói vì hòa hiệp lợi ích chúng sanh khác nên biết rằng có ngã. Như bình, y, xe cộ, ruộng nhà, núi rừng, cây cối, voi ngựa, trâu, dê những vật như vậy nếu hòa hiệp thời có sự lợi ích. Năm ấm trong thân người cũng như vậy: nhãn căn, v.v… Vì có hòa hiệp thời có sự lợi ích cho người, do đó biết quyết định có ngã.
Ngoại đạo lại nói có ngã vì rằng có sự vật ngăn ngại. Như có vật thời có ngăn ngại nếu không vật thời không ngăn ngại. Vì có ngăn ngại nên biết quyết định có ngã.
Ngoại đạo lại nói vì có bạn cùng chẳng phải bạn nên biết là có ngã. Như thân yêu cùng chẳng phải thân yêu thời chẳng phải là bạn. Chánh pháp với tà pháp, trí với chẳng trí, Sa Môn cùng chẳng phải Sa Môn, Bà La Môn với chẳng phải Bà La Môn, con cùng chẳng phải con, ngày với chẳng phải ngày, đêm với chẳng phải đêm, ngã với chẳng phải ngã, các pháp như vậy là bạn và chẳng phải bạn, do đó nên biết quyết định có ngã.
Bạch thế tôn! Các phái ngoại đạo nhiều cách nói có thường, lạc, ngã, tịnh, nên biết quyết định có thường, lạc, ngã, tịnh. Do nghĩa đó nên các phái ngoại đạo cũng nói được rằng: Ta có chơn đế."
Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: "Nếu có Sa Môn hay Bà La Môn mà có thường, có lạc, có ngã, có tịnh, thời người đó chẳng phải là Sa Môn chẳng phải là Bà La Môn. Vì họ mê nơi sanh tử xa lìa bậc đại đạo sư nhứt thế trí. Hàng Sa Môn và Bà La Môn như vậy thiếu kém pháp lành tham đắm các dục nhiễm. Hàng ngoại đạo này ràng buộc trong ngục tham dục, sân khuể, ngu si mà kham nhẫn thọ lạc. Các ngoại đạo này dầu biết nghiệp quả mình làm mình chịu, nhưng còn chẳng thể xa lìa pháp ác . Hàng ngoại đạo này chẳng phải là chánh pháp, chánh mạng, để tự sống, vì họ không có lửa trí huệ nên chẳng thể tiêu được vậy.
Các phái ngoại đạo dầu tham đắm ngũ dục thượng diệu, tham nơi pháp lành nhưng chẳng siêng tu. Ngoại đạo này dầu muốn đến chánh giải thoát, nhưng trì cấm giới chẳng thành tựu. Các ngoại đạo này dầu muốn cầu vui nhưng chẳng có thể cầu nhơn duyên của vui. Các ngoại đạo này dầu bị bốn rắn độc lớn đeo vấn nhưng vẫn phóng dật chẳng cẩn thận. Các ngoại đạo này bị vô minh che đậy, xa lìa phương pháp lành, thích ở trong tam giới, lửa vô thường đốt cháy mà chẳng thể ra được. Các ngoại đạo này gặp những bệnh phiền não khó lành mà họ chẳng cầu bậc lương y đại trí. Các ngoại đạo này thuở vị lai sẽ đi trên đường xa hiểm vô biên, mà chẳng biết tu tập tư-lương pháp lành để tự trang nghiêm. Các ngoại đạo này thường bị tay độc dâm dục làm hại mà trở lại ôm ấp rương độc ngũ dục. Các ngoại đạo này giận hờn hung dữ mà trở lại gần gũi bạn ác. Các ngoại đạo này thường bị vô minh che đậy mà trở lại tìm cầu pháp tà ác. Các ngoại đạo này thường bị tà kiến mê lầm mà trở lại thân thiện với tà kiến. Các ngoại đạo này trông mong ăn trái ngọt mà lại gieo giống đắng. Các ngoại đạo này đã ở trong nhà tối phiền não mà trở lại xa lìa đuốc sáng đại trí. Các ngoại đạo này mang bệnh khát phiền não mà trở lại uống nước mặn đục nhiễm. Các ngoại đạo này mê lầm điên đảo nói các hạnh là thường. Cho các hạnh là thường thời không đúng.
Này thiện nam tử! Đức Phật quan sát các hạnh thảy đều vô thường. Tại sao biết như vậy? Vì các hạnh đều do nhơn duyên. Phàm những pháp do nhơn duyên mà sanh thời biết là vô thường. Các ngoại đạo này không có một pháp gì chẳng từ nhơn duyên sanh.
Này thiện nam tử! Phật tánh không sanh không diệt, không đi không đến, chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải do nhơn làm ra cũng chẳng phải không nhơn, chẳng phải tu tác, chẳng phải tác giả, chẳng phải tướng chẳng phải không tướng, chẳng phải có danh chẳng phải không danh, chẳng phải danh sắc, chẳng phải dài ngắn, chẳng phải nhiếp trì trong ấm, giới, nhập. Vì thế nên Phật tánh gọi là thường.
Này thiện nam tử! Phật tánh là Như Lai, Như Lai là pháp, pháp là thường.
Này thiện nam tử! Thường là Như Lai, Như Lai là Tăng, Tăng là thường.
Do nghĩa này nên những pháp từ nhơn duyên mà sanh chẳng gọi là thường. Các ngoại đạo này không có một pháp gì chẳng từ nhơn duyên mà sanh. Các ngoại đạo này chẳng thấy Phật tánh, Như Lai là pháp. Vì thế nên lời nói của ngoại đạo đều là vọng ngữ, không có chơn đế.
Người phàm phu lúc trước thấy bình, y, xe cộ, nhà cửa, thành quách, nước sông, rừng núi, nam nữ, voi ngựa, trâu dê, lúc sau thấy tương tự bèn nói là thường, phải biết những vật ấy thiệt chẳng phải là thường.
Này thiện nam tử! Tất cả pháp hữu vi đều là vô thường. Pháp vô vi là thường. Hư không và Phật tánh là vô vi nên là thường. Hư không tức là Phật tánh, Phật tánh là Như Lai, Như Lai là vô vi, vô vi là thường. Thường là pháp, pháp là tăng, tăng là vô vi, vô vi là thường.
Này thiện nam tử! Có hai thứ pháp hữu vi: Một là sắc pháp hai là phi sắc pháp. Phi sắc pháp là tâm và tâm sở. Sắc pháp là địa thủy hỏa phong.
Này thiện nam tử! Tâm gọi là vô thường vì tánh nó phan-duyên phân biệt. Tánh của nhãn thức khác, nhẫn đến tánh của ý thức khác, nên là vô thường. Cảnh giới sắc khác, nhẫn đến cảnh giới pháp khác, nên là vô thường.
Này thiện nam tử! Nếu tâm là thường thời nhãn thức lẽ ra một mình duyên tất cả pháp. Nếu nhãn thức khác, nhẫn đến ý thức khác, thời biết là vô thường. Bởi các pháp tương tự niệm niệm sanh diệt, người phàm phu thấy đó chấp cho là thường.
Này thiện nam tử! Vì các tướng nhơn duyên có thể phá hoại, nên cũng gọi là vô thường. Như nhơn nhãn căn, nhơn sắc, nhơn ánh sáng, nhơn tư duy mà sanh nhãn thức. Lúc nhĩ thức sanh ra nhơn duyên đều khác chẳng phải là nhơn duyên của nhãn thức, nhẫn đến nhơn duyên của ý thức cũng khác như vậy.
Này thiện nam tử! Nhơn duyên phá hoại các hạnh sai khác, nên tâm gọi là vô thường. Như tâm tu vô thường khác, tâm tu khổ, không, vô ngã khác. Nếu tâm là thường lẽ ra thường tu vô thường. Còn chẳng đặng quán khổ, không, vô ngã huống lại quán thường, lạc, ngã, tịnh. Do nghĩa này nên trong giáo pháp của ngoại đạo chẳng có thể nhiếp lấy thường, lạc, ngã, tịnh, phải biết tâm pháp quyết định là vô thường.
Này thiện nam tử! Vì tâm tánh sai khác nên gọi là vô thường. Như tâm tánh Thanh Văn khác, tâm tánh Duyên Giác khác, tâm tánh chư Phật khác.
Tất cả ngoại đạo có ba thứ tâm: Một là tâm xuất gia, hai là tâm tại gia, ba là tâm xa lìa tại gia. Tâm tương ứng với lạc khác, tâm tương ứng với khổ khác, tâm tương ứng với bất khổ bất lạc khác, tâm tương ứng với tham dục khác, tâm tương ứng với sân khuể khác, tâm tương ứng với ngu si khác. Tâm tướng của tất cả ngoại đạo cũng khác: các tâm tương ứng với ngu si, nghi hoặc cùng tà kiến đều khác, lúc đi đứng nằm ngồi tâm đó cũng khác. Nếu tâm là thường thời lẽ ra chẳng phân biệt được các sắc như xanh, vàng, đỏ, trắng, tía. Nếu tâm là thường lẽ ra chẳng quên những việc đã từng ghi nhớ. Nếu tâm là thường thời sự đọc tụng lẽ ra chẳng tăng trưởng. Nếu tâm là thường lẽ ra chẳng nên nói rằng: đã làm, đương làm, sẽ làm. Nếu có đã làm, đương làm, sẽ làm thời biết rằng tâm này quyết định là vô thường. Nếu tâm là thường thời không có oán thù thân ái cũng chẳng oán chẳng thân. Nếu tâm là thường thời chẳng nên nói rằng vật của tôi, vật của người, hoặc sống hoặc chết. Nếu tâm là thường thời dầu có tạo tác lẽ ra chẳng tăng trưởng. Do những nghĩa đó, nên biết tâm tánh mỗi mỗi đều sai khác. Vì sai khác nên biết là vô thường.
Này thiện nam tử! Nay đức Phật ở trong tâm pháp này diễn nói nghĩa vô thường, đã rõ, vì ông mà nói sắc là vô thường. Sắc này vô thường vốn không có sanh, vì sanh đã diệt. Lúc thân ở thai bào vốn không có sanh, vì sanh đã biến đổi. Các mầm cây vốn không có sanh, vì sanh đã biến đổi. Do đó biết rằng, tất cả sắc pháp thảy đều vô thường.
Này thiện nam tử! Sắc thân tùy theo thời gian mà biến đổi: lúc tượng thai nhẫn đến lúc mới sanh đều đổi khác. Lúc thơ bé, lớn khôn nhẫn đến tuổi già luôn luôn đổi khác. Lúc nẩy mầm, lên cây, mọc nhánh sanh lá, trổ bông, kết trái đều đổi khác.
Này thiện nam tử! Chất vị ở trong cũng đổi khác, lúc tượng thai nhẫn đến lúc già luôn luôn biến đổi. Mầm cây, nhánh, lá, hoa, trái, chất vị cũng đều đổi khác. Sức lực lúc tượng thai nhẫn đến sức lực lúc tuổi già đều đổi khác. Trạng mạo lúc tượng thai nhẫn đến trạng mạo lúc tuổi già đều đổi khác. Quả báo lúc tượng thai nhẫn đến quả báo lúc tuổi già cũng khác. Danh tự lúc tượng thai nhẫn đến danh tự lúc tuổi già cũng sai khác. Sắc thân có hoại có hiệp nên biết là vô thường. Cây cối cũng có hoại có hiệp nên biết là vô thường. Thứ đệ sanh lần lần, như lúc tượng thai sanh lần lần đến tuổi già. Lúc nẩy mầm sanh lần lần đến khi kết trái. Vì thế nên biết là vô thường vì những sắc pháp có thể hoại diệt, như lúc tượng thai hoại diệt nhẫn đến lúc tuổi già hoại diệt đều sai khác, lúc nẩy mầm hoại diệt nhẫn đến lúc kết trái đều hoại diệt nên biết là vô thường. Người phàm phu không hiểu biết thấy tương tự sanh ra chấp cho là thường. Do những nghĩa này nên gọi là vô thường. Đã là vô thường thời chính là khổ, đã là khổ thời chính là bất tịnh.
Này thiện nam tử! Các hạnh đều không có ngã. Tổng tất cả pháp không ngoài hai thứ: sắc và tâm. Sắc không phải ngã, vì sắc có thể phá có thể hoại, có thể vỡ có thể đập, có thể tăng trưởng. Ngã thời chẳng thể phá hoại vỡ đập sanh trưởng. Do nghĩa này nên biết sắc chẳng phải là ngã.
Tâm cũng chẳng phải ngã vì do nhơn duyên mà sanh khởi. Các ngoại đạo do chuyên niệm mà biết là có ngã. Tánh chuyên niệm thiệt ra chẳng phải ngã. Nếu cho chuyên niệm là ngã, những việc quá khứ có lúc quên mất, vì có quên mất nên quyết định biết là không ngã. Nếu các ngoại đạo do ức tưởng mà biết là có ngã, vì có lúc không ức tưởng nên quyết định biết là không ngã. Như nói: thấy người bàn tay có sáu ngón, bèn hỏi rằng chúng ta ngày trước gặp nhau ở chỗ nào. Nếu là có ngã thời chẳng nên lại hỏi. Vì hỏi nhau nên quyết định biết là không ngã.
Nếu các ngoại đạo cho rằng vì có ngăn ngại mà biết là có ngã. Xét ra vì có ngăn ngại nên quyết định biết là vô ngã, như nói Điều Đạt thời trọn chẳng nói rằng không phải Điều Đạt. Cũng vậy, nếu ngã quyết định là ngã thời trọn chẳng ngăn ngại ngã. Nhưng vì cũng ngăn ngại ngã nên quyết định biết là vô ngã. Nếu vì ngăn ngại mà biết là có ngã, nay ông chẳng ngăn ngại đáng lẽ là không ngã!
Này thiện nam tử! Nếu các ngoại đạo cho rằng vì bạn cùng chẳng phải bạn mà biết rằng có ngã. Cứ nơi thuyết này mà suy, vì không bạn lẽ ra không có ngã. Có những pháp không bạn: Như Lai, hư không, Phật tánh, Ngã cũng như vậy thiệt không có bạn. Do vì nghĩa này nên quyết định biết là không ngã.
Này thiện nam tử! Nếu có ngoại đạo cho rằng vì có danh tự mà biết là có ngã. Trong pháp không ngã cũng có danh tự ngã: như người nghèo hèn mà tên là Phú Quý. Như nói ta chết, nếu ta chết thời là ta giết ta, nhưng ngã thiệt chẳng có thể giết, giả danh là giết ngã. Cũng như người lùn mà tên là Trưởng Giả. Do nghĩa này nên quyết định biết không ngã.
Này thiện nam tử! Nếu các ngoại đạo cho rằng vì người mới sanh đã biết đòi bú nên biết có ngã. Nếu có ngã thời tất cả trẻ thơ chẳng nên bốc phẩn, đất, lửa, rắn, thuốc độc. Do nghĩa này nên quyết định biết không ngã.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh đối với ba pháp: dâm dục, uống ăn, kinh sợ đều có sự hiểu biết đồng nhau, vì thế nên không có ngã.
Này thiện nam tử! Nếu các ngoại đạo cho rằng vì có tướng mạo mà biết là có ngã. Vì có tướng thời không có ngã, không có tướng cũng là không ngã. Như lúc ngủ, người không thể đi đứng ngước cúi nhìn ngó, chẳng biết khổ biết vui, như thế thời đáng lẽ không có ngã. Nếu cho rằng vì có đi đứng cúi ngước mà biết là có ngã, thời người máy lẽ ra cũng có ngã.
Như Lai chẳng đi, chẳng đứng, chẳng cúi, chẳng ngước, chẳng nhìn, chẳng ngó, không khổ, không vui, chẳng tham sân si, Như Lai như vậy mà có ngã chơn thật.
Này thiện nam tử! Nếu các ngoại đạo vì thấy người khác ăn trái cây, trong miệng mình sanh nước miếng, nên biết là có ngã. Do vì nhớ tưởng thấy thời sanh nước miếng, nước miếng chẳng phải ngã, ngã cũng chẳng phải là nước miếng, chẳng phải vui buồn, chẳng phải ngáp, chẳng phải cười, chẳng phải nằm, chẳng phải đứng, chẳng phải đói, chẳng phải no. Do nghĩa này nên quyết định biết là không ngã.
Này thiện nam tử! Các ngoại đạo ấy ngu si như trẻ nít không có trí huệ phương tiện chẳng hiểu thấu được thường cùng vô thường, khổ vui, tịnh bất tịnh, ngã vô ngã, thọ mạng phi thọ mạng, chúng sanh phi chúng sanh, thật phi thật, hữu phi hữu. Ở trong Phật pháp họ lấy chút ít phần rồi vọng chấp là có thường, lạc, ngã, tịnh, như người sanh-manh chẳng biết màu sữa, bèn hỏi người khác rằng màu sữa giống như thứ gì? Người khác đáp: Màu sữa trắng như vỏ ốc.
Người sanh-manh lại hỏi: Thế thì màu sữa như tiếng thổi ốc ư?
Đáp: không phải.
Người sanh-manh lại hỏi màu ốc giống thứ gì?
- Màu ốc trắng như hột gạo.
Người sanh manh nghe nói cho rằng màu sữa mịn nhuyễn như bột gạo. Khi biết không phải lại hỏi.
Người khác đáp: màu sữa trắng như tuyết.
Người sanh-manh lại cho rằng màu sữa lạnh lẽo như tuyết.
Người khác lại bảo màu sữa trắng như lông chim bạch hạc.
Người sanh manh ấy dầu nghe cả bốn thứ thí dụ tỉ lệ, nhưng trọn chẳng biết được màu sắc thiệt của sữa.
Cũng vậy các ngoại đạo này trọn không thể biết được thường, lạc, ngã, tịnh. Do nghĩa này trong Phật pháp của ta có chơn thật đế, không phải hàng ngoại đạo có được."
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch Phật: "Hy hữu thay! Hôm nay đức Như Lai sắp nhập niết bàn phương tiện chuyển pháp luân vô thượng, bèn phân biệt chơn thật đế như vậy."
Phật bảo Văn Thù Sư Lợi: "Nay ông cớ sao ở nơi đức Như Lai mà sanh quan niệm nhập Niết Bàn. Này thiện nam tử! Như Lai thiệt là thường trụ chẳng biến đổi chẳng nhập Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai trọn chẳng có quan niệm ta là Phật, ta thành vô thượng chánh giác, ta chính là pháp, pháp là cái có của ta, ta là đạo, đạo là của ta có, ta là Thế Tôn, Thế Tôn là của ta, ta là Thanh Văn, Thanh Văn là của ta, ta có thể thuyết pháp làm cho người khác nghe và thọ trì, ta chuyển pháp luân, người khác không chuyển được. Đức Như Lai trọn không có quan niệm như vậy nên đức Như Lai chẳng chuyển pháp luân.
Này thiện nam tử! Như Lai không có những quan niệm ta thấy biết, sự thấy biết là của ta, tai nghe, mũi ngửi v.v… cũng như vậy, ta là sắc, sắc là của ta, thinh, hương nhẫn đến pháp cũng như vậy, ta là địa đại, địa đại là của ta, thủy hỏa phong đại cũng như vậy. Như Lai cũng không có những quan niệm ngã là tín là đa văn, tín và đa văn là của ta, ta là đàn-ba-la-mật, là thi-ba-la-mật, nhẫn đến là bát-nhã ba-la-mật, đàn-ba-la-mật nhẫn đến bát-nhã-ba-la-mật là của ta, ta là tứ niệm xứ là tứ chánh cần, nhẫn đến là bát thánh đạo, tứ niệm xứ nhẫn đến bát chánh đạo là của ta. Như Lai trọn chẳng có những quan niệm như vậy, nên Như Lai chẳng chuyển pháp luân.
Này thiện nam tử! Nếu nói thường trụ không biến đổi, sao lại nói rằng Phật chuyển pháp luân! Vì thế nên ông chẳng nên nói rằng đức Như Lai phương tiện chuyển pháp luân.
Này thiện nam tử! Như nhơn nhãn căn sắc trần, ánh sáng và tư duy hòa hiệp sanh ra nhãn thức. Nhãn căn chẳng nghĩ rằng ta sanh ra thức, sắc, ánh sáng và tư duy cũng chẳng nghĩ rằng ta sanh nhãn thức, nhãn thức cũng chẳng nghĩ rằng ta có thể tự sanh. Những pháp như vậy nhơn duyên hòa hợp đặng gọi là thấy. Cũng vậy, đức Như Lai nhơn sáu ba-la-mật cùng ba mươi bảy pháp trợ đạo mà giác ngộ rõ thấu các pháp. Lại nhơn yết hầu, lưỡi răng, môi miệng có ra lời ra tiếng, vì các ông Kiều Trần Như v.v… mà thuyết pháp lần đầu tiên, gọi đó là chuyển pháp luân. Do nghĩa này nên đức Như Lai chẳng gọi là chuyển pháp luân.
Này thiện nam tử! Nếu chẳng chuyển thời gọi là pháp, pháp là Như Lai. Như do bùi nhùi, do cọ xát, do tay, do phân bò khô mà có lửa sanh ra. Bùi nhùi v.v… đều chẳng nghĩ rằng ta sanh ra lửa . Lửa cũng chẳng nói rằng ta có thể tự sanh. Cũng vậy đức Như Lai nhơn sáu ba-la-mật v.v… vì các ông Kiều Trần Như thuyết pháp gọi là chuyển pháp luân, đức Như Lai trọn chẳng nghĩ rằng ta chuyển pháp luân. Nếu chẳng nghĩ tưởng như vậy thời gọi đó là chuyển chánh pháp luân. Chuyển pháp luân như vậy bèn gọi là Như Lai.
Như do nơi chất lạc, nước, khuấy, bình, giây, tay người mà có chất tô sanh ra. Lạc v.v… chẳng nghĩ rằng ta sanh ra tô. Tô cũng chẳng nói rằng ta có thể tự sanh ra. Do các duyên hòa hiệp nên sanh ra chất tô. Cũng vậy, đức Như Lai trọn chẳng nghĩ rằng ta chuyển pháp luân. Nếu chẳng nghĩ như vậy, thời gọi đó là chuyển chánh pháp luân. Chuyển pháp luân như vậy thời là Như Lai.
Này thiện nam tử! Như do hột giống, đất, nước, phân, hơi nóng, gió, thời gian, công tác của người mà có mầm mọc lên. Hột giống v.v… chẳng nghĩ rằng ta sanh ra mầm. Mầm cũng chẳng nói rằng ta có thể tự sanh. Cũng vậy đức Như Lai trọn chẳng nghĩ rằng ta chuyển pháp luân. Nếu chẳng nghĩ như vậy thời gọi đó là chuyển chánh pháp luân. Chuyển pháp luân như vậy thời là Như Lai.
Này thiện nam tử! Như do trống, khoảng không, da, dùi, người hòa hiệp nhau mà sanh ra tiếng, trống v.v… chẳng nghĩ rằng ta sanh ra tiếng. Tiếng cũng chẳng nói rằng ta có thể tự sanh.
Cũng vậy, đức Như Lai trọn chẳng nghĩ rằng ta chuyển pháp luân. Chẳng nghĩ như vậy thời gọi là chuyển chánh pháp luân. Chuyển pháp luân như vậy thời là Như Lai.
Này thiện nam tử! Chuyển pháp luân là cảnh giới của chư Phật Thế Tôn chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giác biết được.
Này thiện nam tử! Hư không chẳng phải sanh, chẳng phải xuất, chẳng phải tạo tác chẳng phải pháp hữu vi. Cũng vậy, Như Lai chẳng phải sanh, xuất, tạo tác, chẳng phải pháp hữu vi. Phật tánh cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Chư Phật Thế Tôn lời thuyết giáo có hai thứ: một là thế ngữ hai là xuất thế ngữ. Đức Như Lai vì hàng Thanh Văn Duyên Giác dùng thế ngữ để thuyết giáo. Vì các vị Bồ Tát nói xuất thế ngữ.
Này thiện nam tử! Hàng đại chúng nghe pháp cũng có hai hạng: Một là hạng cầu tiểu thừa, hai là hạng cầu đại thừa. Ngày trước ở thành Ba La Nại ta chuyển pháp luân cho hàng Thanh Văn. Nay ở thành Câu Thi Na này mới vì các vị đại pháp luân.
Này thiện nam tử! Lại có hai hạng người trung căn và thượng căn. Vì hạng trung căn ở thành Ba La Nại ta chuyển pháp luân. Vì hạng thượng căn như Ca Diếp Bồ Tát v.v… ở nơi thành Câu Thi Na này ta chuyển đại pháp luân.
Này thiện nam tử! Hạng tột hạ căn đức Như Lai trọn chẳng chuyển pháp luân cho họ. Hạng tột hạ căn tức là nhứt xiển đề.
Này thiện nam tử! Người cầu Phật đạo có hai hạng: Một là hạng trung tinh tấn, hai là hạng thượng tinh tấn. Như Lai ở thành Ba La Nại vì hạng trung tinh tấn mà chuyển pháp luân. Nay ở thành Câu Thi Na này chuyển đại pháp luân cho hạng thượng tinh tấn.
Này thiện nam tử! Ngày trước Như Lai ở thành Ba La Nại, chuyển pháp luân lần đầu tiên, có tám muôn thiên nhơn chứng đặng quả Tu Đà Hoàn. Nay trong hội thuyết pháp tại thành Câu Thi Na này, có tám mươi muôn ức người chứng bậc bất thối chuyển vô thượng Bồ Đề.
Này thiện nam tử! Ngày trước ở thành Ba La Nại, Đại Phạm Thiên Vương đảnh lễ thỉnh Phật chuyển pháp luân. Nay tại thành Câu Thi Na này, Ca Diếp Bồ Tát đảnh lễ thỉnh Phật chuyển đại pháp luân.
Này thiện nam tử! Ngày trước ở thành Ba La Nại lúc chuyển pháp luân Phật giảng thuyết về vô thường, khổ, không, và vô ngã. Nay tại thành Câu Thi Na này Như Lai giảng thuyết về thường, lạc, ngã và tịnh.
Này thiện nam tử! Ngày trước ở thành Ba La Nại, lúc thuyết pháp tiếng nói của Phật nghe xa đến trời Phạm Thiên. Nay tại thành Câu Thi Na này, lúc chuyển pháp luân tiếng của Phật khắp đến hai mươi hằng hà sa thế giới ở mười phương.
Này thiện nam tử! Chư Phật Thế Tôn phàm có lời nói ra đều gọi là chuyển pháp luân.
Ví như Chuyển Luân Thánh Vương có luân bảo, kẻ chưa hàng phục có thể làm cho hàng phục, người đã hàng phục có thể làm cho an ổn. Chư Phật Thế Tôn phàm có thuyết pháp cũng như vậy. Vô lượng phiền não người chưa điều phục có thể làm cho điều phục, người đã điều phục làm cho sanh căn lành.
Ví như Chuyển Luân Thánh Vương có luân bảo có thể phá tan tất cả oán tặc. Cũng vậy, đức Như Lai thuyết pháp có thể làm cho tất cả giặc phiền não thảy đều tịch tịnh.
Ví như Chuyển Luân Thánh Vương có luân bảo trên dưới xoay chuyển. Cũng vậy, Như Lai thuyết pháp có thể làm cho các chúng sanh ở ác thú sanh lên cõi trời cõi người nhẫn đến thành Phật đạo. 
Này thiện nam tử! Vì thế nên nay ông chẳng nên khen rằng đức Như Lai ở nơi đây lại chuyển pháp luân."
Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Đối với nghĩa này chẳng phải là tôi không biết. Hỏi Phật là vì muốn lợi ích cho những chúng sanh. Từ lâu tôi đã biết chuyển pháp luân thiệt là cảnh giới của chư Phật Như Lai, chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giác biết được."
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Này thiện nam tử! Đây gọi là Bồ Tát trụ nơi kinh Đại thừa Đại Niết Bàn thật hành Thánh hạnh?"
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Do nghĩa gì gọi là Thánh hạnh?"
- "Này thiện nam tử! Thánh là nói chư Phật Thế Tôn. Do nghĩa này nên gọi là Thánh hạnh."
- "Bạch Thế Tôn! Nếu là chỗ thật hành của chư Phật thời chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giác, Bồ Tát có thể tu hành được."
- "Này thiện nam tử! Đây là chư Phật Thế Tôn an trụ nơi đại Niết Bàn này mà phân biệt khai thị như vậy, do nghĩa này nên gọi là Thánh hạnh. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát nghe như vậy rồi thời có thể phụng hành nên gọi là Thánh hạnh. Đại Bồ Tát này đặng tu hành hạnh đây rồi thời đặng trụ nơi bậc vô sở úy. Chẳng còn sợ tham, sân, si, sanh, lão, bệnh, tử. Cũng chẳng còn sợ ác đạo, địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ.
Này thiện nam tử! Luận về sự ác có hai hạng: Một là A Tu La, hai là trong loài người. Trong loài người có ba hạng ác: một là nhứt xiển đề, hai là hủy báng kinh điển Đại thừa Phương Đẳng, ba phạm bốn tội trọng. Trụ trong vô sở úy này, hàng Bồ Tát trọn chẳng sợ đọa trong những hạng ác như vậy. Cũng chẳng còn sợ Sa Môn, Bà La Môn, ngoại đạo tà kiến, Thiên ma Ba Tuần. Cũng chẳng còn sợ thọ thân trong hai mươi lăm cõi. Vì thế nên bậc này gọi là vô sở úy.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát trụ bậc vô sở úy chứng đặng hai mươi lăm môn tam muội, phá hoại hai mươi lăm cõi. Đặng vô cấu tam muội có thể phá hoại cõi địa ngục. Đặng bất thối tam muội có thể phá hoại cõi súc sanh. Đặng tâm lạc tam muội có thể phá hoại cõi ngạ quỷ. Đặng hoan hỷ tam muội có thể phá hoại cõi A Tu La. Đặng nhựt quang tam muội có thể dứt cõi Phất Bà Đề. Đặng nguyệt quang tam muội có thể dứt cõi Cù Da Ni. Đặng nhiệt diệm tam muội có thể dứt cõi Uất Đơn Việt. Đặng như huyễn tam muội có thể dứt cõi Diêm Phù Đề. Đặng nhứt thiết pháp bất động tam muội có thể dứt cõi Tứ Thiên Vương. Đặng tôi phục tam muội có thể dứt cõi Đao Lợi Thiên. Đặng Duyệt Ý tam muội có thể dứt cõi Diệm Ma Thiên. Đặng thanh sắc tam muội có thể dứt cõi Đâu Suất Thiên. Đặng Huỳnh sắc tam muội có thể dứt cõi Hóa Lạc Thiên. Đặng xích sắc tam muội có thể dứt cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên. Đặng bạch sắc tam muội có thể dứt cõi Sơ Thiền. Đặng chủng chủng tam muội có thể dứt cõi Đại Phạm Vương. Đặng song tam muội có thể dứt cõi Nhị Thiền. Đặng lôi âm tam muội có thể dứt cõi Tam Thiền. Đặng chú võ tam muội có thể dứt cõi Tứ Thiền. Đặng như hư không tam muội có thể dứt cõi Vô Tưởng. Đặng chiếu cảnh tam muội có thể dứt cõi Tịnh Cư A Na Hàm. Đặng vô ngại tam muội có thể dứt cõi Không Xứ Thiên. Đặng thường tam muội có thể dứt cõi thức xứ thiên. Đặng lạc tam muội có thể dứt cõi bất dụng xứ thiên. Đặng ngã tam muội có thể được cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên.
Đây gọi là Bồ Tát chứng đặng hai mươi lăm tam muội dứt hai mươi lăm cõi.
Này thiện nam tử! Hai mươi lăm môn tam muội này gọi là vua của các môn tam muội. Đại Bồ Tát nhập trong những môn tam muội vương này, nếu muốn thổi hoại núi Tu Di liền có thể tùy ý. Nếu muốn biết tâm niệm của mọi loài chúng sanh trong cõi đại thiên, cũng đều có thể biết. Muốn đem mọi loài chúng sanh trong cõi đại thiên để vào trong một lỗ chân lông nơi thân của mình liền có thể tùy ý, cũng có thể làm cho những chúng sanh đó không có quan niệm chật hẹp. Nếu muốn hóa làm vô lượng chúng sanh đầy khắp trong cõi đại thiên, cũng liền có thể tùy ý. Muốn chia một thân làm nhiều thân, lại hiệp nhiều thân làm một thân, dầu làm những sự như vậy nhưng tâm không trụ trước, dường như hoa sen.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát nhập trong những môn tam muội vương như vậy rồi, liền đặng trụ nơi bậc tự tại. Bồ Tát trụ bậc tự tại này thời đặng sức tự tại, tùy ý muốn sanh chỗ nào liền đặng vãng sanh.
Ví như Chuyển Luân Thánh Vương thống lãnh bốn cõi thiên hạ, tùy ý qua lại không bị chướng ngại. Cũng vậy, tất cả chỗ muốn thọ sanh Bồ Tát này có thể tùy ý vãng sanh.
Bồ Tát này nếu thấy tất cả chúng sanh nơi địa ngục, kẻ nào có thể làm cho sanh căn lành, Bồ Tát liền qua mà thọ sanh trong đó, dầu sanh nhưng chẳng phải là nghiệp quả, do sức tự tại mà thọ sanh trong đó. Bồ Tát này dầu ở nơi địa ngục nhưng chẳng bị những sự khổ đốt cháy nát thân v.v…
Này thiện nam tử! Bồ Tát này thành tựu vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức công đức như vậy, còn không thể nói hết, huống là công đức của Phật mà có thể nói được."
Bấy giờ trong chúng hội, có một vị Bồ Tát tên là Trụ Vô Cấu Tạng Vương, có oai đức lớn thành tựu thần thông, đặng đại tổng trì đầy đủ môn tam muội, chứng bậc vô sở úy, liền đứng dậy trịch y bày vai bên hữu quỳ gối hữu, chắp tay bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Như lời đức Phật nói: chư Phật Bồ Tát thành tựu vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức công đức thiệt không thể nói được. Ý tôi còn cho rằng vẫn chẳng bằng kinh điển đại thừa này vì nhơn sức của kinh đại thừa phương đẳng này nên có thể xuất sanh chư Phật Thế Tôn vô thượng chánh giác."
Phật khen rằng: "Lành thay! Lành thay! Phải lắm đúng như lời ông nói. Những kinh phương đẳng đại thừa dầu thành tựu vô lượng công đức, muốn so sánh với kinh này thời không thể kịp được, trăm lần, ngàn lần, trăm ngàn muôn ức lần, nhẫn đến toán số thí dụ cũng chẳng kịp được.
Ví như từ bò có sữa, từ sữa sanh ra chất lạc, từ lạc sanh ra chất sanh-tô, từ sanh-tô sanh ra chết thục-tô, từ thục-tô sanh ra chất đề-hồ. Chất đề-hồ là vị hơn hết, nếu có người uống chất này, các thứ bệnh đều tiêu trừ, bao nhiêu chất thuốc đều vào trong đề-hồ.
Cũng vậy, từ Phật có ra mười hai loại kinh, từ mười hai loại kinh có ra tu-đa-la, từ tu-đa-la có ra kinh phương đẳng, từ kinh phương đẳng có ra Bát Nhã Ba La Mật, từ Bát Nhã Ba La Mật có ra Đại Niết Bàn, như chất đề-hồ. Chất đề-hồ dụ cho Phật tánh, Phật tánh tức là Như Lai.
Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên nói rằng Như Lai có vô lượng vô biên công đức chẳng thể nói tính được."
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Như lời Phật khen kinh Đại Niết Bàn như chất đề-hồ là vị thượng diệu, nếu có người uống đề-hồ thời những chứng bệnh đều tiêu trừ, tất cả các vị thuốc đều vào trong chất đề-hồ. Tôi nghe lời này trộm nghĩ rằng: Nếu có người chẳng nghe chẳng lãnh thọ được kinh này, phải biết người đó rất là ngu si không có tâm lành.
Bạch Thế Tôn! Nay tôi thiệt có thể kham chịu lột da làm giấy, chích máu làm mực, lấy tủy làm nước, chẻ xương làm viết, biên chép kinh Đại Niết Bàn này. Biên chép đọc tụng thông thuộc, rồi vì người mà giảng rộng ý nghĩa đó.
Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sanh tham trước của cải, tôi sẽ bố thí của cải rồi sau đem kinh Đại Niết Bàn này khuyên họ đọc. Nếu có người sang quý, tôi trước dùng ái ngữ để được cảm tình, rồi sau lần lần sẽ đem kinh đại thừa Đại Niết Bàn này khuyên họ đọc. Nếu là kẻ thường dân, tôi sẽ dùng oai thế ép họ đọc tụng. Nếu với người kiêu mạn tôi sẽ làm tôi tớ họ, tùy thuận ý của họ cho họ vui lòng, rồi sau sẽ đem kinh Đại Niết Bàn này mà dẫn dắt họ. Nếu có người hủy báng kinh đại thừa tôi sẽ dùng thế lực hàng phục họ, rồi sau khuyên họ đọc kinh Đại Niết Bàn. Nếu có người ưa thích kinh đại thừa, tôi đích thân đến cung kính cúng dường tôn trọng tán thán họ."
Phật khen Ca Diếp Bồ Tát: "Lành thay! Lành thay! Ông thiệt đáng là người ưa thích kinh điển đại thừa, tham kinh đại thừa, thọ kinh đại thừa, say kinh đại thừa, kính tin tôn trọng cúng dường kinh đại thừa.
Này thiện nam tử! Nay do tâm lành này, ông sẽ siêu việt vô lượng vô biên hằng hà sa đại Bồ Tát, đặng thành vô thượng chánh giác trước. Chẳng bao lâu ông cũng sẽ vì đại chúng diễn nói tạng bí mật Đại Niết Bàn, Như Lai, Phật tánh, như ta hôm nay.
Này thiện nam tử! Về thuở quá khứ thời kỳ không có Phật ra đời, lúc đó ta làm Bà La Môn tu hạnh Bồ Tát, có thể thông đạt những kinh luận của tất cả ngoại đạo, tu hạnh tịch diệt, đầy đủ oai nghi, tâm ta thanh tịnh chẳng bị các dục nhiễm ở ngoài phá hoại, dứt lửa sân hận, thọ trì pháp môn thường, lạc, ngã, tịnh. Khắp nơi ta tìm cầu kinh điển đại thừa, nhẫn đến vẫn chẳng được nghe danh tự kinh Phương Đẳng. Bấy giờ ta ở núi Tuyết. Núi này thanh tịnh có suối chảy ao tắm, rừng rậm cây thuốc, hoa thơm nở khắp núi, chim thú không thể tính đếm, nhiều thứ trái ngon, lại có vô lượng ngó sen, củ ngọt củ thơm. Ta ở một mình trong núi chỉ ăn các thứ trái, ăn xong ngồi thiền chuyên tâm quán tưởng. Ta tu khổ hạnh như vậy trải qua vô lượng năm, cũng chẳng được nghe có Phật ra đời cùng tên kinh đại thừa.
Thích Đề Hoàn Nhơn và chư Thiên thấy ta bền tu khổ hạnh như vậy lòng họ kinh sợ bảo nhau rằng: Chúng ta nên xem coi
Trong núi Tuyết thanh tịnh,
Người ly dục tịch tịnh
Vua công đức trang nghiêm,
Đã lìa tham sân mạn
Dứt hẳn lòng ngu si,
Miệng chưa từng nói ra
Những lời thô ác thảy.
Có một vị thiên tử tên là Hoan Hỷ lại nói kệ rằng:
Người ly dục như vậy
Thanh tịnh siêng tinh tấn,
Toan chẳng cầu Đế Thích
Và làm chư thiên ư!
Nếu là hạng ngoại đạo
Họ tu hành khổ hạnh
Phần nhiều đều mong cầu
Tòa ngồi của Đế Thích.
Có một vị Tiên thiên tử lại vì Đế Thích mà nói kệ rằng:
Thiên Chúa Kiều Thi Ca
Chẳng nên sanh lòng lo
Ngoại đạo tu khổ hạnh
Hà tất cầu Đế Thích.
Thiên Tử này lại thưa với Đế Thích: "Bậc đại sĩ trong đời vì chúng sanh nên chẳng tham luyến thân mình mà tu vô lượng khổ hạnh để làm lợi ích cho chúng sanh. Hạng người như vậy thấy rõ những lỗi lầm trong dòng sanh tử, dầu của báu đầy cả mặt đất, đại sĩ này cũng chẳng tham muốn như thấy mũi dãi. Bậc đại sĩ này rời bỏ của cải vợ con đầu mắt tủy não tay chân da thịt, nhà cửa, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ, cũng chẳng mong cầu sanh lên cõi trời, chỉ mong muốn làm cho tất cả chúng sanh được an vui. Như chỗ tôi hiểu bậc đại sĩ như vậy lòng thanh tịnh không ô nhiễm, đã dứt hết phiền não chỉ muốn cầu quả vô thượng bồ đề."
Thích Đề Hoàn Nhơn bảo rằng: "Theo như lời ông nói thời người ấy vì nhiếp thủ tất cả chúng sanh trong đời. Này Đại Tiên! Nếu trong đời này có Phật dứt trừ được tất cả rắn độc phiền não của chư Thiên, loài người và A Tu La. Nếu các chúng sanh ở trong bóng mát của Phật thời tất cả những độc phiền não đều tiêu diệt. Này Đại Tiên! Bậc Đại sĩ này nếu trong đời vị lai sẽ thành Phật, thời chúng ta sẽ được dứt trừ vô lượng phiền não. Việc này thiệt là khó tin, vì vô lượng chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề, bị chút ít duyên liền thối thất Bồ Đề tâm, như bóng trăng trong nước, nước động thời trăng động. Lại như họa tượng, khó thành mà dễ hư. Cũng vậy, tâm Bồ Đề khó phát mà dễ thối thất.
Này Đại Tiên! Như có nhiều người mặc giáp cầm gậy muốn đi dẹp giặc, lúc ra đến chiến trận lòng sợ sệt thời bèn chạy lui. Cũng vậy vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ Đề tự trang nghiêm bền chắc, lúc thấy lỗi sanh tử lòng sợ sệt, bèn thối thất. Này Đại Tiên! Ta từng thấy vô lượng chúng sanh sau khi phát tâm Bồ Đề đều bị thối chuyển. Vì thế nên nay dầu thấy người này tu khổ hạnh tịch tịnh không phiền não nhưng ta chưa tin được. Nay ta sẽ đến thử xem coi người này thiệt có thể gánh vác nổi vô thượng Bồ Đề chăng? Này Đại Tiên! Như xe có hai bánh thời có công dụng chở chuyên, như chim có hai cánh mới có thể bay đi. Người tu khổ hạnh này, dầu thấy là giữ gìn giới cấm, nhưng chưa biết có trí sâu chăng. Nếu có sâu thời có thể gánh nổi vô thượng Bồ Đề. Này Đại Tiên! Như cá mẹ đẻ ra bầy cá con, nhưng số cá được lớn khôn rất ít. Như cây am-la nhiều bông mà ít trái. Chúng sanh phát tâm Bồ Đề đông vô lượng nhưng ít người được thành tựu. Này Đại Tiên! Ông nên cùng ta đồng qua thử đó. Như vàng ròng sau khi thử đủ ba cánh mới biết là vàng thiệt, là đốt đập mà mài. Nay chúng ta cũng thử người tu khổ hạnh này."
Lúc đó Thích Đề Hoàn Nhơn tự biến thân mình làm quỷ La Sát dung mạo đáng sợ, bay xuống núi Tuyết đến gần người tu khổ hạnh, cất tiếng thanh nhã tuyên nói bài kệ của Phật quá khứ:
Các hạnh vô thường
Là pháp sanh diệt.
Quỷ La Sát nói nửa kệ xong liếc mắt tìm ngó bốn phía. Người tu khổ hạnh nghe hai câu kệ ấy lòng rất vui mừng, như người khách buôn ban đêm đến đường hiểm lạc mất đồng bạn, kinh sợ tìm kiếm bỗng gặp được đồng bạn, lòng rất vui mừng. Cũng như người bệnh lâu chưa gặp được lương y, về sau bỗng gặp được. Như người trôi nổi ngoài biển khơi bỗng gặp được thuyền bè. Như người quá khát gặp được nước mát trong. Như người bị oán địch rượt mà chạy thoát được. Như người bị trói nhốt đã lâu bỗng đặng thả. Cũng như nhà nông thời nắng hạn mà gặp mưa. Như người đi xa trở về đến nhà, cả nhà đều vui mừng.
Này thiện nam tử! Lúc nghe được nửa bài kệ ấy, lòng người khổ hạnh vui mừng cũng như vậy. Liền đứng dậy lấy tay đỡ tóc lên ngó tìm bốn phía nói rằng: "Chẳng biết ai vừa nói hai câu kệ?" Ngó mãi không thấy người nào khác chỉ thấy quỷ La Sát bèn nói rằng: "Ai khai môn giải thoát như vậy? Ai có thể thuật lời của Phật như vậy? Ai có thể ở trong giấc ngủ sanh tử mà có thể riêng được giác ngộ xướng lên lời đó vậy? Ai có thể ở chốn này đem đạo vị vô thượng chỉ dạy cho chúng sanh đang đói khát trong vòng sanh tử? Ai có thể làm thuyền lớn cứu vớt vô lượng chúng sanh đang nổi chìm trong biển sanh tử? Những chúng sanh này thường mang bệnh nặng phiền não, ai có thể làm lương y nói hai câu kệ ấy khai ngộ tâm của tôi. Như mặt trăng nửa, như hoa sen hé nở."
Người khổ hạnh lúc đó không thấy có ai khác chỉ thấy quỷ La Sát nghĩ rằng có lẽ quỷ này nói hai câu kệ ấy chăng? Rồi lại nghĩ rằng quỷ này hình dung hung dữ đáng sợ, phàm người đặng nghe những câu kệ ấy thời tất cả sự sợ sệt xấu xa liền tiêu trừ, đâu có lẽ người hình mạo xấu xa như này mà có thể nói lời kệ ấy. Như trong lửa chẳng mọc được hoa sen. Trong ánh mặt trời chẳng sanh được nước mát. Rồi lại tự trách: Ta thật là vô trí hoặc quỷ này đặng gặp chư Phật quá khứ, nên được nghe nửa bài kệ ấy, nay ta nên hỏi ý nghĩa của lời ấy. Suy nghĩ xong liền đến trước quỷ La Sát nói rằng: "Lành thay! Lành thay! Đại sĩ! Ngài ở đâu mà học được nửa bài kệ của Phật quá khứ như vậy?"
Quỷ La Sát liền đáp rằng: "Này Bà La Môn! Ông chẳng nên hỏi ta về việc ấy. Vì ta đã nhiều ngày không được ăn đói khát khổ não tâm ý mê loạn. Ta tìm cầu khắp nơi vẫn chẳng được thức ăn. Vì thế nên ta nói những lời như vậy."
Người khổ hạnh lại nói với quỷ La Sát: "Nếu Đại Sĩ có thể vì tôi nói trọn bài kệ, tôi sẽ trọn đời làm đệ tử của ngài. Kệ của Đại Sĩ vừa nói lời chẳng đủ, nghĩa chẳng trọn, sao Đại Sĩ chẳng nói cho trọn? Luận về tài thí thời có cạn hết, còn pháp thí thời chẳng thể cùng tận, nhiều sự lợi ích. Tôi nghe nửa bài kệ ấy sanh lòng kinh nghi. Trông mong ngài vì tôi mà nói cho trọn, tôi sẽ trọn đời làm đệ tử ngài."
Quỷ La Sát nói: "Ông tham thái quá chỉ biết tự thương thân mình mà chẳng nghĩ đến người. Ta đương đói khổ thiệt không thể nói đặng."
Người khổ hạnh hỏi: "Thức ăn của ngài là vật gì?"
Quỷ nói: "Ông đừng hỏi, nếu ta nói ra thời mọi người phải kinh sợ."
Người khổ hạnh nói: "Giữa đây chỉ có mình tôi không có người nào khác. Tôi không sợ, ngài cứ nói."
Quỷ nói: "Tôi chỉ ăn thịt người tươi nóng, chỉ uống máu nóng của người. Vì ta phước mỏng nên chỉ ăn những thứ đó. Ta tìm khắp các nơi mà chẳng đặng. Trong đời dầu có người đông nhiều, nhưng mỗi người đều có phước đức, lại được chư Thiên Thần thủ hộ, ta không đủ sức bắt ăn được."
Người khổ hạnh nói: "Ngài cứ nói đủ bài kệ ấy, tôi nghe kệ rồi sẽ đem thân này dâng cho ngài dùng. Thưa Đại Sĩ nếu lúc tôi chết thân này sẽ không dùng vào việc gì được, sẽ bị cọp, sói, chim hiêu, kên kên ăn mổ, không được một mảy phước đức. Nay tôi vì cầu vô thượng bồ đề xả thí thân vô thường chẳng bền này, để đổi lấy thân thường trụ bền chắc."
Quỷ nói: "Ai tin được lời của ông, chỉ vì có tám chữ mà thí bỏ thân đáng mến đáng tiếc."
Người khổ hạnh nói: "Như có người đem đồ sành bố thí cho người khác mà đặng đồ bằng thất bảo. Cũng vậy, tôi xả thí thân vô thường này để đặng thân kim cương. Ngài nói ai tin được lời tôi?
Các vị Đại Phạm Thiên Vương, Thích Đề Hoàn Nhơn và Tứ Thiên Vương có thể chứng minh lời tôi. Lại có các vị Bồ Tát tu hành đại thừa đủ lục độ, lợi ích vô lượng chúng sanh, có thiên nhãn cũng chứng biết được lời của tôi, thập phương chư Phật cũng chứng biết cho tôi vì tám chữ mà xả thí thân mạng."
Quỷ nói: "Nếu ông có thể xả thí thân mạng như vậy, thời nên lóng nghe kỹ, tôi sẽ vì ông nói nửa bài kệ sau."
Người khổ hạnh nghe quỷ hứa nói vui mừng hớn hở, liền cởi tấm da nai đang mặc trên thân trải tòa rồi mời quỷ: "Bạch Hòa Thượng xin thỉnh ngài lên tòa này."
Quỷ ngồi xong người khổ hạnh quỳ dài, vòng tay thưa rằng: "Mong Hòa Thượng vì tôi mà nói nửa bài kệ còn lại cho được đầy đủ."
Quỷ La Sát liền tuyên rằng:
Sanh diệt diệt rồi
Tịch biệt là vui
Quỷ La Sát nói hai câu kệ rồi bảo rằng: "Này Đại Bồ Tát nay ông đã nghe đủ cả nghĩa bài kệ, lòng mong muốn của ông đã đầy đủ, nếu ông muốn lợi ích chúng sanh giờ đây nên thí thân cho ta."
Người khổ hạnh suy nghĩ kỹ những nghĩa trong bài kệ rồi biên chép lên trên đá, trên vách, trên cây, bên đường đi. Tự cột áo xiêm sợ sau khi chết thân thể lõa lồ rồi leo lên cây cao.
Thọ Thần bảo người khổ hạnh: "Lành thay! Lành thay! Nay ông muốn làm việc gì?"
Người khổ hạnh đáp: "Tôi muốn thí xả thân này để trả giá bài kệ."
Thọ Thần nói: "Bài kệ như vậy có những lợi ích gì?"
Người khổ hạnh đáp: "Những câu kệ ấy là lời thuyết pháp của Phật ba đời trong ấy chỉ dạy đạo pháp chơn không. Tôi vì pháp này muốn lợi ích tất cả chúng sanh mà thí xả thân này, chẳng phải vì lợi danh, chẳng cầu Chuyển Luân Thánh Vương, Tứ Thiên Vương, Thích Đề Hoàn Nhơn, Đại Phạm Thiên Vương, chẳng cầu quả vui của người của trời."
Lúc sắp sửa xả thân, người khổ hạnh nói rằng: "Nguyện cho tất cả người tham lam bỏn xẻn đều thấy tôi xả thân. Những người bố thí chút ít sanh lòng cống cao cũng đặng thấy tôi vì một bài kệ mà xả thân mạng."
Nói xong, người khổ hạnh buông mình từ trên cây rơi xuống. Lúc thân chưa tới đất. Trong hư không vang ra các thứ tiếng thấu đến cõi trời Sắc Cứu Cánh. Quỷ La Sát hoàn lại hình Thiên Đế hứng lấy thân người khổ hạnh để nhẹ nhàng xuống đất.
Bấy giờ Thích Đề Hoàn Nhơn, Đại Phạm Thiên Vương cùng chư Thiên đảnh lễ người khổ hạnh mà khen rằng: "Lành thay! Lành thay! Thiệt là Bồ Tát có thể lợi ích rất nhiều cho vô lượng chúng sanh, muốn thắp đuốc pháp lên giữa đêm tối vô minh. Vì tôi mến tiếc pháp lớn của Như Lai nên cố nhiễu não ngài. Ngưỡng mong ngài cho tôi sám hối tội lỗi. Thuở vị lai ngài quyết định thành vô thượng chánh giác. Khi được thành Phật, mong ngài tế độ chúng tôi."
Nói xong, Thích Đề Hoàn Nhơn và chư Thiên đảnh lễ người khổ hạnh, cáo từ, bỗng nhiên ẩn mất.
Này thiện nam tử! Người khổ hạnh thuở xưa chính là tiền thân của ta. Ngày trước vì nửa bài kệ mà ta xả thí thân mạng. Do cớ đó ta đặng vượt bậc thành Phật trước Di Lặc mười hai kiếp.
Này thiện nam tử! Ta đặng vô lượng công đức như vậy đều do cúng dường chánh pháp của Như Lai.
Nay ông phát tâm vô thượng Bồ Đề, thời ông cũng đã vượt hơn vô lượng vô biên hằng hà sa Bồ Tát.

Này thiện nam tử! Đây gọi là Bồ Tát trụ nơi Đại thừa Đại Bát Niết Bàn tu hành thánh hạnh."