Wednesday, July 8, 2015

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q3) - Bổ khuyết tâm kinh

BỔ KHUYẾT TÂM KINH
Ma ha Bát nhã Ba La Mật Đa tâm kinh
Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị. Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng: bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới; vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử diệc, vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc, vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề tát đỏa y Bát nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn.
Tam thế chư Phật y Bát nhã Ba-la-mật-đa cố, đắc a-nậu đa-la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã Ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát nhã Ba-la-mật-đa chú. Tức thuyết chú viết:
"Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha".

VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN
Nam mô A Di Đà bà dạ, đa tha già đa dạ, đa điệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa, tỳ ca lan đế, a di rị đa, tỳ ca lan đa, già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần)
Khể thủ Tây phương An Lạc quốc
Tiếp dẫn chúng sanh đại đạo sư
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ
Ngã kim phổ vị tứ ân tam hữu, 
Cập pháp giới chúng sanh cầu chư Phật,
Nhất thừa vô thượng bồ đề đạo cố, 
Chuyên tâm trì niệm A Di Đà Phật 
Vạn đức hồng danh kỳ sanh tịnh độ. 
Duy nguyện Từ Phụ A Di Đà Phật
Ai lân nhiếp thọ từ bi gia hộ.
A Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di,
Hám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật. (Niệm 10, 20, 30 lần tùy ý)
Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát (10 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát (10 lần)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (10 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (10 lần)

HỒI HƯỚNG
Đệ tử chúng đẳng, hiện thị sanh tử phàm phu tội chướng thâm trọng luân hồi lục đạo, khổ bất khả ngôn; kim ngộ tri thức, đắc văn A Di Đà danh hiệu, bổn nguyện công đức, nhất tâm xưng niệm cầu nguyện vãng sanh, nguyện Phật từ bi bất xả, ai lân nhiếp thọ, đệ tử chúng đẳng, bất thức Phật thân, tướng hảo quang minh, nguyện Phật thị hiện, linh ngã đắc kiến, cập kiến Quan Âm Thế Chí chư Bồ Tát chúng, bỉ thế giới trung, thanh tịnh trang nghiêm, quang minh diệu tướng đẳng, linh ngã liễu liễu đắc kiến A Di Đà Phật.
Ngã kim trì niệm A Di Đà
Tức phát bồ đề quảng đại nguyện
Nguyện ngã định huệ tốc viên minh
Nguyện ngã công đức giai thành tựu
Nguyện ngã thắng phước biến trang nghiêm
Nguyện cộng chúng sanh thành Phật đạo.
Vãng tích sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thỉ tham sân si
Tùng thân ngũ ý chi sở sanh
Nhất thiết ngã kim giai sám hối.
Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời
Tận trừ nhất thiết chư chướng ngại
Diện kiến ngã Phật A Di Đà
Tức đắc vãng sanh Cực Lạc sát
Ngã ký vãng sanh Cực Lạc dĩ
Hiện tiền thành tựu thử đại nguyện
Nhất thiết viên mãn tận vô dư
Lợi lạc nhất thiết chúng sanh giới
Ngã Phật chúng hội hàm thanh tịnh
Ngã thời ư thắng liên hoa sanh
Thân đỗ Như Lai Vô Lượng Quang
Hiện tiền thọ ngã bồ đề ký.
Mong ngã Như Lai thọ ký dĩ
Hóa thân vô số bá cu chi
Trí lực quảng đại biến thập phương
Phổ lợi nhất thiết chúng sanh giới.
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô lượng thệ nguyện thành.
Nguyện sanh Tây phương tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Trang nghiêm Phật tịnh độ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả
Tức phát bồ đề tâm
Tận thử nhất báo thân
Đồng sanh Cực Lạc quốc,
Tận thử nhất báo thân
Đồng sanh An Dưỡng quốc.

NGUYỆN
A Di Đà Phật, thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhân, lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thính phân minh, diện phụng Di Đà, giữ chư thánh chúng, thủ chấp hoa đài, tiếp dẫn ư ngã.
Nhứt sát na khoảnh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ Tát đạo, quảng độ chúng sanh đồng thành chủng trí.
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô A Di Đà Phật Thế Tôn.
Nguyện ngã tội chướng tất tiêu diệt (1 lạy)
Nguyện ngã thiện căn nhật tăng trưởng (1 lạy)
Nguyện ngã thân tâm hàm thanh tịnh (1 lạy)
Nguyện ngã Nhất tâm tảo thành tựu (1 lạy)
Nguyện ngã Tam muội đắc hiện tiền (1 lạy)
Nguyện ngã Tịnh nhân tốc viên mãn (1 lạy)
Nguyện ngã Liên đài dự tiêu danh (1 lạy)
Nguyện ngã Kiến Phật ma đảnh ký (1 lạy)
Nguyện ngã Dự tri mạng chung thời (1 lạy)
Nguyện ngã Vãng sanh Cực Lạc quốc (1 lạy)
Nguyện ngã Viên mãn Bồ Tát đạo (1 lạy)
Nguyện ngã quảng độ chư chúng sanh (1 lạy)
Chí tâm quy mạng đảnh lễ Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới giáo chủ, thọ quang thể tướng vô lượng vô biên, từ thệ hoằng thâm, tứ thập bát nguyện độ tận hàm linh, đại từ đại bi tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Như Lai biến pháp giới Tam Bảo. (1 lạy)
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh thể giải đại đạo, phát vô lượng tâm. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhất thiết vô ngại. (1 lạy)

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q3) - Phẩm CÚNG DƯỜNG XÁ LỢI

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Phẩm CÚNG DƯỜNG XÁ LỢI thứ hai mươi chín
Lúc đó, Thiên Đế cầm bình thất bảo cùng đồ cúng dường đến chỗ trà tỳ, ngọn lửa tự nhiên đồng thời tắt. Thiên Đế liền mở nắp kim quan, muốn thỉnh răng nanh của Phật.
Ngài A Nâu Lâu Đà liền ngăn lại và hỏi: "Ông làm gì thế?"
Thiên Đế nói: "Tôi muốn thỉnh răng nanh Phật về trời cúng dường."
Ngài A Nâu Lâu Đà bảo: "Chớ vội lấy! Ông nên chờ đại chúng để cùng nhau chia."
Thiên Đế nói: "Trước kia đức Phật hứa cho tôi một răng nanh xá lợi, vì cớ ấy nên tôi vừa đến thời lửa liền tắt."
Nói xong, Thiên Đế liền lấy một răng manh xá lợi ở hàm trên bên hữu đem về thiên cung xây tháp cúng dường.
Lúc đó có hai quỷ La Sát Thiệp Tật ẩn thân theo sau Đế Thích, mọi người đều chẳng thấy. Hai quỷ trộm lấy một cặp răng nanh xá lợi của Phật.
Tất cả đại chúng cùng nhân dân trong thành đồng thời muốn tranh lấy xá lợi.
Ngài A Nâu Lâu Đà bảo rằng: "Đại chúng nên chậm rãi chờ! Như lời Phật dặn phải theo đúng pháp cùng nhau chia để cúng dường"
Mọi người chẳng nghe theo lời ngài A Nâu Lâu Đà, đều võ trang muốn giành lấy xá lợi. Đồng áp đến bên kim quan, nhìn thấy bông đâu-la-miên cùng bạch điệp còn nguyên chẳng cháy. Thấy thế mọi người đứng nhìn cất tiếng khóc than, đồng cúng dường đảnh lễ, quỳ xuống rơi lệ nói kệ tán thán rằng:
Như Lai do sức đại tự tại
Tất cả thế gian được tự tại
Đại bi bốn nguyện ở cõi này
Vòng quanh biển khổ độ chúng sanh.
Vô lượng trí huệ sức thần thông
Ra vào sanh tử không chướng ngại
Một thân hiện ra làm nhiều thân
Nhiều thân một thân làm vô lượng.
Thần biến ứng khắp người đều thấy
Không duyên liền hiện nhập Niết Bàn
Chúng tôi hết phước không duyên ứng
Nên bị Như Lai buông bỏ rời.
Kim quan của Phật nơi Song Thọ
Tất cả lực sĩ không khiêng nổi
Do sức đại bi tự cất lên
Bay trên hư không một đa-la
Chậm rãi bay vòng thành Thi Na
Bảy ngày bay đủ bảy vòng thành
Sau đó tự đến chỗ trà tỳ
Thần lực bất cộng làm việc ấy.
Đại chúng trời người không lường được
Đức Phật ở trong Đại Niết Bàn
Kim Cang bất hoại sức tự tại
Tất cả lửa đuốc đều chẳng cháy.
Từ nơi giữa ngực phóng chân hỏa
Bày ngày đốt cháy mới hết củi
Trời người không thể tắt lửa này
Đại bi Thế Tôn hiện thần lực.
Đế Thích vừa đến lửa bèn tắt
Bông đâu-la-miên bao thân Phật
Ngọn lửa quá to mà chẳng cháy
Ngàn trường bạch điệp quấn thân Phật
Ở trong lửa hừng mà chẳng cháy
Mới biết Như Lai sức tự tại.
Tự tại với pháp là Pháp Vương
Kỉnh lễ Từ Tôn trong ba cõi
Lễ đấng vô úy trong các thánh
Lễ đấng đại từ che tất cả
Lễ đấng thần biến đại tự tại
Chúng tôi từ nay xa Thế Tôn
Buồn khổ không ai cứu vớt được,
Buồn thay, thương thay đấng Đại Thánh
Vĩnh biệt ngày nào lại thấy Phật!
Đại chúng nói kệ xong, than khóc cúng dường.
Lúc đó ngài A Nâu Lâu Đà vì tất cả đại chúng mà chậm rãi tháo bạch điệp cùng bông đâu-la. Ngàn bức bạch điệp của Ma Ha Ca Diếp đều còn nguyên vẹn. Ngàn bức bạch điệp của nhân dân trong thành trừ một lớp ngoài còn nguyên, ngoài ra đều cháy ra tro tất cả. Bông đâu-la-miên còn nguyên như cũ.
Ngài A Nâu Lâu Đà đem bạch điệp và đâu-la-miên còn nguyên không cháy này cắt nhỏ ra chia cho đại chúng khiến đem về xây tháp cúng dường. Ngài lại đem tro bạch điệp cũng chia cho đại chúng. Những thứ tro khác đại chúng riêng tự lấy để đem về xây tháp cúng dường.
Người trong thành Câu Thi Na đã sắm sẵn tám cái ché bằng vàng, mỗi ché dung lượng một hộc, cùng tám tòa sư tử trang nghiêm bằng bảy báu. Ché vàng để trên tòa sư tử, mỗi tòa có ba mươi hai lực sĩ khiêng. Trên mỗi tòa có ba mươi hai gái đẹp trang sức lộng lẫy: áo màu, chuỗi ngọc. Tám người vịn ché vàng, tám người cầm lọng báu, tám ngươi cầm gươm báu, tám người cầm cờ tiết dựng bốn mặt ché.
Theo sau mỗi tòa, có vô lượng đại chúng trổi nhạc cầm phan lọng rải hương hoa. Lại có vô lượng võ sĩ cầm cung tên kiếm kích vệ hộ tòa sư tử.
Lúc khiêng tám tòa sư tử ra khỏi thành, nhân dân trong thành liền đem vô số hương-thủy hương-nê theo sau lực sĩ, để sửa sang mặt đất làm thành con đường bằng phẳng thơm sạch đến chỗ trà tỳ. Nhân dân lại giăng treo vô số phan lọng hương hoa chuỗi ngọc chân châu trang nghiêm hai bên đường để chờ cung nghinh xá lợi của Như Lai.
Lúc các lực sĩ khiêng tám tòa sư tử báu đến chỗ trà tỳ, đại chúng cất tiếng kêu khóc vang động, cùng nhau đảnh lễ chí tâm cúng dường Như Lai.
Đức Thế Tôn dùng sức đại bi làm cho thân kim cang nát thành hột xá lợi nhỏ, chỉ bốn răng nanh còn nguyên vẹn.
Đại chúng ngó thấy xá lợi càng thên buồn thương than khóc đồng đảnh lễ cúng dường.
Ngài A Nâu Lâu Đà cùng người trong thành vừa khóc than rơi lệ, vừa thâu lấy xá lợi để vào trong ché vàng trên tòa sư tử. Tám ché vàng đựng đầy xá lợi của Phật mới hết.
Đại chúng thấy thâu xá lợi vào ché vàng xong, lại khóc lóc đảnh lễ cúng dường.
Các đại lực sĩ cùng nhân dân đại chúng rước xá lợi vào thành Câu Thi Na để giữa ngã tư đường. Người trong thành võ trang bốn đội quân phòng vệ bốn mặt thành. Lại sai năm trăm nhà chú thuật gỏi chia ra giữ gìn bốn cửa thành. Dầu võ trang phòng vệ như vậy, nhưng trọn không có lòng chiến tranh.
Ngoài thành cũng như trong thành, nhân dân treo vô số phan lọng.
Tám ché vàng đựng xá lợi để yên trên tòa sư tử trọn bảy ngày.
Đại chúng trời người cũng trọn bảy ngày khóc than chẳng dứt và không ngớt đảnh lễ cúng dường.
Mỗi tòa sư tử đều có năm trăm nhà chú thuật giữ gìn, phòng ngừa có thiên, long, dạ xoa, quỷ thần đến lén lấy xá lợi.
Quốc Vương Ca Tỳ La Vệ cùng giòng Thích Ca thân quyến của Phật, vì thần lực của Phật nên sau khi đức Phật nhập Niết Bàn hai mươi mốt ngày mới hay tin. Quốc Vương cùng giòng họ Thích lật đật đến thành Câu Thi Na, thấy khắp thành phan lọng rợp trời, quân đội và các nhà chú thuật gìn giữ bốn cửa thành nghiêm ngặt.
Quốc Vương Ca Tỳ La hỏi thăm biết rằng Phật nhập Niết Bàn đã qua hai mươi tám ngày, trà tỳ rồi sắp sửa chia xá lợi. Quốc Vương xin phép các nhà chú thuật cùng quân đội giữ thành để được vào đảnh lễ xá lợi của đức Như Lai. Người giữ thành liền cho Quốc Vương cùng giòng họ Thích vào thành.
Vừa thấy xá lợi của Phật đựng trong che vàng trên tòa sử tử, Quốc Vương Ca Tỳ La Vệ cùng người họ Thích Ca đều rơi lệ nghẹn ngào cúi đầu đảnh lễ rồi đi nhiễu bảy vòng, muốn thỉnh một phần xá lợi của đức Như Lai đem về nước cúng dường.
Đại chúng đáp rằng: "Dầu biết các ông là quyến thuộc giòng Thích Ca, nhưng đức Thế Tôn trước kia có dặn phân chia xá lợi, chưa nghe nói đến các ông. Xá lợi này đều có thỉnh chủ, đâu dám chia cho các ông, các ông nên trở về."
Quốc Vương cùng người giòng Thích Ca thỉnh xá lợi chẳng được, vì quá đau đớn nên kêu gào ngất xỉu, giây lâu tỉnh lại bảo đại chúng rằng: "Đức Thế Tôn giáng sanh trong giòng Thích Ca của chúng tôi, nay vì thương xót các ông mà nhập Niết Bàn tại đây. Sao các ông lại hẹp hòi khinh khi chúng tôi mà chẳng chịu chia một phần xá lợi. Nói xong, đồng đảnh lễ xá lợi đi nhiễu bảy vòng, buồn khóc rơi lệ ôm giận mà trở về Ca Tỳ La Vệ."
Vua A Xà Thế chúa nước Ma Già Đà chẳng hay đức Như Lai nhập Niết Bàn. Trong đêm đức Phật nhập Niết Bàn, vua mộng thấy mặt trăng rớt, mặt trời từ đất mọc lên, các ngôi sao rơi rớt khắp nơi, hơi khói từ đất bay lên, bảy sao chổi hiện ra trên trời, lửa lớn cháy khắp hư không đồng thời sa xuống đất. Khi tỉnh giấc lòng vua kinh sợ triệu các quan đến để hỏi.
Các quan tâu rằng: "Đây là điềm đức Phật nhập Niết Bàn. Sau khi đức Phật diệt độ, lục đạo chúng sanh phiền não nổi dậy, nên nhà vua thấy lửa to cháy từ hư không sa xuống đất. Nguyệt ái từ quang của Phật đều tắt mất nên nhà vua thấy mặt trăng lặn. Tám muôn luật nghi tất cả giới pháp, chúng sanh không tuân hành mà theo tà pháp đọa nơi địa ngục, nên nhà vua thấy các ngôi sao sa xuống. Tam đồ ác đạo hiện khắp thế gian, chúng sanh bị khổ như ánh nắng gay gắt nóng bức, nên nhà vua thấy mặt trời từ đất mọc lên."
Vua A Xà Thế liền cùng các quan suốt đêm thẳng đến thành Câu Thi Na, muốn vào thành để đảnh lễ kim cang xá lợi của Như Lai. Người giữ cửa thành cho vua cùng các quan vào thành. Đến giữa ngã tư đường nhà vua thấy ché vàng đựng xá lợi để trên tòa sư tử, liền rơi lệ khóc lóc, cùng các quan đồng đảnh lễ cúng dường đi nhiễu xá lợi bảy vòng. Vua A Xà Thế yêu cầu đại chúng cho thỉnh một phần xá lợi để đem về nước cúng dường. Đại chúng không bằng lòng. Vua A Xà Thế thỉnh xá lợi không được liền đảnh lễ buồn tức trở về nước.
Vua nước Tỳ Gia Ly, vua nước A Lặc Già La, vua nước Tỳ Nậu, vua nước Sư Già Na, vua nước Ba Kiên La, hay tin Phật nhập Niết Bàn đều dắt các quan đi gấp đến thành Câu Thi Na, thấy vô số quân binh phòng vệ bốn cửa thành, các vua xin vào thành để đảnh lễ cúng dường xá lợi. Người giữ thành liền mở cửa cho vào. Sau khi buồn than đảnh lễ cúng dường xá lợi xong, các vua đều xin chia phần xá lợi để thỉnh về nước cúng dường. Đại chúng không bằng lòng. Các vua sầu khổ đảnh lễ xá lợi buồn tức trở về nước.
Khi về đến nước nhà, Quốc Vương Ca Tỳ La Vệ cùng vua các nước đều sai sứ đến thành Câu Thi Na để xin thỉnh xá lợi. Người trong thành Câu Thi Na bảo rằng: "Đức Thế Tôn đã nhập Niết Bàn tại nước của chúng tôi, toàn thân xá lợi phải để tại nước chúng tôi cúng dường mãi mãi, quyết chẳng chia cho người nước ngoài."
Sứ giả của các nước bảo rằng: "Nếu chịu chia xá lợi cho các nước thời tốt, bằng không chúng tôi buộc phải dùng sức mạnh để đoạt lấy."
Vua A Xà Thế lại sai đại tướng Võ Hành đem binh đến bảo người trong thành Câu Thi Na: "Nếu chịu chia xá lợi thời tốt, bằng không chúng tôi sẽ thêm binh lực để đoạt lấy."
Người trong thành đều trả lời tùy ý. Rồi tất cả những tráng sĩ cùng nam nữ trong thành đồng võ trang kéo bốn bộ binh ra thành muốn giao chiến với binh các nước.
Lúc đó nước Tỳ Gia Ly sai quân đội đến thành Câu Thi Na. Nước Tỳ Nậu, nước Giá La Ca La, nước Sư Gia Na, nước Ba Kiên La cùng quốc vương Ca Tỳ La Vệ, năm nước này cũng đều sai quân đội đến thành Câu Thi Na.
Quân của bảy nước vây kín thành Câu Thi Na.
Lúc đó trong đại chúng có một Bà La Môn họ Yên ở giữa quân đội của tám nước to tiếng khuyên rằng: "Xin các lực sĩ thành Câu Thi Na lóng nghe! Đức Thế Tôn từ vô lượng kiếp chứa công đức lành, tu hạnh nhẫn nhục, các ngài cũng thường nghe đức Phật khen ngợi hạnh nhẫn nhục. Hôm nay, đức Như Lai vừa diệt độ, các ngài đâu nên vì xá lợi mà đánh đập nhau, hành động này chẳng phải là cử chỉ tôn kính xá lợi. Các ngài nên chia xá lợi của Như Lai làm tám phần để cúng dường ở tám nước."
Các lực sĩ đáp rằng: "Xin kính tuân lời đề nghị ấy."
Lúc đó Yên Bà La Môn liền chia xá lợi làm tám phần bằng nhau. Chia xong Yên Bà La Môn to tiếng xin thỉnh cái bình dùng lường xá lợi để đem về tụ lạc Đầu Na La xây tháp cúng dường. Đại chúng đồng bằng lòng.
Các cư sĩ và Bà La Môn ở nước Tất Ba Diên Na xin thỉnh tro chỗ trà tỳ. Đại chúng cũng bằng lòng.
Lúc đó người thành Câu Thi Na lãnh được phần xá lợi thứ nhất. Người nước Ba Kiên La thỉnh được phần xá lợi thứ hai. Người nước Sư Già Na thỉnh được phần xá lợi thứ ba. Người nước A Lặc Già thỉnh được phần xá lợi thứ tư. Người nước Tỳ Nậu thỉnh được phần xá lợi thứ năm. Người nước Tỳ Gia Ly thỉnh được phần xá lợi thứ sáu. Người nước Ca Tỳ La Vệ thỉnh được phần xá lợi thứ bảy. Chúa nước Ma Già Dà, vua A Xà Thế thỉnh được phần xá lợi thứ tám. Người trong tám nước đều xây tháp cúng dường xá lợi tại nước mình.
Yên Bà La Môn thỉnh bình lường xá lợi về xây tháp tại tụ lạc Đầu Na La,
Người nước Ba La Diên Na cũng thỉnh tro đem về xây tháp cúng dường.
Lúc đó trong Diêm Phù Đề có tám tháp thờ xá lợi của Phật, một tháp thờ bình lường xá lợi, một tháp thờ tro. Thế là việc phân chia xá lợi đã xong.
Lúc đó chư Bồ Tát, hàng Thanh Văn, trời, người, bát bộ quỷ thần, quốc vương, trưởng giả, quan, dân toàn thể đại chúng buồn khóc rơi lệ cúi đầu đảnh lễ xá lợi của Phật mà đi.

HẾT (TRỌN BỘ)

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q3) - Phẩm TRÀ TỲ

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Phẩm TRÀ TỲ thứ hai mươi tám
(Hán bộ quyển thứ 42)
Lúc đó tất cả nhân dân nam nữ trong thành Câu Thi Na hỏi ngài A Nan pháp tắc trà tỳ đối với đức Như Lai.
Ngài A Nan thuật lại lời Phật nên theo pháp tắc Chuyển Luân Thánh Vương.
Tất cả nhân dân buồn khóc rơi lệ trở vào trong thành làm kim quan dùng thất bảo trang nghiêm, cùng lo sắm ngàn bức bạch điệp vô giá, vô số bông đâu-la-miên mềm nhuyễn, vô số chiên đàn, trầm thủy, hòa hương, hương thủy, hương nê, phan lọng, hoa hương v.v… Sắm sửa xong, cùng nhau đến trước Phật rơi lệ nghẹn ngào mà dâng lên cúng dường.
Lúc đó đại chúng buồn thương cung kính dùng bạch điệp tốt che tay đỡ Như Lai vào trong kim quan đổ đầy dầu thơm, nắp kim quan liền đóng kín lại.
Nhân dân trong thành Câu Thi Na vì tham phước lành, không muốn cho đại chúng trời người khiêng kim quan của Phật, họ sai bốn người đại lực sĩ thỉnh kim quan của Phật vào trong thành để cúng dường. Bốn đại lực sĩ này vận dụng hết sức mình mà vẫn không động được kim quan. Trong thành lại sai tám đại lực sĩ, rồi đến mười sáu đại lực sĩ, nhưng vẫn không khiêng nổi. 
Ngài A Nâu Lâu Đà thong thả bảo các lực sĩ rằng: "Dầu cho tất cả nhân dân trong thành cũng không khiêng nổi kim quan, huống là các ông. Các ông phải thỉnh đại chúng cùng chư thiên trợ lực các ông mới khiêng kim quan vào thành được."
Lúc đó Thiên Đế Thích cùng chư thiên cầm lọng thất bảo lớn cùng vô số hoa hương phan lọng các thứ âm nhạc, khóc lóc rơi lệ ở giữa hư không giăng che cúng dường kim quan của Phật. Lục-dục thiên cùng sắc-giới thiên cũng đồng cúng dường kim quan như Đế Thích.
Đức đại bi của Thế Tôn muốn cho thế gian được tâm bình đẳng đồng được phước, kim quan liền từ rừng Ta La tự bay lên hư không cao bằng một cây Đa La.
Nhân dân trong thành Câu Thi Na và tất cả đại chúng trời người, vì không được khiêng kim quan nên tự cảm thương kêu khóc.
Chư thiên đem hoa hương châu ngọc rải trước kim quan, vần vũ quanh kim quan. Đồng than thở xướng to rằng: "Khổ thay! Khổ thay! Chúng ta vô phước chẳng đặng khiêng kim quan."
Lúc đó kim quan của Phật bay lên hư không, từ rừng Ta La bay chậm chậm vào cửa tây thành Câu Thi Na. Tất cả nhân dân đại chúng trời, người, Bồ Tát, Thanh Văn, hoặc đi dưới đất, hoặc đi trên hư không, theo sau kim quan buồn khóc than thở nghẹn ngào rơi lệ.
Thành Câu Thi Na mỗi phía rộng bốn mươi tám do tuần. Kim quan của Phật bay chậm chậm trên hư không vòng ra cửa đông hữu nhiễu vào cửa nam, rồi vẫn bay chậm chậm trên hư không mà ra cửa bắc, lại tả nhiễu vào cửa tây. Bay nhiễu đủ ba vòng như vậy, kim quan bay chậm chậm trên hư không vào cửa tây rồi ra cửa đông, tả nhiễu vào cửa bắc lại ra cửa nam, hữu nhiễu trở lại vào cửa tây, bay như vậy đủ bốn vòng.
Lúc kim quan của Phật bay vào thành, vô số đại chúng mang vô số gỗ thơm, chiên đàn, trầm thủy, tất cả hương báu cùng vô số phan lọng hương hoa chuỗi ngọc đến chỗ trà tỳ.
Tứ Thiên Vương cùng chư thiên cũng đem những thứ hương thượng diệu cõi trời đến chỗ trà tỳ.
Chư thiên cõi trời Đao Lợi nhẫn đến chư thiên cõi trời Tha Hóa cũng đều đem vô số thứ hương thượng diệu cõi trời và phan lọng hoa hương chuỗi ngọc gấp bội trời Tứ Thiên Vương đến chỗ trà tỳ.
Chư thiên cõi sắc, cõi vô sắc chỉ đem hương hoa đến chỗ trà tỳ.
Ngài A Nâu Lâu Đà, lệ đầy mắt chẳng xiết buồn thương, khất gỗ thơm chiên đàn trầm thủy cõi trời đủ sáu ngàn cây đem đến chỗ trà tỳ.
Lúc đức Thế Tôn mới thành đạo, bờ phía bắc sông Hằng mọc lên một cây chiên đàn, lớn như bánh xe, cao bằng bảy cây Đa La, hơi thơm bay tỏa khắp nơi. Thọ thần của cây chiên đàn này sanh đồng thời với cây, thường đem hương của cây này đến cúng dường Phật. Giờ Phật nhập Niết Bàn, cây chiên đàn này liền chết, nhánh lá khô rụng, thọ thần này cũng chết theo cây. Các vị thần khác đem cả cây chiên đàn đã chết khô này đến chỗ trà tỳ để cúng dường.
Nơi đây là chỗ trà tỳ của tam thế chư Phật. Nơi đây có vô lượng tháp báu của chư Phật quá khứ. Nơi đây là chỗ đất Kim Cang cứng chắc.
Lúc đó kim quan của Phật bay chầm chậm trên không hữu nhiễu tả nhiễu bay quanh thành Câu Thi Na đủ bảy vòng, rồi từ từ hạ xuống trên giường thất bảo, trong thời gian đó trải qua bảy ngày.
Nhân dân đại chúng trời, người, Thanh Văn, Bồ Tát cầm phan lọng hoa hương buồn khóc rơi lệ theo sau kim quan trọn bảy ngày.
Do thần lực của Phật, tất cả đại chúng đều không biết đói khát, không một ai nghĩ đến ăn uống, chỉ thành tâm cung kính mến luyến đức Như Lai.
Vì đã đủ bảy ngày sắp đem Như Lai ra khỏi kim quan, đại chúng kêu khóc chấn động thế giới, dùng bạch điệp mịn nhuyễn che tay cung kính phò thân Kim Cang bất hoại đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Như Lai an lành ra khỏi kim quan để trên giường thất bảo.
Đại chúng càng thêm buồn thương than khóc, đem hoa hương, trổi âm nhạc cúng dường Như Lai.
Mọi người mắt đầy lệ, miệng nghẹn ngào, dùng vô số hương thủy, cung kính tắm rửa thân Như Lai từ đầu tới chân. Cũng rửa kim quan trong ngoài sạch sẽ.
Tắm rửa thân Như Lai xong, đại chúng lại đem vô số hoa hương phan lọng buồn thương khóc lóc, cúng dường Như Lai. Dùng vô số bông đâu-la-miên mịn màng bao bọc thân kim cang của Như Lai từ đầu đến chân. Rồi lấy bạch điệp vô giá tuần tự quấn ngoài bông đâu-la-miên đủ một ngàn bức.
Đại chúng lại khóc than cúng dường rồi lấy bạch điệp che tay cung kính phò thân Như Lai vào trong kim quan, đổ đầy dầu thơm nắp kim quan liền đóng kín lại.
Đại chúng lại buồn than khóc lóc trổi âm nhạc dâng hương hoa cúng dường kim quan.
Sau đó đại chúng chất gỗ thơm chiên đàn trầm thủy thành lầu hương lớn, bốn phía treo giăng những lọng báu phan đèn, chuỗi ngọc, dây vàng. Mùi gỗ thơm bay tỏa khắp thành.
Sau khi dâng hoa hương, trổi âm nhạc thương khóc cúng dường, đại chúng trời người dùng bạch điệp che tay cung kính khiêng kim quan để lên lầu hương.
Đại chúng lại than khóc, nhiều người ngất xỉu. Khi tỉnh lại đồng kêu rằng khổ thay khổ thay nào ngờ cuối cùng không chỗ nương cậy! Than xong nghẹn ngào rơi lệ lại rải hương hoa, treo phan lọng, trổi âm nhạc cúng dường Như Lai.
Lúc đó sắp sửa nổi lửa trà tỳ, đại chúng lại kêu gào than khóc chấn động cõi đại thiên trần thiết cúng dường kim quan của Phật.
Mọi người vừa khóc lóc lệ đầy mắt, đều cầm đuốc hương lớn cả âm, cháy sáng cả vùng, đem đến châm vào lầu gỗ thơm. Khi đến gần lầu gỗ thơm, tất cả ngọn đuốc đều tự nhiên tắt. Đại chúng lại thay vô số đuốc khác ném vào dưới lầu hương, tất cả ngọn đuốc cũng đều tắt.
Trăm ngàn Hải thần đem đuốc lớn thất bảo đến châm vào lầu hương, những đuốc này cũng đều tắt.
Đại chúng chẳng biết cớ gì trà tỳ chẳng được, đây có lẽ là đức Như Lai còn có nhân duyên gì chưa xong.
Lúc đó ngài Ma Ha Ca Diếp cùng năm trăm Tỳ Kheo ở tại núi Kỳ Xà Quật cách thành Câu Thi Na năm mươi do tuần, đương nhập tam muội, bỗng nhiên tim nhảy thân rung, liền xuất định thấy núi cây đều chấn động, biết rằng đức Như Lai đã nhập Niết Bàn. Ngài bảo các Tỳ Kheo: "Đức Đại Sư Thế Tôn của chúng ta đã nhập Niết Bàn bảy ngày rồi, hiện đã vào trong kim quan.
Khổ thay! Khổ thay! Chúng ta phải mau đến chỗ đức Như Lai, sợ rằng đã trà tỳ rồi chẳng còn được thấy sắc thân chân tịnh ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của đức Phật."
Ngài Ma Ha Ca Diếp vì lòng kính trọng Phật nên chẳng dám dùng thần thông bay đi, bèn dắt các thầy Tỳ Kheo đi bộ bảy ngày mới tới thành Câu Thi Na.
Trên đầu đường cửa đông, ngài Ma Ha Ca Diếp thấy một Bà La Môn tay cầm một nhánh thiên hoa đi ngược chiều, liền hỏi: "Ông từ đâu mà đến đây?"
Bà La Môn đáp: "Đức Phật đã nhập Niết Bàn, tôi vừa ở chỗ trà tỳ về."
- Ông đương cầm đó là hoa gì?
- Tôi ở chỗ trà tỳ được cành hoa trời này.
Ngài Ma Ha Ca Diếp ngỏ ý xin hoa ấy.
Bà La Môn nói: "Không được! Tôi muốn đem hoa này về cho thân tộc tôi cúng dường trong nhà."
Ngài Ma Ha Ca Diếp bèn mượn cành hoa, hai tay cung kính để lên đầu mình, liền ngất xỉu té xuống đất. Giây lâu tỉnh lại suy nghĩ rằng: "Ở đây than khóc, chẳng thấy được sắc thân huỳnh kim của Như Lai cũng không ích gì."
Nghĩ xong, liền cùng các Tỳ Kheo đi gấp vào cửa bắc thành Câu Thi Na, ghé vào một tăng phường thấy các Tỳ Kheo đang hội họp.
Các Tỳ Kheo này bảo ngài rằng: "Xem các ông dường như từ xa mới đến, có lẽ nhọc nhẳn đói khát, nên ngồi nghĩ chờ đến giờ ăn."
Ngài Ma Ha Ca Diếp nói: "Đấng Đại Sư đã nhập Niết Bàn, chúng tôi còn lòng nào ở yên đây chờ ăn."
- Đại Sư là ai?
- Khổ thay! Đau đớn thay! Các thầy chẳng biết ư? Đấng Đại Giác Thế Tôn nay đã nhập Niết Bàn.
Các Tỳ Kheo này nghe rồi vui mừng lắm, nói rằng: "Sướng lắm! Sướng lắm! Đức Như Lai còn tại thế cấm răn chúng ta, đặt ra giới luật nghiêm tuấn, chúng ta chẳng chịu nổi. Nay đã nhập diệt, những giới luật nghiêm tuấn ấy cũng phải bỏ. Các ông thong thả chờ ăn đống, có gì phải vội gấp."
Đức Phật dùng thần lực bít tai chư thiên và các Tỳ Kheo theo ngài Ca Diếp. Những Tỳ Kheo này cùng chư thiên đều chẳng nghe những lời ác của các Tỳ Kheo vừa nói. Chỉ một mình ngài Ma Ha Ca Diếp nghe thôi.
Lúc đó, ngài Ca Diếp dắt các Tỳ Kheo rời tăng phường vội vã đến chỗ Phật. Vừa đi vừa suy nghĩ chúng tôi làm sao được có những đồ cúng dường, để khi đến chỗ Phật dâng lên cúng dường?
Ngài Ma Ha Ca Diếp lại suy nghĩ: tôi vốn sanh trưởng ở trong thành này, nay xin đồ cúng dường có lẽ cũng được.
Ngài liền dắt các Tỳ Kheo ghé từng nhà để xin, được ngàn bức bạch điệp tốt, vô số bông đâu-la-miên, cùng rất nhiều hương hoa, hương nê, hương thủy, hương du, phan lọng, hàng màu, chuỗi ngọc.
Xin đồ cúng dường xong, các ngài lật đật mang ra cửa tây. Từ xa nghe vẳng tiếng đại chúng than khóc ở chỗ trà tỳ. Nghe đại chúng hỏi Thiên Đế cúng dường đã xong làm sao có lửa để đốt lầu hương? Nghe Thiên Đế đáp rằng đại chúng nên chờ, ngài Ma Ha Ca Diếp sắp đến.
Tất cả đại chúng đương buồn khóc thấy ngài Ma Ha Ca Diếp cùng năm trăm Tỳ Kheo vừa đi vừa khóc mà đến, liền tránh đường nhường chỗ cho ngài Ma Ha Ca Diếp đi thẳng vào lầu hương. Ngài Ma Ha Ca Diếp dắt các Tỳ Kheo vòng lên kim quan mà lễ bái kêu khóc ngất xỉu, giây lâu tỉnh lại nước mắt tuôn rơi, hỏi đại chúng rằng: "Làm sao để được mở kim quan của Phật?"
Đại chúng đáp: "Phật nhập Niết Bàn đã trải qua hai thất, sợ có tổn hại chăng?"
Ngài Ma Ha Ca Diếp nói: "Thân của Như Lai là thân Kim Cang thường, lạc, ngã, tịnh, không thể có sự hư rã, thân Phật thơm tho ngào ngạt như núi Chiên Đàn."
Nói xong các ngài liền đến bên kim quan than thở khóc lóc.
Lúc đó đức Như Lai đại bi bình đẳng vì ngài Ma Ha Ca Diếp nên kim quan tự nhiên mở nắp. Ngàn trương bạch điệp cùng bông đâu-la-miên đều tự tháo tung, lộ bày thân huỳnh kim ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Vừa thấy kim thân của Phật lộ ra, các ngài liền ngất xỉu té xuống, giây lâu tỉnh lại nghẹn ngào than khóc, nước mắt chảy tuôn, đem hoa hương phan lọng hàng màu chuỗi ngọc của mình xin đặng dâng lên cúng dường, rồi lấy hương nê, hương thủy tắm rửa kim thân của Như Lai, đốt hương rải hoa khóc lóc cúng dường. Sau đó các ngài đem bông đâu-la-miên của mình bao trùm kim thân, kế lấy bông đâu-la-miên cũ bao ngoài. Lại lấy ngàn bức bạch điệp của mình tuần tự quấn ngoài bông la-miên, kế đó lấy ngàn bức bạch điệp cũ cũng theo thứ tự quấn ngoài bạch điệp mới. Sau khi quấn bạch điệp xong nắp kim quan liền đóng lại.
Ngài Ma Ha Ca Diếp cùng các Tỳ Kheo khóc lóc rơi lệ đi nhiễu kim quan bảy vòng, quỳ gối chắp tay nói kệ than thở:
Khổ thay khổ thay đấng đại thánh
Nay tôi đau đớn như cắt lòng
Thế Tôn diệt độ sao quá sớm
Đại bi chẳng thể nán chờ tôi.
Trong thiền định ở núi Xà Quật
Tôi khắp tìm Phật đều chẳng thấy
Nhìn lại thấy Phật đã Niết Bàn
Thoạt vậy thân tâm tôi kinh động.
Bỗng thấy mây đen khắp thế gian
Lại thấy núi cây đều chấn động
Liền biết Như Lai đã Niết Bàn
Chúng tôi vội đến chẳng được thấy.
Thế Tôn đại bi chẳng đến tôi
Khiến tôi chẳng thấy Phật nhập diệt
Chẳng được nghe một lời dạy bảo
Tôi nay côi cùng biết nương đâu!
Thế Tôn ôi! Tôi quá đau đớn
Rối loạn tinh thần tâm mê muội
Nay tôi cúi lạy đầu Thế Tôn
Và cũng kính lạy ngực Thế Tôn
Kính lễ hai tay của Đại Thánh
Và cũng kính lễ lưng Thế Tôn
Cung kính đảnh lễ rún Thế Tôn
Thâm tâm kính lễ chân của Phật.
Khổ thay chẳng thấy Phật Niết Bàn
Xin hiện bày chỗ tôi kính lễ.
Như Lai ở đời chúng an vui
Nay nhập Niết Bàn đều rất khổ.
Buồn thay buồn thay quá đớn đau
Đại bi hiện chỗ tôi lễ.
Lúc ngài Ma Ha Ca Diếp khóc than nói kệ rồi, đấng đại bi Thế Tôn liền hiện hai bàn chân thiên bức luân tướng ra ngoài kim quan. Từ thiên bức luân phóng ngàn tia sáng chiếu khắp tất cả thế giới ở mười phương.
Ngài Ma Ha Ca Diếp cùng các Tỳ Kheo thấy chân Phật, đồng thời cúi lạy tướng thiên bức luân. Vì quá cảm động, các ngài mê muội ngất xỉu, giây lâu tỉnh lại nghẹn ngào kêu khóc đi nhiễu bảy vòng rồi lại đảnh lễ chân Phật buồn khóc nói kệ rằng:
Như Lai tâm đại bi trọn vẹn
Từ quang bình đẳng không phân biệt
Chúng sanh có cảm đều ứng hiện
Cho tôi được thấy tước túc luân.
Nay tôi thâm tâm quy mạng lễ
Đấng hai chân thiên bức luân tướng
Trong thiên luân phóng ngàn tia sáng
Chiếu khắp cõi Phật ở mười phương.
Nay tôi quy y cúi đầu lạy 
Thiên bức luân tướng phóng ánh sáng
Chúng sanh đước chiếu đều giải thoát
Tam đồ bát nạn đều lìa khổ.
Tôi lại quy y cúi đầu lạy
Ánh sáng khắp cứu các ác thú.
Thuở xưa Thế Tôn từ nhiều kiếp
Vì chúng tôi siêng tu khổ hạnh
Ngày nay chứng được thân kim cang
Do đây dưới chân ngàn tia sáng.
Buồn thương cúi đầu quy mạng lễ
Thiên luân an lạc các chúng sanh.
Phật tu công đức vì tất cả
Dưới cội đạo thọ hàng bốn ma
Bốn ma hàng rồi dẹp ngoại đạo
Nhân đây chúng sanh được chánh kiến
Cung kính quy y cúi đầu lạy
Chân sáng khiến chúng được chánh kiến
Phật là cha lành của tất cả
Chân sáng bình đẳng độ chúng sanh.
Tôi lại quy y cúi đầu lạy
Chân sáng bình đẳng cứu thoát khổ
Tôi gặp chân sáng thiên bức luân
Buồn mừng xen lộn đau đớn lòng.
Tôi lại khóc than cúi đầu lạy
Tướng sáng thiên luân có cảm ứng
Quy y cúi lạy ánh sáng chân
Nương thừa rốt ráo ra ba cõi.
Kỉnh lệ chân trời người quy y
Ánh sáng khắp soi ba cõi khổ
Chúng sanh chưa được giải thoát khổ
Thảy đều quy mạng chân thiên quang
Chúng tôi luân hồi chưa ra khỏi
Cớ sao chân Phật lại bỏ rơi!
Thương thay thương thay cho chúng sanh
Tia sáng thiên luân mãi chẳng thấy.
Sám hối với đấng đại từ bi
Đảnh lễ chân vàng ngàn tia sáng
Buốn thay nay gặp tướng thiên luân
Từ đây lúc nào được thấy lại!
Ngài Ma Ha Ca Diếp cùng các Tỳ Kheo nói kệ trên đầy rồi, lại ngất xỉu mê muội, giây lâu tỉnh lại nghẹn ngào buồn thương không dằn được.
Hai chân Kim Cang thiên bức luân tướng của đấng Đại Giác Thế Tôn tự rút vào kim quan đóng kín như cũ.
Tất cả nhân dân đại chúng trời người ngó thấy ngài Ma Ha Ca Diếp càng thêm sầu khổ đấm ngực kêu gào tiếng khóc than vang động cả thế giới, đem lễ vật nghẹn ngào dâng cúng.
Lúc đó trong thành Câu Thi Na sai bốn lực sĩ đeo chuỗi ngọc trang nghiêm nơi thân, tay cầm đuốc lớn như bánh xe, ngọn lửa chói sáng, đến đốt lầu hương để trà tỳ Như Lai. Vừa đến lầu hương lửa đuốc liền tắt. Trong thành lại sai tám lực sĩ, lần lượt sai đến ba mươi sáu đại lực sĩ, mỗi lực sĩ vác đuốc lớn đến châm vào lầu hương để đốt. Tất cả lửa đuốc đều tắt.
Ngài Ma Ha Ca Diếp bảo các lực sĩ cùng mọi người rằng kim quan của Phật, lửa trong tam giới không thể đốt cháy được. Đại chúng nên biết rằng giả sử tất cả những lửa trên trời cùng nhân gian đều không thể trà tỳ kim quan của Như Lai. Mọi người chớ gắng gượng luống đốt nhọc nhằn.
Đại chúng nghe lời trên đây càng thêm buồn khổ đồng nhau đảnh lễ cúng dường đi nhiễu kim quan bảy vòng, tiếng khóc than vang động cả mười phương.
Lúc đấy giờ đức Như Lai dùng sức đại bi, từ nơi ngực phóng ngọn lửa ra ngoài kim quan, lần lần đốt cháy lầu hương trải qua bảy ngày mới cháy hết.
Tất cả đại chúng trời người cùng nhân dân nam nữ trong  thành cũng buồn than khóc lóc trọn bảy ngày không dứt tiếng, đồng thời chẳng ngớt cúng dường đảnh lễ.
Lúc đó Tứ Thiên Vương đều nghĩ rằng: tôi dùng nước thơm rưới tắt lửa, gấp lượm lấy xá lợi đem về cõi trời cúng dường. Nghĩ xong, Tứ Thiên Vương liền mang bình vàng đựng đầy nước thơm, lại đem bốn cây cam nhũ, bốn cây này mọc ở trên bốn triền núi Tu Di, mỗi cây cao trăm do tuần, lớn một ngàn ôm, đồng đến chỗ trà tỳ. Thiên Vương trút nước thơm trong bình, bốn cây tuôn nước cam nhũ tưới lên ngọn lửa. Tưới, xong thấy lửa càng mạnh không tắt.
Lúc đó Hải Thần cùng Ta Già La Long Vương và Giang Thần, Hà Thần thấy Tứ Thiên Vương tưới nước thơm chẳng tắt lửa, đều nghĩ rằng: chúng ta đem nước thơm tưới tắt lửa thâu gấp xá lợi đem về cúng dường tại chỗ của chúng ta. Nghĩ xong, mỗi thần cầm bình báu đựng vô lượng nước thơm mang đến chỗ trà tỳ đồng thời tưới trên lửa, thấy lửa như cũ không tắt chút nào.
Ngài A Nâu Lâu Đà hỏi Tứ Thiên Vương cùng các thần: "Các ông tưới nước thơm, có phải muốn lửa tắt để lấy xá lợi về cúng dường tại chỗ ở của các ông chăng?"
- Thưa ngài A Nâu Lâu Đà! Đúng như vậy.
Ngài A Nâu Lâu Đà bảo Tứ Thiên Vương: "Các ông lòng quá tham! Nếu tất cả xá lợi đều theo các ông về thiên cung, người ở địa cầu làm sao lên trời được để cúng dường?"
Ngài lại bảo các thần: "Các ông ở trong biển lớn dưới sông sâu, nếu các ông đem xá lợi của đức Như Lai về chỗ ở của các ông, thời người trên mặt đất này làm sao đến đó để cúng dường?"

Tứ Thiên Vương cùng chư thần đều sám hối.

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q3) - Phẩm ỨNG TẬN HOÀN NGUYÊN

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Phẩm ỨNG TẬN HOÀN NGUYÊN thứ hai mươi bảy
Đức Phật bảo đại chúng: "Giờ đây ta nhập Niết Bàn, cả mình ta đau nhức."
Nói vừa xong, đức Phật liền nhập sơ thiền, xuất sơ thiền nhập nhị thiền, xuất nhị thiền nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập tứ thiền, xuất tứ thiền nhập không-xứ-định, xuất không-xứ-định nhập thức-xứ-định, xuất thức-xứ-định nhập bất-dụng-xứ-định, xuất bất-dụng-xứ-định nhập phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-định, xuất phi-tưởng-xứ-định nhập diệt-tận-định, xuất diệt-tận-định nhập phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-định, xuất phi-tưởng-xứ-định nhập bất-dụng-xứ-định, xuất bất-dụng-xứ-định nhập thức-xứ-định, xuất thức-xứ-định nhập không-xứ-định, xuất không-xứ-định nhập tứ thiền, xuất tứ thiền nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập nhị thiền, xuất nhị thiền nhập sơ thiền.
Đức Thế Tôn thuận nghịch nhập các thiền định xong, lại phổ cáo đại chúng: "Ta dùng thậm thâm bát nhã xem khắp ba cõi tất cả lục đạo chúng sanh, ba cõi này bổn tánh rời lìa rốt ráo tịch diệt đồng như hư không, không danh, không thức, dứt hẳn các cõi, bổn lai bình đẳng không có tưởng niệm cao hạ, không thấy nghe, không hay biết, không hệ phược, không giải thoát, không chúng sanh, không thọ mạng, không sanh không diệt, chẳng phải thế gian chẳng phải chẳng thế gian, Niết Bàn sanh tử đều không thể được, trước sau bình đẳng vì bình đẳng với các pháp, nhàn cư tịnh trụ không có chỗ thi-vi, an trí rốt ráo quyết định bất khả đắc, từ pháp vô trụ pháp tánh thi-vi, dứt tất cả tướng trọn không chỗ có. Pháp tướng như vậy, ai biết rõ thời gọi là người xuất thế, kẻ chẳng biết như vậy thời gọi là đầu mối sanh tử. Đại chúng phải dứt vô minh, diệt đầu mối sanh tử!"
Bảo xong, đức Thế Tôn nhập thiền định siêu việt: Từ sơ thiền xuất liền nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập không-xứ-định, xuất không-xứ-định nhập vô-sở-hữu-xứ-định, xuất vô-sở-hữu-xứ-định nhập diệt-tận-định, xuất diệt-tận-định nhập phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-định, xuất phi-tưởng-xứ-định nhập thức-xứ-định, xuất thức-xứ-định nhập tứ thiền, xuất tứ-thiền nhập nhị thiền, xuất nhị thiền nhập sơ thiền.
Đức Thế Tôn nghịch thuận nhập thiền định siêu việt xong, lại bảo đại chúng: "Ta dùng ma-ha-bát-nhã xem khắp ba cõi tất cả nhân pháp hữu tình vô tình thảy đều rốt ráo, không hệ phược, không giải thoát, không chủ, không y, không thể nhiếp trì, chẳng ra ba cõi, chẳng vào các cõi, bổn lai thanh tịnh không cấu nhơ, không phiền não, đồng như hư không chẳng bình đẳng chẳng phải chẳng bình đẳng, dứt hết những động niệm tư tưởng tâm thức. Pháp tướng như vậy gọi là Đại Niết Bàn, thấy rõ được pháp tướng này thời gọi là giải thoát, phàm phu chẳng thấy biết thời gọi là vô minh."
Nói xong đức Phật lại nhập thiền định siêu việt: xuất sơ thiền nhập tam thiền nhẫn đến nhập diệt-tận-định, xuất diệt-tận-định nhẫn đến nhập sơ thiền.
Nghịch thuận nhập thiền định siêu việt xong, đức Thế Tôn lại bảo đại chúng: "Ta dùng Phật nhãn xem khắp ba cõi tất cả các pháp, thể tánh của vô minh vốn là giải thoát, tìm khắp mười phương trọn không thể được. Vì cội gốc đã không nên nhánh lá thảy đều giải thoát. Vì vô minh giải thoát nên hành đến lão, tử đều được giải thoát. Do đây nên ngày nay ta an trụ thường tịnh-diệt-quang gọi là đại Niết Bàn."
Lúc đó A Nan quá sầu khổ bi ai tâm trí cuồng loạn, như người quá say không còn biết những việc xung quanh, chẳng thấy đại chúng, cũng chẳng biết Như Lai đã nhập Niết Bàn hay chưa.
Đức Thế Tôn nhập siêu thiền định thuận nghịch ba lần, xem khắp pháp giới ba phen phổ cáo đại chúng, đức Như Lai lần lượt nhập các thiền định hai mươi bảy lần như vậy.
Vì chẳng biết, nên khi Phật nhập một thiền định A Nan liền hỏi một lần, hai mươi bảy lần hỏi ngài A Nâu Lâu Đà: "Phật nhập Niết Bàn hay chưa?"
Ngài A Nâu Lâu Đà rõ biết Như Lai nhập các thiền định, hai mươi bảy lần đều trả lời với A Nan rằng Phật chưa nhập Niết Bàn.
Sau khi ba lần thuận nghịch nhập các thiền định cùng phổ cáo đại chúng, đức Thế Tôn nằm nghiêng bên hữu trên giường thất bảo: gối đầu phương bắc, chân chỉ thẳng phương nam, mặt hướng về phương tây, lưng day qua phương đông.
Bốn phía giường, tám cây Ta La chia làm bốn cặp: một cặp phương tây ở trước mặt Như Lai, một cặp phương đông che sau lưng Như Lai, một cặp phương bắc che trên đầu Như Lai, một cặp phương nam đứng phía chân Như Lai.
Lúc đó đúng giữa đêm đức Như Lai nằm trên giường thất bảo trong rừng Ta La nhập tứ thiền yên lặng mà bát Niết Bàn.
Liền đó bốn cặp cây Ta La: cặp hướng đông, cặp hướng tây ngọn bốn cây hiệp làm một tàng, cặp hướng nam, cặp hướng bắc ngọn bốn cây hiệp làm một tàng, che giường thất bảo trùm trên thân Như Lai, những cây Ta La đó, tất cả lá biến thành sắc trắng như bạch hạc, nhánh lá bông trái da và thân cây thảy đều rụng rớt nứt nẻ, lần lần khô héo gãy rớt.
Đồng thời trong lúc đó vô lượng thế giới ở mười phương đều chấn động vang ra tiếng rằng: "Khổ thay! Khổ thay! Thế giới trống rỗng."
Lại vang ra tiếng buồn than diễn nói nghĩa vô thường, khổ, không.
Tất cả những núi trong mười phương thế giới: núi Mục Chân Lân Đà, núi Đại Mục Chân Lân Đà, núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, Hắc Sơn, Hương Sơn, Kim Sơn, Bảo Sơn, núi Tu Di đồng thời rúng động vang ra tiếng lớn: "Khổ thay! Khổ thay! Tại sao một mai mà thế gian bơ vơ, huệ nhật tắt mất vào núi Đại Niết Bàn, tất cả chúng sanh mất cha lành, mất chỗ chiêm ngưỡng."
Tất cả biển lớn trong mười phương thế giới đều đục ngầu, sóng cuồn cuộn nổi lên vang ra các thứ tiếng: "Khổ thay! Khổ thay! Đấng vô thượng chánh giác đã diệt, chúng sanh phải tội khổ trôi mãi trong biển lớn sanh tử, mê mất con đường chân chánh không do đâu để giải thoát được."
Tất cả sông rạch, khe suối, mương rãnh, giếng ao thảy đều nghiêng ngửa khô cạn.
Mười phương thế giới vắng lặng tối tăm. Sầu não tối tăm bao trùm cả thế giới. Lúc đó bỗng có gió to thổi bay bụi cát, khắp nơi đều mờ tối. Tất cả cỏ cây trên mặt đất gãy ngã rơi rụng. Tất cả chư thiên vân tập chật cả hư không, than thở kêu khóc tiếng động cả cõi đại thiên, rưới vô số trăm ngàn hoa trời hương trời cúng dường đức Như Lai, lại rải vô số thiên tràng, thiên phan, thiên-anh-lạc, thiên-bảo-cái, thiên bảo châu biến thành bửu đài giữa hư không để cúng dường đức Như Lai. Chư thiên lại ở trên hư không tấu vô số thiên nhạc xướng rằng: "Khổ thay! Khổ thay! Đức Phật đã nhập Niết Bàn, thế giới trống rỗng, chúng sanh đã mất con mắt, quỷ La Sát phiền não lan tràn khắp nơi, sự khổ nối luôn xoay vần chẳng dứt."
Lúc đó A Nan mê muội, chẳng biết đức Như Lai đã nhập Niết Bàn hay chưa nhập, chỉ nghe thấy những cảnh những tiếng lạ thường nên lại hỏi.
Ngài A Nâu Lâu Đà đáp rằng: "Đấng Đại Giác Thế Tôn đã nhập Niết Bàn."
Nghe lời này, A Nan té xỉu xuống đất mất thở như người chết.
Ngài A Nâu Lâu Đà lấy nước lạnh rải trên mặt A Nan đỡ dậy nhiều lời an ủi rằng: "Thảm thay! Thảm thay! Rất đáng đau khổ. Nhưng ông chớ quá buồn rầu mà tâm trí điên loạn. Hóa duyên của đức Như Lai đã hoàn tất, tất cả trời người không ai cầm lại được. Khổ thay! Khổ thay! Biết làm sao được! Nào ngờ ngày nay đấng Thiên Sơn Sư việc làm đã rốt ráo không ai cầm lại được. Ông cùng tôi phải đồng dằn sự buồn khổ. Đức Phật dầu nhập Niết Bàn, nhưng còn xá lợi và pháp bảo vô thượng thường trụ nơi thế gian, có thể làm chỗ quy y cho chúng sanh. Các ông cùng tôi phải tinh tấn đem pháp bảo của Phật truyền lại cho chúng sanh, khiến họ thoát khổ, dùng đây để báo ân đức của Như Lai."
A Nan nghe lời an ủi trên, lần lần tỉnh ngộ nghẹn ngào buồn khóc.
Trong rừng Ta La nơi thành Câu Thi Na rộng mười hai do tuần, đại chúng trởi người chật khắp trong đó. Chỗ nhỏ bằng đầu mũi kim dung thọ vô lượng chúng, không một chút hở trống, dầu vậy nhưng chẳng trở ngại, chẳng che khuất nhau.
Vô số ức Bồ Tát cùng đại chúng nhân thiên đều mê muội loạn tâm, thấy thế giới biến động khác thường và nghe ngài A Nâu Lâu Đà bảo là đức Phật đã nhập Niết Bàn, có nhiều người ngất xỉu té xuống đất. Trong đó có người nhập diệt theo Phật, có người mất trí, có người thân tâm run rẩy, có người nghẹn ngào nước mắt tuôn rơi, có người đấm ngực kêu to, có người cào đầu bứt tóc. Hoặc than khổ thay khổ thay, hoặc kêu sao đức Như Lai nhập Niết Bàn quá mau, hoặc khóc tôi đã mất đấng tôn kính, hoặc than thế giới trống rỗng, con mắt chúng sanh đã mất, hoặc than quỷ phiền não lan tràn, hoặc than mầm lành của chúng sanh đã chết, hoặc nói ma vương mừng rỡ cởi khôi giáp ra nghĩ, hoặc tự trách thân tâm suy gẫm vô thường, hoặc chánh quán được giải thoát, hoặc cảm thương mất chỗ quy y. Có người máu ửng đỏ khắp thân chảy lan ra đất. Tất cả đại chúng kêu khóc tiếng động khắp thế giới.
Lúc đó Thi Khí Đại Phạm Thiên Vương biết Phật đã nhập Niết Bàn, liền cùng chư thiên từ cõi sắc bay xuống khóc to nghẹn ngào xỉu té trước Như Lai, giây lâu tỉnh lại buồn than nói kệ rằng:
Thuở xưa Thế Tôn có lời nguyện
Vì chúng tôi mà ở Ta Bà
Ẩn giấu vô lượng sức tự tại
Đem pháp phương tiện độ chúng sanh
Tùy theo cơ nghi mà thuyết pháp
Chúng sanh thọ pháp được an lạc
Dìu dắt ra khỏi ba cõi khổ
Rốt ráo đều đến đạo Niết Bàn.
Phật là mẹ lành nuôi chúng sanh
Khắp cho uống sữa đại từ bi
Nào ngờ nay lại sớm xả ly
Trời người bơ vơ mất nương vậy.
Thương thay mầm lành của chúng sanh
Không có cam lồ để tăng trưởng
Mầm lành lần lần héo mất rồi
Tội nghiệp kéo nhau đọa ác đạo.
Thế giới trống rỗng biết làm sao
Huệ nhãn chúng sanh nay đã tắt
Đi trong đường hắc ám vô minh
Đọa lạc ba cõi trôi chìm khổ.
Chúng sanh tội ác không ai cứu
Nguyện nương Xá Lợi cầu giải thoát
Nhờ sức đại bi của Như Lai
Cứu giúp chúng tôi thoát chốn khổ.
Ngờ đâu giữa cõi đời ác trược
Phật bỏ chúng tôi nhập Niết Bàn!
Lúc đó Thích Đề Hoàn Nhân cùng chư thiên từ hư không xuống than thở khóc lóc ngất xỉu trước Như Lai, giây lâu tỉnh lại nghẹn ngào rơi lệ quỳ trước Phật kệ than thở:
Như Lai nhiều kiếp tu khổ hạnh
Vì lợi ích quần sanh chúng tôi
Được thành đạo chánh giác vô thượng
Đồng thương chúng sanh như con một
Ban cho thuốc pháp thuốc vô thượng
Y sư trị bệnh là y vương
Mây đại từ bi che chúng sanh
Mưa huệ cam lồ rưới tất cả.
Ánh sáng huệ nhật soi vô minh
Chúng sanh vô minh thấy thánh đạo
Từ quang thánh nguyệt chiếu lục thú
Ba cõi được soi thoát các khổ.
Nào ngờ hôm nay bỏ đại bi
Đã nhập Niết Bàn chẳng còn thấy
Bổn thệ đại bi nay ở đâu
Rời bỏ chúng sanh như mũi dãi.
Tất cả hàng chúng sanh chúng tôi
Như nghé mất mẹ ắt phải chết
Đại chúng cầm tay nhau kêu khóc
Đấm ngực buồn than động đại thiên.
Khổ thay mọi người trong ba cõi
Cớ gì một mai đều côi cút
Chúng tôi hết phước rất là khổ
Mầm lành cháy khô không nước nhuần.
Nguyện ánh sáng pháp bảo Xá Lợi
Chiếu đến tôi thoát khỏi ba cõi
Buồn thay khổ thay cho chúng tôi
Bao giờ lại được thấy Như Lai.
Lúc bấy giờ ngài A Nâu Lâu Đà buồn than rơi lệ quỳ trước Phật nói kệ than rằng:
Chánh pháp pháp vương nuôi chúng tôi
Cho uống pháp nhũ lớn khắp thân
Chúng sanh pháp thân chưa thành lập
Lại thên huệ mạng thiếu tư-lương
Dùng tám phạm âm thường diễn thuyết
Đại chúng nghe rồi đều ngộ đạo
Thường phóng đại bi ngũ sắc quang
Đại chúng được soi đều giải thoát.
Hôm nay sao lại nhập Niết Bàn
Chúng sanh tội khổ nương về đâu
Khổ thay Thế Tôn bỏ đại bi
Chúng tôi cô cùng ắt phải chết.
Dầu biết Thế Tôn hiện phương tiện
Chúng tôi không thể chẳng buồn thương
Đại chúng mê muội mất bổn tâm
Khóc động trời đất rúng ba cõi.
Riêng mình Thế Tôn ở an lạc
Chúng sanh quá khổ sao bỏ đi
Thuở xưa Thế Tôn vì chúng tôi
Bỏ đầu chặt tay trong nhiều kiếp.
Được thành đạo chánh giác vô thượng
Chẳng ở đời lâu vội Niết Bàn
Đại chúng, chúng tôi ở vô minh
Ma vương mừng rỡ cởi khôi giáp.
Nguyện sức từ bi của Thế Tôn
Xá lợi phóng quang nhiếp chúng tôi
Cúi xin Thế Tôn thương tứ chúng
Pháp bảo lưu truyền mãi chẳng cùng.
Chúng tôi không thể liều tự chết
Mạng sống thừa này được bao lâu
Khổ thay đau đớn khó chịu nổi
Bao giờ lại thấy đức Như Lai.
Lúc bấy giờ A Nan ngất xỉu lần lần tỉnh lại giơ tay vỗ đầu đấm ngực nghẹn ngào buồn khóc rơi lệ quỳ trước Phật nói kệ buồn than:
Xưa tôi cùng Phật đồng thệ nguyện
May mắn đồng sanh trong dòng Thích
Như Lai đặng thành đạo chánh giác
Tôi làm thị giả hai mươi năm.
Hết lòng cúng dường chưa thỏa lòng
Nay Phật bỏ tôi vào Niết Bàn
Than ôi than ôi sao quá khổ
Từ đây mãi mãi lòng đớn đau.
Thân tôi chưa thoát lưới ba cõi
Vỏ trứng vô minh chưa ra khỏi 
  Mỏ huệ Thế Tôn chưa mổ vỡ
Sao lại bỏ tôi vội Niết Bàn.
Tôi như trẻ nít vừa mới sanh
Mất mẹ chẳng lâu ắt sẽ chết
Cớ gì Thế Tôn bỏ rơi tôi
Để riêng hưởng vui ngoài ba cõi.
Nay tôi sám hối với Thế Tôn
Hầu Phật đến nay hai mươi năm
Trong lúc đứng ngồi nhiều biếng trễ
Không được vui đẹp lòng Thế Tôn.
Nguyện đấng chánh giác đại từ bi
Ban pháp cam lộ tôi an vui
Tôi nguyện cùng tận thuở vị lai
Thường gặp Thế Tôn làm thị giả.
Ngưỡng mong Thế Tôn đại từ quang
Tất cả thế giới nhiếp thọ tôi
Than ôi khổ thay nói chẳng được
Ơn Phật nghẹn ngào chẳng thể bày.
Lúc bấy giờ vô số hằng hà sa Bồ Tát tất cả đại chúng trời người buồn khóc rơi lệ chẳng xiết than thở. Mọi người khuyên nhủ nhau dằn bớt lòng buồn khổ, lo sắm sửa vô số hương hoa vi diệu: Hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, hương hải thử ngạn chiên đàn, trầm thủy, hòa hương, hương thủy, hương nê, cùng trăm ngàn muôn thứ lọng báu, tràng báu, phan báu, chuỗi ngọc, chân châu đem đến cúng dường Như Lai.
Nhân dân nam nữ lớn nhỏ trong thành Câu Thi Na đều buồn khóc rơi lệ, sắm sửa vô số hương hoa phan lọng tốt đẹp đem đến cúng dường Như Lai.
Tứ Thiên Vương cùng thiên chúng buồn than rơi lệ, sắm sửa vô số hương hoa phan lọng đem đến cúng dường Như Lai.

Đao Lợi Thiên Vương, Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Suất Thiên Vương, Hóa Lạc Thiên Vương, Tha Hóa Thiên Vương, Sắc Giới Thiên Vương, Vô Sắc Giới Thiên đều cùng thiên chúng buồn thương than thở mang vô số hoa hương phan lọng vi diệu đến cúng dường Như Lai.

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q3) - Phẩm DI GIÁO

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Phẩm DI GIÁO thứ hai mươi sáu
Lúc bấy giờ đức Phật bảo A Nan và đại chúng: "Sau khi ta diệt độ, hàng tứ chúng phải siêng hộ trì kinh Đại Niết Bàn của ta. Trong vô lượng vô số kiếp ta tu tập pháp đại Niết Bàn khó đặng này, nay đã giải thuyết rõ ràng cho đại chúng.
Các người nên biết pháp đại Niết Bàn này là bảo tạng kim cang thường, lạc, ngã, tịnh hoàn toàn viên mãn của tất cả chư Phật. Tất cả chư Phật đều ở nơi pháp đại Niết Bàn này mà nhập Niết Bàn. Pháp này là pháp tối hậu rốt ráo chí lý cùng tột không thiếu sót. Chư Phật đều phóng xả thân mạng nơi đây, do đó nên gọi là đại Niết Bàn.
Đại chúng muốn đặng chân thật báo ân Phật, mau chứng Bồ Đề, được chư Phật rờ đầu, đời đời sanh ra chẳng mất chánh niệm, thập phương chư Phật thường hiện trước mình ngày đêm giữ gìn làm cho tất cả mọi người được pháp xuất thế, thời phải siêng năng tu tập kinh Đại Niết Bàn này."
Phật bảo A Nan: "Lúc ta chưa thành Phật thị hiện vào trong pháp của ngoại đạo của Uất Đầu Lam Phất, tu học tứ thiền bát định.
Từ khi ta thành Phật đến nay bác bỏ những pháp ấy khuyến dụ lần lần các phái ngoại đạo, cuối cùng đến ông Tu Bạt Đà La, cho họ đều vào Phật đạo.
Đức Như Lai dùng đuốc đại trí đốt tràng tà kiến, như đem lá cỏ khô ném vào trong ngọn lửa lớn.
Này A Nan! Nay những người dòng Thích Ca ta rất lo nghĩ đến họ. Sau khi ta Niết Bàn ông phải siêng năng đem điều lành dạy răn hàng quyến thuộc của ta, hết lòng dạy dỗ cho họ được diệu pháp. Chớ để họ phóng dật tán tâm chơi bời hoặc theo tà pháp.
Người chưa thoát khỏi sự thống khổ trong ba cõi phải sớm cầu giải thoát. Phải lo sợ chốn ngũ trược ái dục này, một khi mất thân người rất khó được lại, trọn đời phải thường soi xét. Khó lấy tình để cầu thoát khỏi quỷ vô thường.
Phải thương xót chúng sanh, chớ giết hại dầu là côn trùng nhỏ nhít.
Thân nghiệp thanh tịnh thường sanh cõi tốt đẹp. Khẩu nghiệp thanh tịnh xa lìa những lỗi ác. Chớ ăn thịt, chớ uống rượu.
Điều phục con rắn tâm cho nó vào đạo quả.
Phải suy nghĩ kỹ nghiệp nhân thiện ác cảm báo tốt xấu. Nhân quả trong ba đời tuần hoàn chẳng mất, như bóng theo hình. Đời này luống qua về sau ăn năn không kịp.
Giờ Niết Bàn đã đến, ta tóm tắt dạy bảo như vậy."
A Nan nghe lời Phật dạy, thân rung tâm động, buồn khóc nghẹn ngào, mê muội té xuống trước mặt Phật như người chết.
Lúc đó ngài A Nâu La Đà an ủi A Nan rằng: "Đâu nên quá sầu khổ như vậy! Đã đến giờ đức Như Lai nhập Niết Bàn, ngày nay dầu có Phật, sáng mai thời đã không. Ông y theo lời tôi để thưa hỏi đức Như Lai bốn điều.
Sau khi Phật nhập Niết Bàn, Lục Quán Tỳ Kheo làm việc ô-tha-gia, cùng Xa Nặc ác tánh, các Tỳ Kheo làm thế nào để cùng họ cộng trụ và chỉ dạy họ?
Đức Như Lai còn thời dùng Phật làm thầy, đức Như Lai diệt độ rồi lấy gì để làm thầy?
Lúc Phật còn nương nơi Phật mà trụ, Như Lai đã diệt độ nương gì để trụ?
Sau khi Phật diệt độ, lúc kết tập pháp tạng, đầu các kinh phải để những lời gì?"
A Nan như ở trong mộng nghe ngài A Nâu Lâu Đà khuyên bảo hỏi Phật bốn điều. Lần lần được tỉnh ngộ chẳng xiết buồn thảm, A Nan đem bốn điều trên hỏi Phật.
Đức Như Lai bảo A Nan: "Sao lại quá buồn khổ như vậy! Chư Phật thuyết pháp giáo hóa việc làm đã xong, theo phép phải về nơi đây.
Lành thay! Lành thay! Bốn điều ông vừa hỏi, là lời hỏi tối hậu, có lợi ích lớn cho tất cả thế gian. Các ông lóng nghe và khéo suy nghĩ ghi nhớ.
Sau khi Phật nhập Niết Bàn, Tỳ Kheo Xa Nặc tâm tánh sẽ lần lần điều phục nhu hòa bỏ ác tánh cũ.
Này A Nan! Ông Nan Đà trước kia rất nặng ái dục, tánh rất xấu ác, đức Như Lai dùng thiện phương tiện chỉ dạy cho ông ấy được lợi ích vui mừng. Phật rõ biết căn tánh của ông ấy, dùng huệ bát nhã mà giảng thuyết mười hai nhân duyên: chính là vô minh duyên hành, hành duyên thức, nhẫn đến lão tử ưu-bi khổ não, đều là rừng bụi vô minh yêu ghét, tất cả hành khổ đầy tràn trong ba cõi, chạy khắp trong lục đạo. Cội gốc sự khổ từ vô minh khởi lên. Dùng huệ bát nhã hiển bày tánh tịnh, quan sát kỹ cội gốc thời dứt được tội lỗi trong ba cõi. Vì cội gốc vô minh dứt nên vô minh dứt, vô minh dứt thời hành dứt, nhẫn đến lão tử ưu bi khổ não đều dứt.
Lúc được quán niệm này nhiếp tâm đứng dừng thời được nhập tam muội, do sức tam muội được nhập sơ thiền, lần lượt nhập tứ thiền, không rời chánh niệm luôn tu tập như vậy, rồi sau tự sẽ được chứng thượng quả thoát khỏi khổ trong ba cõi. Nan Đà Tỳ Kheo tin sâu lời dạy của Phật, siêng năng tu tập trong một ít lâu được chứng quả A La Hán.
Này A Nan! Sau khi ta nhập Niết Bàn, các ông nên y theo giáo pháp chánh quán của ta mà chỉ dạy cho Lục Quần cùng Xa Nặc, hết lòng nương theo chánh pháp thanh tịnh này, tự sẽ được chứng thượng quả.
Này A Nan! Phải biết rằng đều do nơi vô minh mà tăng trưởng cây sanh tử trong ba cõi, nên mãi trôi chìm trong ái hà, chịu khổ mãi dưới vực tối tăm, vòng quanh cột sanh tử. Sáu thức là nhánh, vọng niệm là gốc, lượn sóng vô minh xúc khiến tâm thức dạo chơi theo lục trần, sanh mầm các sự khổ não. Vô minh nó tự tại như vua, không ai chế ngự được. Do đây nên ta nói ông chủ vô minh niệm niệm làm hại, chúng sanh chẳng hay biết, mãi luân chuyển trong sanh tử.
Này A Nan! Tất cả chúng sanh vì vô minh này mà khởi những tham ái, bị ngã kiến che đậy, tám muôn bốn ngàn phiền não sai sử thân họ, làm cho thân tâm họ tan vỡ không được tự tại.
Này A Nan! Nếu vô minh dứt thời ba cõi đều hết, nên gọi là người xuất thế.
Này A Nan! Nếu có thể quan sát kỹ mười hai nhân duyên rốt ráo không có ngã, sâu vào nơi bổn tánh thanh tịnh, thời có thể xa lìa ngọn lửa lớn ba cõi.
Này A Nan! Đức Như Lai là đấng chân ngữ nói lời thành thật, đây là lời phó chúc tối hậu, các ông phải y theo tu hành.
Này A Nan! Ông hỏi sau khi Phật diệt độ lấy gì làm thầy? Nên biết giới ba-la-đề-mộc-xoa là Đại Sư của các ông. Nương theo đó tu hành thời có thể được định huệ xuất thế.
Này A Nan! Ông hỏi sau khi Phật nhập Niết Bàn nương gì để trụ? Phải nương pháp tứ niệm xứ mà trụ: quan sát tánh tướng của thân đồng như hư không gọi là thân niệm xứ, quan sát sự cảm thọ chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chặn giữa gọi là thọ niệm xứ, quán sát tâm chỉ có danh tự, tánh danh tự rời rạc gọi là tâm niệm xứ, quan sát pháp thiện chẳng thể được nhảy gọi là pháp niệm xứ. Tất cả người tu hành phải nương theo pháp tứ niệm xứ này mà trụ.
Này A Nan! Ông hỏi sau khi Như Lai diệt độ lúc kết tập pháp tạng, đầu tất cả kinh để những lời gì?
Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ lúc kết tập pháp tạng đầu tất cả kinh nên để như vầy: "Như thị ngã văn nhất thời Phật trụ mỗ phương mỗ xứ, cùng hàng tứ chúng mà nói kinh này."
A Nan lại bạch Phật: "Lúc Phật ở đời, hoặc sau khi Phật nhập Niết Bàn, có tín tâm đàn việt đem vàng bạc bảy báu cùng tất cả đồ cần dùng dâng cúng cho Như Lai thời phải xử trí thế nào?"
Phật nói: "Lúc Phật còn, những vật cúng dường Phật, thời chúng tăng nên biết. Sau khi Phật diệt độ những vật cúng dường Phật, thời nên dùng tạo tượng Phật và tạo y của Phật, phan lọng bảy báu, sắm các thứ hương dầu bông để cúng dường Phật. Trừ việc cúng dường Phật ngoài ra chẳng được dùng. Người lạm dùng thời phạm tội lấy trộm vật của Phật."
A Nan lại bạch: "Lúc Phật còn có người đem vàng bạc bảy báu điện đường phòng nhà y phục đồ uống ăn tất cả đồ cần dùng, hoặc vợ con tôi tớ mà cung kính cúng dường Như Lai. Sau khi Phật nhập diệt nếu có người đem những vật như trên mà cung kính cúng dường tượng Phật. Bạch Thế Tôn! Phước đức của hai người này ai nhiều hơn?"
Phật nói: "Vì đều cung kính cúng dường cả nên phước đức của hai người được đồng nhau. Dầu Phật diệt độ nhưng pháp thân vẫn thường còn, nên cung kính cúng đường được phước vẫn đồng như Phật hiện tại."
A Nan lại bạch: "Lúc Phật hiện tại nếu có người đem những vật như trên cung kính cúng dường Phật, sau khi Như Lai nhập Niết Bàn, nếu có người đem những vật như trên cung kính cúng dường toàn thân xá lợi, phước đức của hai người này, ai nhiều hơn?"
Phật nói: "Hai người này được phước đồng nhau công đức rộng lớn vô lượng vô biên nhẫn đến hết khổ, phước đó chẳng hết."
A Nan lại bạch: "Lúc Phật hiện tại, nếu có người cung kính cúng dường Phật như trên, sau khi Phật nhập Niết Bàn nếu có người cung kính cúng dường nửa thân xá lợi ai được phước nhiều hơn?"
Phật nói: "Vì hai người đều cung kinh cúng dường nên được phước đồng nhau phước đức này vô lượng vô biên.
Này A Nan! Nhẫn đến cung kính cúng dường một phần tư xá lợi, một phần tám, một phần trăm, một phần ngàn, một phần muôn, một phần hằng hà sa, hoặc chừng bằng hột cải, người này đươc phước cũng đồng như người cung kính cúng dường đức Như Lai hiện tại.
A Nan nên biết rằng hoặc Phật hiện tại, hoặc đã nhập Niết Bàn, nếu có người cung kính cúng dường lễ bái tán thán, được phước đức đồng nhau không khác."
Phật bảo A Nan cùng đại chúng: "Sau khi ta nhập Niết Bàn, tất cả chúng sanh hoặc thiên thượng hay nhân gian, được xá lợi của ta mà vui mừng thương cảm cung kính lễ bái cúng dường, thời được vô lượng vô biên công đức.
Này A Nan! Nếu thấy xá lợi của Như Lai thời là thấy Phật, thấy Phật là thấy Pháp, thấy Pháp là thấy Tăng, thấy Tăng là thấy Niết Bàn.
A Nan nên biết rằng do nhân duyên trên đây mà Tam Bảo thường trụ không biến đổi, có thể làm chỗ quy y cho tất cả chúng sanh."
A Nan bạch Phật: "Sau khi Như Lai nhập Niết Bàn, tất cả đại chúng y theo phép tắc nào để trà tỳ thân Như Lai để được xá lợi cung kính cúng dường."
Phật nói: "Khi ta nhập Niết Bàn rồi, đại chúng nên y theo phương pháp trà tỳ Chuyển Luân Thánh Vương."
A Nan bạch Phật: "Pháp tắc trà tỳ Chuyển Luân Thánh Vương như thế nào?"
Phật nói: "Sau khi Chuyển Luân Thánh Vương mạng chung, đình thi hài bảy ngày mới để vào quan tài vàng, rồi lấy dầu thơi vi diệu đổ đầy quan tài đậy lại thật kín. Đủ bảy ngày đem thi hài ra, dùng nước thơm tắm rửa, đốt hương thơm cúng dường. Dùng bông Đâu La Miên bao khắp thân thể, sau đó dùng ngàn bức bạch điệp tốt đẹp vô giá thứ tự vấn chồng lên nhau khắp thi hài của Luân Vương. Vấn xong đổ dầu thơm đầy trong kim quan rồi mới để thi hài Luân Vương vào. Đậy kín quan tài xong, chở lên xe thất bảo, bốn mặt đeo các chuỗi ngọc, dùng châu báu trang nghiêm xe ấy, vô số phan lọng bằng châu báu tốt đẹp giăng treo trên xe. Đốt hương thơm, trổi đại nhạc để cúng dường. Sau đó dùng thuần những gỗ thơm cùng những dầu thơm mà trà tỳ. Trà tỳ xong hốt lấy xá lợi, xây tháp thất bảo giữa đường ngã tư trong thành, bốn phía tháp có bốn cửa an trí xá lợi trong đó, để cho tất cả mọi người đồng chiêm ngưỡng.
Này A Nan! Chuyển Luân Thánh Vương kia, do chút ít phước đức được nối ngôi vua chưa thoát khỏi ba cõi, còn đủ ngũ dục thê thiếp, ác kiến tham, sân, si, tất cả phiền não kiết sử chưa dứt được một mảy. Sau khi mạng chung mà thế gian còn theo các thức như vậy, dựng tháp cúng dường để mọi người chiêm ngưỡng, huống là đức Như Lai đã trải qua vô lượng, vô biên, vô số kiếp bỏ hẳn ngũ dục, tinh tấn thực hành tất cả khổ hạnh xuất thế của Bồ Tát, đã thành tựu đạo hạnh thậm thâm vi diệu thanh tịnh, giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, sáu môn ba-la-mật, tu tập thập lực, đại bi, bốn vô sở úy, ba môn giải thoát, mười tám đại không, lục thông, ngũ nhãn, ba mươi bảy phẩm, mười tám bất cộng, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thọ mạng của tất cả chư Phật, tất cả cõi Phật thanh tịnh, tất cả pháp thành tựu chúng sanh, tất cả khổ hạnh khó làm, tất cả nhiếp luật nghi giới, tất cả nhiếp thiện pháp giới, tất cả nhiếp chúng sanh giới, tất cả công đức, tất cả trí huệ, tất cả trang nghiêm, tất cả đại nguyện, tất cả phương tiện, tất cả trí huệ phước đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy, đều đã thành tựu đầy đủ, dứt trừ tất cả ác, dứt trừ tất cả phiền não, dứt trừ tất cả phiền não tập khí, thông đạt tứ đế thập nhị nhân duyên, nơi cội Bồ Đề hàng phục bốn ma thành tựu nhất thiết chủng trí. Được tất cả chư Phật xướng lời khen "Lành thay! Lành thay!". Đồng lấy nước trí pháp tánh, rưới lên đỉnh pháp thân, mới thành tựu vô thượng Bồ Đề. Do nhân duyên như vậy nên nay ta hiệu là Thiên Nhân Sư thập lực đẳng giác, Thế Tôn vô thượng, nhân gian thiên thượng không ai bằng, bình đẳng xem chúng sanh như La Hầu La, do đó ta hiệu là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Duyên giáo hoá thế gian đã xong, ta vì chúng sanh nên hôm nay thị hiện nhập Niết Bàn. Vì muốn cho chúng sanh khắp được cúng dường, nên ta theo pháp thế gian như vua Chuyển Luân mà tẩn táng cùng trà tỳ.
Tứ chúng nhân thiên đem xá lợi của Như Lai đựng trong bình thất bảo, xây dựng tháp thất bảo để cúng dường xá lợi, có thể làm cho chúng sanh được công đức lớn, lìa khổ ba cõi đến vui Niết Bàn.
Này A Nan! Hàng tứ chúng xây tháp thất bảo cúng dường xá lợi của Phật rồi, lại nên xây ba thứ tháp để cúng dường: tháp Bích Chi Phật, tháp A La Hán, tháp Chuyển Luân Thánh Vương, vì muốn cho mọi người biết chỗ quy y vậy."
A Nan bạch Phật: "Đức Như Lai ra đời thương xót chúng sanh, hiển bày thập lực, đại bi, bốn vô sở úy, ba môn giải thoát, tứ đế, mười hai nhân duyên, tám thứ phạm âm vang rền ba cõi, từ quang ngũ sắc soi khắp lục đạo, tùy thuận tâm nghiệp của chúng sanh mà chuyển pháp luân, có người chứng được bốn quả của nhị thừa tu tập, hoặc chứng đạo Duyên Giác vô lậu vô vi, hoặc nhập bậc Bồ Tát bất diệt bất sanh, hoặc được vô lượng Đà La Ni, hoặc được ngũ nhãn, hoặc được lục thông, hoặc thoát ba ác đạo, hoặc ra khỏi  tám nạn, hoặc lìa khổ trời người ba cõi. Đức từ thanh tịnh của Như Lai, pháp môn giải thoát của Như Lai đều chẳng thể nghĩ bàn.
Sau khi nhập diệt, hàng tứ chúng dựng tháp bảy báu cúng dường xá lợi được công đức lớn, có thể làm cho chúng sanh thoát khổ ba cõi, được chánh giải thoát. Do nhân duyên này nên khi Phật nhập Niết Bàn, tất cả thế gian vì báo đáp từ ân vô lượng của Phật mà xây tháp thất bảo để cúng dường xá lợi, theo lẽ phải như vậy. Ba thứ tháp kia có những lợi ích gì đối với chúng sanh mà đức Phật bảo dựng tháp cúng dường?"
Phật nói: "Bích Chi Phật tỏ ngộ nhân duyên của các pháp chứng nhập pháp tánh, đã thoát tất cả khổ hoạn trong tam giới, có thể làm phước điền cho nhân thiên. Do đây nên xây tháp cúng dường Bích Chi Phật được phước đức kế nơi sự cúng dường Như Lai, có thể làm cho chúng sanh đều được diệu quả.
Này A Nan! A La Hán kia đối với ba cõi đã hết sanh tử chẳng thọ thân đời sau, phạm hạnh đã lập có thể làm phước điền cho thế gian, nên xây tháp cúng dường được phước đức kế sự cúng dường Bích Chi Phật, cũng làm cho chúng sanh được nhân duyên giải thoát.
Này A Nan! Chuyển Luân Thánh Vương dầu chưa dứt phiền não, chưa giải thoát ba cõi, nhưng do phước đức mà cai trị bốn thiên hạ, đem pháp thập thiện giáo hóa nhân dân, là bậc tôn kính của mọi người, nên tứ chúng dựng tháp cúng dường, được phước đức cũng là vô lượng."
A Nan bạch Phật: "Sau khi Phật nhập Niết Bàn, hàng tứ chúng nên làm lễ trà tỳ đức Như Lai tại chỗ nào?"
Phật nói: "Sau khi ta nhập Niết Bàn, nếu tứ chúng làm lễ trà tỳ ở trong thành Câu Thi Na này, người trong thành tất tranh giành đánh đập nhau, và cũng làm cho tất cả mọi người được phước chẳng đồng nhau. Nên tứ chúng phải làm lễ trà tỳ ở ngoài thành, cho mọi người đều bình đẳng được phước."
A Nan bạch Phật: "Trà tỳ xong, tứ chúng dùng bình báu để đựng xá lợi, thời nên dựng tháp thất bảo ở tại chỗ nào để cho tất cả mọi người đều được cung kính cúng dường?"
Phật nói: "Nên ở trong thành Câu Thi Na, nơi ngã tư đường mà xây tháp cao mười ba tầng, trước tháp có tướng pháp luân, phan lọng, lan can đều bẳng thất bảo, bốn mặt tháp đều mở một cửa, từng lớp cửa nẻo xứng nhau an trí bình báu đựng xá lợi của Như lai trong đó cho tất cả trời người chiêm ngưỡng dúng dường.
Tháp Bích Chi Phật nên mười một tầng. Tháp của A La Hán nên bốn tầng. Cũng đều dùng các thứ báu mà trang nghiêm.
Tháp của Chuyển Luân Vương cũng xây bằng bảy báu nhưng không có tầng cấp, vì Luân Vương chưa thoát khổ sanh tử trong ba cõi."
A Nâu Lâu Đà bạch Phật: "Khi trà tỳ xong, tất cả trời người cùng bốn bộ chúng phân chia xá lợi của Phật như thế nào?"
Phật nói: "Nên dùng tâm bình đẳng phân chia xá lợi của Phật khắp ba cõi để tất cả thế gian đều được cúng dường."
Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhân bạch Phật: "Nay tôi xin cung kính thỉnh nửa thân xá lợi của Như Lai để cúng dường."
Phật bảo Thiên Đế: "Đức Như Lai bình đẳng xem chúng sanh như La Hầu La, ông chẳng nên thỉnh nửa thân xá lợi, vì phải để cho chúng sanh bình đẳng được lợi ích. Nay ta cho ông một cái răng nanh xá lợi hàm trên bên hữu, có thể xây tháp cúng dường ở trên trời, làm cho ông được phước đức vô tận."
Lúc đó tất cả đại chúng trời người buồn thương rơi lệ không tự dằn được.
Đức Thế Tôn bảo khắp đại chúng: "Khi Phật nhập Niết Bàn rồi, đại chúng chớ quá sầu não. Vì dầu Phật nhập Niết Bàn mà xá lợi vẫn thường còn để cúng dường. Lại có những pháp bảo vô thượng: tạng Tu đa-la, tạng Tỳ Nại Da, tạng Ma Ha Đạt Ma, do đây Tam Bảo và tứ đế vẫn thường trụ ở thế gian, làm chỗ quy y cho chúng sanh. Vì cúng dường xá lợi tức là Phật Bảo, thấy Phật Bảo là thấy pháp thân, thấy pháp thân là thấy hiền thánh, thấy hiền thánh là thấy tứ đế, thấy tứ đế là thấy Niết Bàn. Do đây nên biết rằng Tam Bảo thường trụ không biến đổi, có thể làm chỗ quy y cho thế gian.
Đại chúng chớ quá sầu khổ. Nay ta ở đây sắp nhập Niết Bàn. Trong những pháp: quy y, giới luật, thường, vô thường, tam bảo, tứ đế, lục độ, mười hai nhân duyên v.v…, nếu ai có điều chi nghi phải mau thưa hỏi, đây là lời hỏi rốt ráo cuối cùng, để sau khi Phật nhập Niết Bàn không còn nghi hối."
Đức Phật phổ cáo trong đại chúng ba lần như vậy.
Tất cả đại chúng không ai thưa hỏi, vì ai nấy đều thông đạt hiểu rõ không còn nghi ngờ.
Đức Thế Tôn kheo rằng: "Lành thay! Lành thay! Đại chúng đã có thể thông đạt các pháp không còn nghi ngờ, như nước sạch rửa hết bụi nhơ nơi thân. Đại chúng phải tinh tấn sớm được giải thoát chớ sầu não mê muội loạn tâm."
Lúc đó đức Thế Tôn ngồi trên tòa sư tử, lấy tay vàng vạch y tăng-già-lê để lộ ngực huỳnh kim cho đại chúng thấy rồi bảo rằng: "Tất cả đại chúng trời người nên chí tâm nhìn xem sắc thân huỳnhh kim của Như Lai!"
Đại chúng chiêm ngưỡng sắc thân vàng ròng của Phật thảy đều sung sướng như Tỳ Kheo nhập đệ tam thiền.
Sau đó đức Thế Tôn phóng vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức ánh sáng đại Niết Bàn chiếu khắp tất cả thế giới mười phương, che khuất ánh sáng của tất cả mặt trời mặt trăng.
Phóng ánh sáng trên đây rồi đức Phật bảo đại chúng: "Mọi người nên biết rằng đức Như Lai vì tất cả đại chúng mà cần khổ trong nhiều kiếp, đến chặt tay chân lóc da thịt, đại bi đại nguyện thành bậc vô thượng chánh giác nơi đời ngũ trược này, được sắc thân Kim Cang bất hoại đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, vô lượng ánh sáng chiếu khắp tất cả. Ai thấy được hình, gặp được ánh sáng của Phật, đều được giải thoát cả.
Này đại chúng! Phật ra đời rất khó gặp khó thấy như hoa Ưu Đàm. Đại chúng gặp ta đây là lần sau cùng, đối với thân này chớ để luống qua. Do sức thệ nguyện mà ta sanh nơi cõi uế ác này. Duyên giáo hóa đã hoàn tất, nay ta muốn nhập Niết Bàn. Đại chúng nên chí thành nhìn xem sắc thân huỳnh kim của ta, cố gắng tu tập nghiệp thanh tịnh như vậy, đời vị lai sẽ được quả báo này."
Đức Thế Tôn ba phen ân cần khuyên bảo như vậy, đồng thời bày thân chân kim cho đại chúng thấy.
Sau đó đức Phật từ trên giường thất bảo sư tử bay lên hư không cao bằng một cây đa-la, bảo một lần rằng: "Ta sắp nhập Niết Bàn, đại chúng nhìn xem sắc thân huỳnh kim của ta!"
Lần lượt đức Phật bay trên cao bằng bảy cây đa-la, bảy lần bảo rằng: "Ta sắp nhập Niết Bàn, đại chúng nên chí tâm nhìn xem sắc thân huỳnh kim của ta!"
Từ hư không xuống ngồi trên giường sư tử đức Phật lại bảo: "Ta sắp nhập Niết Bàn, đại chúng nên chí tâm nhìn xem sắc thân huỳnh kim của ta!"
Đức Thế Tôn từ trên giường sư tử lại bay lên hư không cao bằng một cây đa-la, thời một lần bảo đại chúng, lần lượt bay cao bằng bảy cây đa-la, bảy lần bảo rằng: "Ta sắp nhập Niết Bàn, đại chúng nên chí tâm nhìn xem sắc thân huỳnh kim của ta!"
Từ hư không suống ngồi trên giường sư tử, đức Phật lại kêu đại chúng mà bảo rằng: "Ta sắp nhập Niết Bàn, đại chúng nên chí tâm nhìn xem sắc thân huỳnh kim của ta!"
Lần thứ ba, đức Thế Tôn cũng từ trên giường sư tử bay lên hư không cao bằng bảy cây đa-la, đồng thời cũng bảy lần bảo đại chúng như vậy. Từ hư không xuống ngồi trên giường thất bảo đức Phật lại bảo: "Ta sắp nhập Niết Bàn, đại chúng nên chí tâm nhìn xem nơi sắc thân của ta!"
Đức Phật hai mươi bốn lần ân cân bảo đại chúng như vậy, rồi lại bảo rằng: "Ta sắp nhập Niết Bàn, đại chúng nên chí tâm nhìn xem sắc thân vô úy kim cang bất hoại của ta rất khó gặp gỡ như hoa Ưu Đàm, như người quá khát gặp nước trong mát thời uống đến no không còn khao khát, đại chúng cũng phải như vậy, nên chí tâm chiêm ngưỡng sắc thân của Như Lai lần sau cùng, sau lần thấy này không còn thấy lại nữa. Đại chúng nên chiêm ngưỡng cho thỏa mãn để về sau khỏi ăn năn.
Sau khi ta nhập Niết Bàn, đại chúng phải tinh tấn tu hành sớm ra khỏi ba cõi, chớ có giãi đãi phóng dật tán tâm."
Lúc đó tất cả đại chúng trời người trong tất cả thế giới mười phương được gặp ánh sáng Niết Bàn, được chiêm ngưỡng đức Phật đều được giải thoát. Những chúng sanh được gặp được thấy đều được dứt hẳn tam đồ bát nạn, bốn tội trọng, năm tội nghịch, đến tất cả phiền não đều dứt hẳn không còn thừa.

Sau khi lộ bày sắc thân huỳnh kim cho tứ chúng chiêm ngưỡng và ân cần khuyến cáo xong, đức Thế Tôn kéo y-tăng-già đắp lại như cũ.