Wednesday, July 8, 2015

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q3) - Phẩm CA DIẾP BỒ TÁT (phần 4)

- Bạch Thế Tôn! Chúng sanh có một thân làm sao có thể khởi ra các thứ phiền não?
- Này thiện nam tử! Như trong một cái chậu đựng nhiều thứ hột giống, lúc có nước mưa thời mỗi hột giống đều tự mọc lên. Chúng sanh cũng như vậy, thân dầu chỉ có một, do nhân duyên tham ái mà có thể sanh trưởng các thứ phiền não.
- Bạch Thế Tôn! Người trí quán sát quả báo như thế nào?
- Này thiện nam tử! Người trí nên quán sát nhân duyên của các lậu có thể sanh thân tam đồ, nhân duyên của các lậu được thân nhân thiên, đều là vô thường, khổ, không, vô ngã. Trong thân này có ba thứ khổ, ba thứ vô thường. Nhân duyên của các lậu này có thể làm cho chúng sanh tạo tội ngũ nghịch thọ lấy ác báo, có thể dứt mất căn lành, phạm bốn tội trọng, hủy báng Tam Bảo.
Người trí lại nên quan sát ngày nay ta đã có thân như vầy, chẳng nên sanh khởi những phiền não như vậy để khỏi mang lấy những ác quả.
- Bạch Thế Tôn! Có quả vô lậu. Lúc người trí dứt những quả báo, quả báo vô lậu này có ở trong số bị dứt đây chăng?
Những người đắc đạo có quả vô lậu. Người trí kia cầu quả vô lậu. Tại sao đức Phật nói rằng tất cả người trí nên dứt quả báo. Nếu dứt quả báo thời ngày nay làm sao có các bậc thánh nhân?
- Này thiện nam tử! Có lúc đức Như Lai trong nhân mà nói quả, có lúc trong quả mà nói nhân.
Như người đời nói đất sét chính là cái bình, những sợi chỉ chính là cái áo, đây gọi là trong nhân mà nói quả.
Như người đời nói con bò chính là nước và cỏ, người chính là đồ ăn, đây là trong quả mà nói nhân. Ta cũng ở trong nhân mà nói quả như vậy. Như trong khế kinh trước kia ta từng nói rằng: Ta từ nơi tâm mà thân đến cõi Phạm Thiên, đây gọi là trong nhân mà nói quả. Lục nhập này là nghiệp quá khứ, đây gọi trong quả mà nói nhân.
Này thiện nam tử! Thật ra tất cả thánh nhân không có quả báo vô lậu. Tất cả thánh nhân tu hành thánh đạo được quả báo chẳng còn sanh các lậu do đây nên gọi là quả báo vô lậu.
Này thiện nam tử! Người trí lúc quán sát như vậy liền dứt hẳn được quả báo của phiền não. Vì dứt quả báo phiền não này mà tu tập thánh đạo: không vô tướng và vô nguyện. Tu tập thánh đạo này có thể dứt tất cả quả báo của phiền não.
- Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sanh đều do phiền não mà có quả báo. Phiền não chính là ác. Từ phiền não ác sanh ra phiền não cũng gọi là ác. Phiền não như vậy có hai thứ: nhân và quả. Vì nhân ác nên quả ác, vì quả ác nên nhân ác.
Như trái nhâm-bà vì hột nó đắng, nên bông trái cây lá tất cả đều đắng. Như cây độc vì hột nó độc nên trái cũng độc.
Nhân là chúng sanh quả cũng chúng sanh. Nhân là phiền não quả cũng phiền não. Nhân quả phiền não chính là chúng sanh. Chúng sanh chính là nhân quả phiền não.
Nếu cứ theo nghĩa này, cớ sao đức Như Lai trước kia nói dụ núi Tuyết cũng có cỏ độc, cũng có cây thuốc hay?
Nếu nói phiền não là chúng sanh, chúng sanh là phiền não, sao Phật lại nói trong thân chúng sanh có cây thuốc hay?
- Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Vô lượng chúng sanh đều đồng nghi như vậy. Nay ông vì chúng sanh mà thưa hỏi. Ta cũng có thể giải thích để trừ nghi.
Ông nên lóng nghe khéo suy nghĩ và ghi nhớ đó.
Này thiện nam tử! Núi Tuyết kia dụ cho chúng sanh, cỏ độc là nói phiền não, cây thuốc hay là chỉ có phạm hạnh thanh tịnh.
Này thiện nam tử! Nếu có chúng sanh tu tập phạm hạnh thanh tịnh như vậy, thời gọi là trong thân có thuốc hay.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào chúng sanh có phạm hạnh thanh tịnh?
- Này thiện nam tử! Như trong đời, từ hột sanh ra trái. Trái này có thứ sanh ra hột, có thứ chẳng sanh. Thứ có thể sanh ra hột thời gọi là quả tử. Thứ không thể sanh chỉ được gọi là quả chẳng được gọi là tử.
Tất cả chúng sanh cũng như vậy, có hai hạng: một là có quả phiền não là nhân phiền não, hai là có quả phiền não chẳng phải nhân phiền não. Hạng sau đây gọi là phạm hạnh thanh tịnh.
Này thiện nam tử! Chúng sanh quán sát thọ ấm, biết nó là cận nhân của tất cả lậu. Vì thọ ấm làm nhân duyên nên không thể dứt tuyệt tất cả các lậu, cũng không thể ra khỏi ngục tam giới. Nhân nơi thọ mà chúng sanh chấp ngã và ngã sở, sanh ra tâm đảo, tưởng đảo và kiến đảo. Do đây nên chúng sanh trước phải quan sát thọ ấm. Thọ này là cận nhân của tất cả ái. Do đây nên người trí muốn dứt tham ái, trước phải quan sát thọ.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh, mười hai nhân duyên chỗ gây tạo nghiệp thiện ác đều nhân nơi thọ. Do đây nên ta từng bảo A Nan rằng: Tất cả chúng sanh tạo nghiệp thiện ác đều do nơi thọ. Nên người trí trước phải quan sát thọ.
Đã quan sát thọ rồi lại phải quan sát thọ này do nhân duyên gì mà sanh? Nếu do nhân duyên sanh, thời nhân duyên đó lại từ đâu mà sanh? Nếu không nhân duyên mà sanh, thời không nhân kia cớ sao chẳng sanh không thọ?
Lại quan sát thọ này chẳng phải do Tự Tại Thiên sanh, chẳng do sĩ phu sanh, chẳng do vi trần sanh, chẳng phải thời tiết sanh, chẳng do tưởng sanh, chẳng do tánh sanh, chẳng phải tự sanh, chẳng phải tha sanh, chẳng phải vô nhân sanh. Thọ này từ các duyên hòa hiệp mà sanh, duyên đây chính là ái. Trong sự hòa hiệp này chẳng phải có thọ chẳng phải không thọ. Do đây nên ta phải dứt sự hòa hiệp này. Vì dứt hòa hiệp nên chẳng sanh ra thọ.
Này thiện nam tử! Người trí quán sát nhân rồi kế quán sát quả báo: chúng sanh do nơi thọ mà thọ báo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhẫn đến thọ vô lượng sự khổ não trong tam giới. Do nơi thọ mà thọ lấy sự vui hư huyễn vô thường. Do nơi thọ mà dứt căn lành. Do nơi thọ mà được giải thoát. Lúc quán sát như vậy thời chẳng làm nhân cho thọ.
Thế nào gọi là chẳng làm nhân cho thọ? Chính là phân biệt thọ: những thọ gì có thể làm nhân cho ái? Những ái gì có thể làm nhân cho thọ?
Này thiện nam tử! Nếu chúng sanh có thể quán sát rành rẽ ái nhân và thọ nhân như vậy, thời có thể dứt ngã và ngã sở.
Này thiện nam tử! Nếu người nào có thể quán sát những điều như vậy, thời nên biện biệt ái cùng thọ dứt tại chỗ nào? Bèn thấy ái và thọ có chỗ diệt phần ít, do đây biết rằng cũng phải có diệt hoàn toàn. Bấy giờ ở nơi giải thoát người này sanh tín tâm, quan sát chỗ giải thoát này do đâu mà được. Quan sát rồi biết rõ từ bát chánh đạo nên liền tu tập.
Thế nào gọi là bát chánh đạo? Đạo này quan sát thọ có ba tướng: Một là khổ, hai là lạc, ba là bất khổ bất lạc. Ba tướng này đều có thể làm cho thân tâm tăng trưởng.
Nhân duyên gì mà có thể tăng trưởng? Vì xúc làm nhân duyên. Xúc này có ba: một là vô minh xúc, hai là minh xúc, ba là phi-minh phi-vô-phi xúc. Minh xúc đây chính là bát chánh đạo. Hai xúc kia thời tăng trưởng thân tâm và ba món thọ. Do đây nên phải dứt hai món xúc này. Xúc đã dứt nên chẳng sanh ba món thọ.
Này thiện nam tử! Thọ này cũng gọi là nhân cũng gọi là quả. Người trí phải quán sát cũng nhân cũng quả này: Nhân thọ sanh ra ái gọi đó là nhân. Thọ nhân nơi xúc mà sanh đây gọi là quả.
Người trí quán sát thọ như vậy rồi, kế lại quán sát ái. Quả báo của thọ gọi là ái. Quán sát ái có hai thứ: Một là tạp thực, hai là vô thực.
Tạp thực ái làm nhân sanh ra già bệnh chết tất cả những cõi hữu lậu. Vô thực ái thời dứt sanh già bệnh chết tất cả các cõi mà tham ưa đạo vô lậu.
Lại nên nghĩ rằng: Nếu ta sanh tạp thực ái này thời không thể dứt được sanh lão bệnh tử. Nay dầu ta tham đạo vô lậu, nếu chẳng dứt thọ nhân, thời không thể được đạo quả vô lậu. Do đây nên phải dứt xúc này trước. Xúc đã dứt thời thọ tự diệt. Thọ đã diệt thời ái cũng mất theo. Đây gọi là bát chánh đạo.
Này thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào quán sát như vậy, dầu hiện tại có thân ác độc, nhưng trong đó cũng có cây thuốc hay. Như trong núi Tuyết dầu có cỏ độc nhưng cũng có cây thuốc tốt.
Những chúng sanh này dầu do phiền não mà có quả báo, nhưng quả báo này chẳng còn lại sanh phiền não, đây gọi là phạm hạnh thanh tịnh.
Này thiện nam tử! Người trí phải quan sát hai thứ thọ và ái do nhân duyên gì sanh ra? Biết do nơi tưởng mà sanh. Vì chúng sanh lúc thấy sắc cũng chẳng sanh tham. Đến lúc quán thọ cũng chẳng sanh tham. Nếu ở trong sắc mà sanh tưởng điên đảo, cho rằng sắc là thường, lạc, ngã, tịnh. Thọ là thường hằng không biến đổi. Do tưởng điên đảo này mà sanh tham, sân, si. Do đây nên người trí phải quan sát.
Và phải suy nghĩ rằng: Tất cả chúng sanh lúc chưa được chánh đạo đều có tưởng điên đảo: Ở trong chẳng phải thường, lạc, ngã, tịnh mà nhận là thường, lạc, ngã, tịnh. Nơi pháp chẳng phải nam, nữ, lớn, nhỏ, ngày đêm, năm tháng, y phục, nhà cửa v.v… mà tưởng là nam, là nữ v.v…
Tưởng này có ba thứ: Tiểu, đại và vô lượng. Vì nhân duyên nhỏ nên sanh tưởng nhỏ. Vì nhân duyên lớn nên sanh tưởng lớn. Vì vô lượng duyên nên sanh tưởng vô lượng.
Lại có tưởng nhỏ chính là chưa nhập định, tưởng lớn là nói đã nhập định, vô lượng tưởng là nói mười nhất thiết nhập.
Lại có tưởng nhỏ là tất cả tưởng ở cõi dục, tưởng lớn là tất cả tưởng ở cõi sắc, vô lượng tưởng là tất cả tưởng ở cõi vô sắc.
Vì ba thứ tưởng này diệt nên thọ cũng tự diệt. Vì tưởng thọ diệt nên gọi là giải thoát.
- Bạch Thế Tôn! Diệt tát cả pháp gọi là giải thoát, sao đức Như Lai nói tưởng thọ diệt gọi là giải thoát?
Này thiện nam tử! Như Lai có lúc nhân chúng sanh mà thuyết pháp, người nghe hiểu được pháp.
Như trước kia ta bảo Đại Ca Diếp: lúc chúng sanh diệt thời pháp lành diệt. Hoặc có lúc ta nhân nơi pháp mà nói chúng sanh, người nghe cũng hiểu là nói chúng sanh. Như trước kia ta bảo A Nan rằng: đức Phật cũng chẳng nói gần gũi tất cả pháp, lại cũng chẳng nói chẳng gần gũi tất cả pháp. Nếu đã gần nơi pháp mà pháp lành kém suy, pháp ác lừng thạnh, thời chẳng nên gần pháp đó. Nếu đã gần nơi pháp nào mà điều ác suy diệt, điều lành thêm lớn, thời nên gần gũi pháp đó.
Này thiện nam tử! Dầu đức Như Lai nói tưởng thọ diệt, nhưng đã tổng nói dứt tất cả pháp nên dứt.
Người trí đã quán tưởng như vậy rồi, kế lại quán nhân của tưởng: vô lượng tưởng này nhân đâu mà sanh? Biết rằng nhân xúc mà sanh. Xúc này có hai: một là do phiền não mà có xúc, hai là do giải thoát mà có xúc. Do vô minh sanh gọi là phiền não xúc, do minh sanh gọi là giải thoát xúc. Nhân nơi phiền não xúc sanh ra đảo tưởng. Nhân nơi giải thoát xúc sanh ra bất đảo tưởng. Quán sát nhân của tưởng rồi kế lại quán sát quả báo.
- Bạch Thế Tôn! Nếu vì nhân nơi tưởng phiền não này mà sanh đảo tưởng, thời tất cả thánh nhân thiệt có đảo tưởng mà không phiền não.
- Này thiện nam tử! Thế nào là thánh nhân mà có đảo tưởng?
- Bạch Thế Tôn! Tất cả thánh nhân đối với con bò con ngựa tưởng là bò là ngựa rồi cũng nói là bò là ngựa. Đối với nam nữ lớn nhỏ nhà cửa v.v… cũng như vậy, do đây nên gọi là đảo tưởng.
- Này thiện nam tử! Tất cả phàm phu có hai thứ tưởng: một là thế lưu bố tưởng, hai là chấp trước tưởng. Tất cả thánh nhân chỉ có thế lưu bố tưởng, không có chấp trước tưởng. Tất cả phàm phu vì ác giác quán nên đối với thế lưu bố sanh ra chấp trước tưởng. Tất cả thánh nhân vì thiện giác quán nên đối với thế lưu bố chẳng sanh tưởng chấp trước. Do đây nên biết phàm phu gọi là đảo tưởng. Thánh nhân dầu biết các pháp mà chẳng gọi là đảo tưởng.
Người trí quán sát nhân của tưởng rồi kế lại quán quả báo: ác tưởng này thọ quả nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhân và thiên. Như ta do vì dứt ác giác quán nên vô minh xúc dứt, do đây mà tưởng dứt, vì tưởng dứt nên quả báo cũng dứt. Người trí vì dứt nhân của tưởng nên tu bát chánh đạo.
Nếu có người quán sát được như vậy, thời gọi là phạm hạnh thanh tịnh.
Này thiện nam tử! Như trên đây gọi là trong thân ác độc của chúng sanh mà có thuốc hay. Như trong núi Tuyết dầu có cỏ độc nhưng cũng có cây thuốc hay.
Này thiện nam tử! Người trí kế lại quán sát dục, tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Đây là đức Như Lai ở trong nhân mà nói quả, vì từ năm trần này mà sanh ra dục, thiệt ra năm trần chẳng phải dục.
Này thiện nam tử! Người ngu si vì tham cầu thọ lấy nên đối với sắc sanh ra tưởng điên đảo, đối với thanh, hương, vị, xúc cũng sanh ra điên đảo. Do đảo tưởng làm nhân duyên mà sanh ra thọ. Do đây nên trong đời nói rằng nhân đảo tưởng sanh ra mười món tưởng.
Do dục làm nhân duyên mà thọ lấy quả báo ác nơi thế gian. Đem sự ác làm hại cha mẹ, Sa Môn, Bà La Môn v.v…, chỗ chẳng nên làm ác mà cố làm chẳng tiếc thân mạng. Người trí quán sát ác tưởng này làm nhân duyên mà sanh ra dục tâm.
Quán sát nhân duyên của dục rồi kế lại quán sát quả báo: dục này có nhiều quả báo ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhân và thiên.
Nếu những ác tưởng này đã trừ diệt được, thời vĩnh viễn chẳng sanh dục tâm này, vì không dục tâm nên chẳng sanh ác thọ, đã không ác thọ thời không ác quả, do đây nên phải dứt ác tưởng trước. Ác tưởng đã dứt thời những pháp ác khác tự nhiên đều dứt. Do cớ trên đây nên người trí vì dứt ác tưởng mà tu bát chánh đạo, đây gọi là phạm hạnh thanh tịnh, cũng gọi là trong thân độc của chúng sanh có vị thuốc hay. Như trong núi Tuyết dầu có cỏ độc nhưng cũng có cây thuốc.
Này thiện nam tử! Người trí quán dục như vậy rồi kế nên quán nghiệp. Phải suy rằng: bốn thứ thọ, tưởng, xúc và dục chính là phiền não. Phiền não này có thể làm sanh nghiệp mà chẳng làm thọ nghiệp. Phiền não này cùng đi với nghiệp có hai thứ: một là làm sanh nghiệp, hai là làm tác nghiệp.
Do đây nên người trí phải quán sát nơi nghiệp. Nghiệp này có ba: thân, khẩu và ý. Hai nghiệp thân, khẩu tên là nghiệp mà cũng gọi là nghiệp quả, ý chỉ gọi là nghiệp, vì là nhân của nghiệp nên gọi là nghiệp. Hai nghiệp thân, khẩu là nghiệp ngoài, ý gọi là nghiệp trong. Ba thứ nghiệp này đi chung với phiền não làm thành hai thứ nghiệp: một là sanh nghiệp, hai là thọ nghiệp.
Này thiện nam tử! Chánh nghiệp tức là ý, kỳ nghiệp tức là thân khẩu. Phát sanh trước gọi là ý nghiệp, từ ý nghiệp sanh ra gọi là thân-khẩu-nghiệp. Do đây nên ý nghiệp được gọi là chánh.
Người trí đã quán nghiệp rồi kế lại quán nghiệp nhân. Nghiệp nhân đây là vô minh xúc. Do nơi vô minh xúc mà chúng sanh cầu lấy có. Nhân duyên cầu lấy có tức là ái. Nhân nơi ái mà gây tạo ba thứ nghiệp thân, khẩu, ý.
Người trí quán nghiệp nhân rồi kế lại quán quả báo. Quả báo đây có bốn: một là hắc-hắc quả báo, hai là bạch-bạch quả báo, ba là tạp-tạp quả báo, bốn là bất-hắc bất-bạch quả báo.
Hắc-hắc quả báo là lúc tạo nghiệp nhơ đục quả báo cũng nhơ đục. Bạch-bạch quả báo là lúc tạo nghiệp thanh tịnh, quả báo cũng thanh tịnh.
Tạp-tạp quả báo là lúc tạo nghiệp tạp quả báo cũng tạp. Bất-bạch bất-hắc quả báo là nói vô lậu nghiệp.
- Bạch Thế Tôn! Trước kia đức Như Lai nói vô lậu không có quả báo, cớ sao nay lại nói vô lậu là bất-bạch bất-hắc quả báo.
- Này thiện nam tử! Nghĩa này có hai: một là cũng quả cũng báo, hai là chỉ quả chẳng phải báo. Hắc-hắc quả báo là quả cũng là báo: do nghiệp nhân hắc mà sanh ra nên gọi là quả, nó lại có thể làm nhân nên lại gọi là báo. Bạch-bạch và tạp-tạp cũng như vậy. Quả vô lậu nhân nơi hữu lậu mà sanh nên gọi là quả, nó chẳng làm nhân cho pháp khác nên chẳng gọi là báo. Do đây nên vô lậu gọi là quả mà chẳng gọi là báo.
- Bạch Thế Tôn! Nghiệp vô lậu này chẳng phải là hắc pháp, duyên cớ gì chẳng gọi nó là bạch?
- Này thiện nam tử! Vì vô lậu không có báo nên chẳng gọi là bạch. Vì đối trị hắc nên gọi là bạch. Nay ta nói thọ quả báo gọi là hắc-bạch. Vì nghiệp vô lậu này chẳng thọ báo nên chẳng gọi là bạch mà gọi là tịch tịnh.
Nghiệp như vậy có chỗ định thọ báo, như mười pháp ác quyết định ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, mười nghiệp lành quyết định ở nhân, thiên.
Mười pháp ác có thượng, trung và hạ: Nghiệp thượng thọ thân địa ngục, nghiệp trung thọ thân súc sanh, nghiệp hạ thọ thân ngạ quỷ.
Mười nghiệp lành về nhân đạo có bốn hạng: Nghiệp hạ sanh Bắc Câu Lô Châu, nghiệp trung sanh Tây Ngưu Hóa Châu, nghiệp thượng sanh Đông Thắng Thân Châu, nghiệp thượng thượng sanh Diêm Phù Đề.
Người trí quán sát như vậy rồi liền nghĩ rằng: Ta phải làm thế nào dứt những quả báo ấy? Lại nghĩ rằng nhân duyên của những nghiệp này do vô minh xúc sanh ra, nếu ta dứt trừ vô minh cùng xúc, thời nghiệp quả này dứt mất chẳng còn sanh. Vì dứt trừ vô minh và xúc nên người trí tu bát chánh đạo, đây gọi là phạm hạnh thanh tịnh. Cũng gọi là trong thân độc của chúng sanh có vị thuốc hay, như trong núi Tuyết dầu có cỏ độc nhưng cũng có cây thuốc.
Này thiện nam tử! Người trí quan sát nghiệp và quan sát phiền não rồi, kế lại quan sát quả báo của hai thứ này: tức là khổ. Đã biết là khổ thời có thể xa lìa tất cả sự thọ sanh.
Người trí lại quan sát phiền não làm nhân duyên sanh ra phiền não, nghiệp cũng làm nhân duyên sanh ra phiền não. Phiền não lại làm nhân duyên sanh ra nghiệp, nghiệp làm nhân duyên sanh ra khổ, khổ làm nhân duyên sanh ra phiền não, phiền não làm nhân duyên sanh ra hữu, hữu làm nhân duyên sanh ra khổ, khổ làm nhân duyên sanh ra hữu, hữu làm nhân duyên sanh ra nghiệp, nghiệp làm nhân duyên sanh ra phiền não, phiền não làm nhân duyên sanh ra khổ, khổ làm nhân duyên sanh ra nghiệp.
Này thiện nam tử! Nếu ai có thể quan sát như vậy, nên biết rằng người này có thể quán sát nghiệp khổ, vì những điều quán sát như vậy chính là mười hai nhân duyên sanh tử, người này chẳng gây tạo nghiệp mới, có thể phá hoại nghiệp cũ.
Này thiện nam tử! Người trí quán sát sự khổ nơi địa ngục. Quán sát nơi địa ngục nhẫn đến ba trăm ba mươi sáu sở. Mỗi địa ngục đều có các sự khổ, đều do phiền não và nghiệp sanh ra. Quán sát địa ngục rồi kế lại quán sát những sự khổ của ngạ quỷ và súc sanh. Kế lại quán sát những sự khổ của nhân gian và của chư thiên. Những sự khổ như vậy đều do nơi phiền não và nghiệp sanh ra.
Này thiện nam tử! Trên các cõi trời dầu không những sự khổ não lớn, nhưng thân thể của chư thiên mềm dịu mịn trơn, lúc năm tướng suy hiện ra họ cũng thọ lấy sự khổ lớn, như sự khổ của địa ngục.
Này thiện nam tử! Người trí quan sát những sự khổ của tam giới đều do nơi phiền não và nghiệp mà sanh. Như đồ bằng đất chưa hầm thời dễ bể hư. Thân thể của chúng sanh cũng như vậy, là những đồ đầy sự khổ. Như cây to bông trái sum sê bầy chim có thể làm hư hại. Như nhiều cỏ khô chút lửa cũng có thể cháy hết. Thân thể của chúng sanh bị những sự khổ làm hư hoại cũng như vậy. Người trí nếu có thể quán sát tám thứ khổ, người này có thể dứt được những sự khổ.
Này thiện nam tử! Đã quán sát tám sự khổ rồi kế lại quán sát khổ nhân.
Khổ nhân đây là ái cùng vô minh. Có hai thứ: một là cầu thân thể, hai là cầu của cải, hai thứ này đều là khổ, do đây nên biết ái cùng vô minh là khổ nhân. Lại có hai thứ: một là nội, hai là ngoại. Nội có thể gây nghiệp, ngoại có thể làm tăng trưởng. Nội lại có thể gây nghiệp, ngoại làm thành nghiệp quả.
Đã dứt nội ái thời nghiệp cũng dứt, dứt được ngoại ái thời quả cũng dứt. Nội ái có thể sanh khổ đời vị lai, ngoại ái có thể sanh khổ đời hiện tại. Do đây nên ái là khổ nhân.
Đã quán khổ nhân rồi kế lại quán sát quả báo. Quả báo của khổ chính là thủ, ái quả gọi là thủ. Nhân duyên của thủ này tức là nội ái và ngoại ái do đây có ái khổ.
Người trí phải quán sát ái làm nhân duyên cho thủ, thủ nhân duyên nơi ái, nếu có thể dứt ái và thủ thời chẳng tạo nghiệp thọ khổ. Do đây nên người trí vì dứt trừ ái khổ mà tu bát chánh đạo. Đây gọi là phạm hạnh thanh tịnh, cũng gọi là trong thân độc của chúng sanh có vị thuốc hay. Như trong núi Tuyết dầu có cỏ độc nhưng cũng có cây thuốc.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là phạm hạnh thanh tịnh?
- Này thiện nam tử! Chính là tất cả pháp.
- Bạch Thế Tôn! Nghĩa của tất cả pháp chẳng nhất định. Vì đức Như Lai có lúc nói là thiện, bất thiện. Có lúc nói là tứ niệm xứ quán. Hoặc nói là thập nhị nhập. Hoặc nói là thiện tri thức. Hoặc nói là thập nhị nhân duyên. Hoặc nói là chúng sanh. Hoặc nói là chánh kiến, tà kiến. Hoặc nói là mười hai bộ kinh. Hoặc nói là nhị đế.
Hôm nay đức Như Lai lại nói tất cả pháp là phạm hạnh thanh tịnh, đó là những tất cả pháp gì?
- Này thiện nam tử! Kinh Đại Niết Bàn vi diệu này là bảo tạng trong tất cả pháp.
Như biển cả là kho chứa những châu báu, kinh Đại Niết Bàn này cũng như vậy, là bí tạng của tất cả chữ nghĩa.
Như núi Tu Di là cội gốc của các vị thuốc, kinh này cũng là cội gốc của giới Bồ Tát.
Như hư không là chỗ ở của tất cả vật, kinh này cũng là chỗ ở của tất cả pháp lành.
Như luồng gió mạnh không gì trói buộc được. Tất cả Bồ Tát thực hành kinh này cũng chẳng bị tất cả phiền não trói buộc.
Như chất kim cương không gì phá hoại được, kinh này dầu có ngoại đạo ác tà cũng chẳng phá hoại được.
Như cát sông Hằng không ai đếm được, ý nghĩa của kinh này cũng không ai đếm được.
Kinh này là pháp tràng của Bồ Tát, như bảo tràng của Thiên Đế Thích.
Kinh này là vị thương chủ thẳng đến thành Niết Bàn, như bậc đạo sự dẫn các thương nhân thẳng đến biển cả.
Kinh này có thể làm ánh sáng pháp cho Bồ Tát, như mặt trời mặt trăng có thể phá tối tăm ở thế gian.
Kinh này có thể làm vị thuốc hay cho chúng sanh mang bệnh khổ, như trong núi Tuyết có cây thuốc hay trị được các thứ bệnh.
Kinh này có thể làm gậy cho nhất-xiển-đề, như người quá yếu nhờ gậy mà đứng dậy được.
Kinh này có thể làm cầu đò cho tất cả người ác, như cây cầu là chỗ tất cả người đi qua.
Kinh này làm bóng mát cho những ai bị nóng phiền não trong hai mươi lăm cõi, như cây lọng che nắng nóng.
Kinh này là vua đại vô úy có thể phá hoại tất cả ác ma phiền não, như Sư Tử Vương hàng phục bầy thú.
Kinh này là đại thần chú có thể phá hoại tất cả ác quỷ phiền não, như chú sư trong đời có thể đuổi trừ quỷ vọng lượng.
Kinh này là mưa đá vô thượng có thể phá hoại tất cả quả báo sanh tử.
Kinh này có thể làm vị thuốc hay cho người hư con mắt giới, như thuốc An Xà Na trị lành con mắt đau.
Kinh này có thể làm chỗ ở cho tất cả pháp lành, như mặt đất làm chỗ ở cho muôn vật.
Kinh này là gương sáng của chúng sanh phá giới, như gương sáng soi các hình tượng.
Kinh này có thể làm y phục cho người không tàm quý, như áo xiêm che đậy thân thể của người đời.
Kinh này làm của báu lớn cho người nghèo pháp lành, như Công Đức Thiên lợi ích ban sự lợi ích cho người nghèo.
Kinh này làm nước cam lộ cho chúng sanh khát ngưỡng chánh pháp, như nước bát công đức làm no đủ cho người khát nước.
Kinh này làm giường pháp cho người phiền não, như người đời gặp được giường nằm an ổn.
Kinh này là cỗ xe trân bảo, chuỗi ngọc hoa hương trang nghiêm thanh tịnh của bậc sơ địa Bồ Tát nhẫn đến bậc thập địa Bồ Tát, hơn tất cả chỗ vui vi diệu của sáu môn ba-la-mật, như cây Ba Lợi Chất Đa La trên cung trời Đao Lợi.
Kinh này là cây búa trí huệ cứng bén có thể chặt tất cả cây to phiền não, là dao bén có thể cắt đứt tập khí, là lực sĩ dũng kiện có thể trừ dẹp ma tà oán địch, là ngọn lửa trí huệ đốt củi phiền não là tạng nhân duyên xuất sanh Bích Chi Phật, là tạng Thanh Văn sanh ra bậc Thanh Văn, là con là mắt của tất cả chư thiên, là con đường chánh của mỗi người, là chỗ nương của tất cả loài súc sanh, là chỗ giải thoát của ngạ quỷ, là đấng vô thượng tôn của địa ngục, là chỗ vô thượng của tất cả chúng sanh trong mười phương, là phụ mẫu của chư Phật.
Do đây nên kinh này là nhiếp tất cả pháp.
Này thiện nam tử! Trước kia ta nói kinh này dầu nhiếp tất cả pháp, nhưng ta nói phạm hạnh là ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Nếu rời ba mươi bảy phẩm này thời trọn chẳng được quả Thanh Văn nhẫn đến quả vô thượng Bồ Đề, cũng chẳng thấy Phật tánh cùng quả Phật tánh. Do đây nên phạm hạnh là ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
Vì ba mươi bảy phẩm này tánh của nó chẳng phải điên đảo, nó có thể phá hoại điên đảo; tánh của nó chẳng phải ác kiến; nó có thể phá hoại ác kiến; tánh của nó chẳng phải bố úy, nó có thể phá hoại bố úy; tánh của nó là phạm hạnh, nó có thể làm cho chúng sanh rốt ráo thực hành phạm hạnh thanh tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Pháp hữu lậu cũng có thể làm nhân cho pháp vô lậu, cớ sao đức Như Lai chẳng nói pháp hữu lậu là phạm hạnh thanh tịnh?
- Này thiện nam tử! Tất cả pháp hữu lậu là điên đảo, nên tất cả pháp hữu lậu chẳng được gọi là phạm hạnh thanh tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Pháp thế đệ nhất là hữu lậu hay là vô lậu.
- Này thiện nam tử! Là hữu lậu.
- Bạch Thế Tôn! Pháp thế đệ nhất dầu là hữu lậu nhưng tánh nó chẳng phải điên đảo, cớ sao chẳng gọi nó là phạm hạnh thanh tịnh.
- Này thiện nam tử! Pháp thế đệ nhất là nhân của pháp vô lậu, vì giống với vô lậu và hướng về vô lậu nên chẳng gọi là điên đảo. Phạm hạnh thanh tịnh phát tâm tương tục mãi đến rốt ráo. Còn pháp thế đệ nhất chỉ là một niệm, nên chẳng được gọi là phạm hạnh thanh tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Năm thức của chúng sanh cũng là hữu lậu nhưng chẳng phải là điên đảo, lại chẳng phải là một niệm, cớ sao chẳng gọi là phạm hạnh thanh tịnh?
- Này thiện nam tử! Năm thức của chúng sanh dầu chẳng phải một niệm nhưng là hữu lậu lại là điên đảo. Vì thêm các lậu nên gọi là hữu lậu, thể của nó chẳng phải chân thật vì là tưởng chấp trước nên là điên đảo.
Thế nào gọi là thể của nó chẳng phải chân thật vì tưởng chấp trước nên điên đảo? Vì trong vật chẳng phải nam nữ nó sanh tưởng nam nữ, nhẫn đến nhà cửa xe cộ v.v… cũng như vậy, nên gọi là điên đảo.
Này thiện nam tử! Ba mươi bảy phẩm trợ đạo tánh của nó không điên đảo nên được gọi là phạm hạnh thanh tịnh.
Này thiện nam tử! Nếu có Bồ Tát đối với ba mươi bảy phẩm này mà biết căn, biết nhân, biết nhiếp, biết tăng, biết chủ, biết đạo, biết thắng, biết thật và biết rốt ráo, Bồ Tát này được gọi là phạm hạnh thanh tịnh.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là biết căn, nhẫn đến biết rốt ráo?
- Này thiện nam tử! Bồ Tát thưa hỏi thường vì hai điều: một là vì mình, hai là vì người. Nay ông đã biết mà vì vô lượng chúng sanh nên thưa hỏi những việc như vậy. Lành thay! Lành thay!
Này thiện nam tử! Căn bổn của ba mươi bảy phẩm trợ đạo là dục, nhân là minh xúc, nhiếp thủ là thọ, tăng trường là thiện tư duy, chủ là niệm, đạo dẫn là định, thắng là trí huệ, thật là giải thoát, rốt ráo là đại bát Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Thiện dục là căn bổn của sơ phát tâm nhẫn đến vô thượng Bồ Đề, do đây nên ta nói dục là căn bổn.
Như người đời nói tất cả khổ não do ái làm căn bổn. Tất cả bệnh tật do ăn cách đêm làm căn bổn. Tất cả sự phán đoán do đấu tranh làm căn bổn. Tất cả việc ác do hư vọng làm căn bổn.
- Bạch Thế Tôn! Trong kinh này trước kia đức Như Lai nói rằng tất cả pháp lành do bất phóng dật làm căn bổn. Sao nay đức Phật lại nói rằng dục là căn bổn?
- Này thiện nam tử! Nếu luận về sanh nhân thời là thiện dục, còn liễu nhân thời là bất phóng dật. Như người đời nói rằng tất cả trái cây do hột làm nhân, hoặc có người nói hột là sanh nhân, đất là liễu nhân.
- Bạch Thế Tôn! Trong những kinh khác đức Phật từng nói rằng Phật là cội gốc của ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Nghĩa này như thế nào?
- Này thiện nam tử! Đức Như Lai ngày trước nói rằng chúng sanh mới biết ba mươi bảy phẩm trợ đạo thời Phật là căn bổn. Nếu tự chứng đặng thời dục là căn bổn.
- Bạch Thế Tôn! Sao minh xúc gọi là nhân?
- Này thiện nam tử! Có lúc đức Như Lai nói minh là huệ, hoặc nói minh là tín. Do tín tâm mà gần gũi bạn lành đây gọi là xúc. Do gần gũi bạn lành được nghe chánh pháp, đây gọi là xúc. Do nghe chánh pháp mà thân, khẩu, ý thanh tịnh, đây gọi là xúc. Do ba nghiệp thánh tịnh mà được chánh mạng, đây gọi là xúc. Do chánh mạng được giới căn thanh tịnh, do giới căn thanh tịnh mà thích nơi tịch tịnh, do thích tịch tịnh mà có thể tư duy hiểu biết, do thiện tư duy mà được an trụ đúng pháp, do an trụ đúng pháp mà được ba mươi bảy phẩm trợ đạo, do đây có thể phá hoại vô lượng phiền não ác, đây gọi là xúc.
Này thiện nam tử! Thọ gọi là nhiếp thủ, vì lúc chúng sanh cảm thọ có thể làm việc lành việc ác. Do nơi thọ mà sanh các phiền não. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo có thể phá hoại những phiền não này, nên dùng thọ làm nhiếp thủ.
Do thiện tư duy có thể phá phiền não, nên gọi là tăng trưởng. Vì siêng năng tu tập nên được ba mươi bảy phẩm trợ đạo như vậy.
Nếu quán lực có thể phá những phiền não ác cần phải nhờ chuyên niệm, do đây nên dùng niệm làm chủ. Như trong đời tất cả binh chủng đều theo ý của chủ tướng. Ba mươi bày phẩm trợ đạo cũng đều theo nơi niệm chủ.
Này thiện nam tử! Đã nhập chánh định rồi thời ba mươi bảy phẩm trợ đạo có thể khéo phân biệt tất cả pháp tướng, nên dùng làm dẫn đạo.
Phân biệt pháp tướng này do trí huệ là tối thắng, nên dùng huệ làm thắng.
Trí huệ này rõ biết phiền não, vì năng lực của trí huệ và phiền não tiêu diệt. Như trong đời bốn binh chủng phá hoại oán định, hoặc một hoặc hai người dũng kiện có công năng phá địch. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo cũng như vậy, do năng lực của trí huệ có thể phá hoại phiền não, nên lấy trí huệ làm thắng.
Này thiện nam tử! Dầu do tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo mà chứng được tứ thiền thần thông an lạc nhưng cũng chẳng gọi là thật. Nếu phá hoại phiền não lúc chứng được giải thoát mới gọi là thật.
Ba mươi bảy phẩm trợ đạo này từ khi phát tâm tu hành, dầu được thế lạc và xuất thế lạc, chứng bốn quả Sa Môn được giải thoát, cũng chẳng gọi là rốt ráo. Nếu có thể dứt trừ được những công hạnh do ba mươi bảy phẩm trợ đạo này thực hành, đây gọi là Niết Bàn, nên ta nói rốt ráo là đại Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Lại tâm thiện ái niệm chính là dục. Do thiện ái niệm mà gần gũi bạn lành nên gọi là xúc, đây là nhân. Do gần gũi bạn lành nên gọi là thọ, đây là nhiếp thủ. Do gần bạn lành mà có thể thiện tư duy nên gọi là tăng trưởng. Do bốn pháp này có thể sanh trưởng chánh đạo: Dục, niệm, định và trí, đây gọi là chủ, là dẫn đạo, là tối thắng vậy.
Do ba pháp này mà được hai thứ giải thoát, do dứt trừ ái nên tâm được giải thoát, do dứt trừ vô minh nên huệ được giải thoát, đây gọi là thật.
Tám pháp như vậy rốt ráo được quả gọi là Niết Bàn, nên Đại Niết Bàn gọi là rốt ráo.
Này thiện nam tử! Lại dục chính là phát tâm xuất gia, xúc là bạch tứ yết ma, đây gọi là nhân. Nhiếp thủ chính là thọ hai thứ giới: Một là Ba La Đề Mộc Xoa giới, hai là tịnh căn giới, đây gọi là thọ, đây gọi là nhiếp thủ.
Tăng trưởng là tu tập tứ thiền. Chủ là quả Tu Đà Hoàn và quả Tư Đà Hàm. Dẫn đạo là quả A Na Hàm. Tối thắng là quả A La Hán, thật là quả Bích Chi Phật. Rốt ráo là quả vô thượng Bồ Đề.
Này thiện nam tử! Lại dục gọi là thức, xúc gọi là lục nhập, nhiếp gọi là thọ, tăng trưởng gọi là vô minh, chủ gọi là sanh sắc, dẫn đạo gọi là ái, thắng gọi là thủ, thật gọi là hữu, rốt ráo gọi là sanh, lão, bệnh, tử.
(Hán bộ quyển thứ 38)
- Bạch Thế Tôn! Căn bổn cùng nhân với tăng, ba pháp này khác nhau thế nào?
Này thiện nam tử! Căn bổn tức là sơ phát tâm. Nhân là tương tự chẳng dứt. Tăng trưởng là tương tự dứt rồi có thể sanh tương tự.
Lại căn là tạo tác. Nhân chính là quả. Tăng trưởng là có thể dùng.
Này thiện nam tử! Đời vị lai dầu có quả báo, nhưng vì chưa thọ nên gọi là nhân. Đến khi thọ thời gọi là tăng trưởng.
Lại căn là mong cầu. Được tức là nhân. Dùng được tức là tăng trưởng.
Này thiện nam tử! Trong kinh này, căn là kiến đạo, nhân là tu đạo, tăng là vô học đạo. Lại căn là chánh nhân, phương tiện gọi là nhân, từ chánh nhân này chứng được quả báo gọi là tăng trưởng.
- Bạch Thế Tôn! Như đức Phật nói rốt ráo là đại Niết Bàn, đại Niết Bàn này làm thế nào chứng được?
- Này thiện nam tử! Hoặc Bồ Tát hoặc Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, hoặc Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di có thể tu tập mười quán tưởng, thời người này có thể được Niết Bàn: một là vô thường tưởng, hai là khổ tưởng, ba là vô ngã tưởng, bốn là yểm ly thực tưởng, năm là nhất thiết thế gian bất khả lạc tưởng, sáu là tử tưởng, bảy là đa tội quá tưởng, tám là ly tưởng, chín là diệt tưởng, mười là vô ái tưởng. Người nào tu tập mười thứ quán tưởng như vậy thời rốt ráo quyết định được Niết Bàn. Chẳng do nơi người, tự mình có thể phân biệt thiện bất-thiện v.v…, đây gọi là thật xứng nghĩa Tỳ Kheo, nhẫn đến xứng nghĩa Ưu Bà Di.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Bồ Tát nhẫn đến Ưu Bà Di tu tập vô thường tưởng?
- Này thiện nam tử! Có hai hạng Bồ Tát: một là sơ phát tâm, hai là đã thành đạo.
Vô thường tưởng cũng có hai thứ: thô và tế. Bồ Tát sơ phát tâm lúc quán vô thường tưởng, suy nghĩ rằng: vạn vật trong đời phàm có hai loại: nội và ngoại. Những loại thuộc về nội vật đều vô thường biến đổi. Tôi thấy lúc sanh, lúc nhỏ, lúc lớn, lúc mạnh, lúc già, lúc chết đều khác nhau, do đây nên biết những loại thuốc về nội vật đều vô thường. Lại suy nghĩ rằng tôi thấy chúng sanh hoặc có kẻ mập mạnh tươi tốt, hoặc có kẻ bệnh hoạn héo gầy, hoặc có người giàu có dư giả, hoặc thấy người nghèo cùng thiếu thốn, hoặc thấy người có vô lượng công đức, hoặc thấy người tạo vô lượng tội lỗi, do đây nên quyết định biết rằng những loại thuộc về nội vật là vô thường.
Lại suy nghĩ rằng những vật ngoài thời kỳ hột, thời kỳ mọc mộng, lên cây, ra lá, trổ bông, kết trái đều chẳng đồng, lại có thứ đầy đủ, có thứ chẳng đầy đủ, do đây nên biết rằng tất cả vật ngoài quyết định là vô thường.
Đã quán sát những vật bị thấy là vô thường, kế lại là quán sát những pháp bị nghe: tôi từng nghe chư thiên có thần thông tự tại hưởng sự vui rất vui diệu nhưng cũng có năm tướng suy, do đây nên biết rằng là vô thường. Tôi lại từng nghe thuở kiếp sơ có các chúng sanh đầy đủ công đức, thân thể sáng chói chẳng cầu mặt trời mặt trăng, vì vô thường biến đổi mà công đức hao tổn, ánh sáng tắt mất. Tôi lại nghe thuở xưa có Chuyển Luân Thánh Vương thống lãnh bốn châu thiên hạ, có đủ thất bảo thế lực tự tại, dầu vậy nhưng cũng không thể tránh khỏi vô thường. Lại quán địa cầu, ngày xưa người ở đông đảo, có đủ cây thuốc hay, rừng cây bông trái sum xuê. Ngày nay vì chúng sanh phước bạc, nên những sanh vật trên mặt đất thành hư hao. Do đây nên biết rằng tất cả vật trong thân ngoài cảnh đều vô thường. Đây gọi là tướng vô thường thô.
Đã quán tưởng tướng thô rồi, kế lại quán sát tướng vô thường tế.
Bồ Tát quán sát tất cả vật trong và ngoài, nhẫn đến vi trần, tại thời kỳ vị lai đã là vô thường, vì tất cả đều có đủ tướng phá hoại vậy. Nếu sắc uẩn vị lai chẳng phải là vô hường, thời chẳng nên nói sắc uẩn có mười thời kỳ sai biệt: Thời kỳ đông lại, thời kỳ nổi bóng thời kỳ ung nhọt, thời kỳ khối thịt, thời kỳ mọc đầu và tứ chi, thời kỳ bé thơ, thời kỳ trẻ, thời kỳ thiếu niên, thời kỳ tráng niên, thời kỳ già suy. Nếu không phải là vô thường thời đông váng không thành bóng, nhọt nhẫn đến không có già suy. Nếu những thời kỳ chẳng phải niệm niệm hoại điệt, thời trọn chẳng có lần lần lớn lên, đáng lẽ phải đồng thời trưởng thành tất cả. Do đây biết rằng quyết định có niệm niệm vi tế vô thường.
Lại thấy có người thân thể toàn vẹn, nhan sắc tươi đẹp, lúc sau lại thấy người ấy gầy gò tiều tụy. Do đây nên biết rằng người này quyết định có niệm niệm vô thường.
Lại quán sát tứ đại và bốn oai nghi, trong ngoài đều có hai khổ nhân: đói khát và lạnh nóng. Nếu không có niệm niệm vi tế vô thường, thời cũng lẽ ra không có bốn điều khổ ấy.
Suy xét như trên đây gọi là quán tưởng vô thường tế.
Như trong thân và ngoại cảnh, tâm pháp cũng như vậy, vì tâm duyên theo sáu trần hoặc sanh lòng mừng, lòng giận, lòng yêu, v.v… lần lượt thay đổi khác, không trụ một niệm. Do đây nên biết rằng tất cả sắc pháp và tam pháp đều vô thường cả.
Nếu Bồ Tát có thể trong một niệm thấy rõ tất cả pháp đều sanh diệt vô thường, đây gọi là Bồ Tát có đủ vô thường tưởng.
Này thiện nam tử! Người trí tu tập vô thường tưởng rồi thời xa lìa quan niệm điên đảo chấp thường.
Kế lại tu tập khổ tưởng. Duyên cớ gì có sự khổ như vậy? Biết rõ rằng sự khổ này do nơi vô thường. Do vô thường mà có sanh, già, bệnh, chết. Vì có sanh già bệnh chết nên gọi là vô thường. Vì vô thường mà chịu lấy những sự khổ: đói, khát, lạnh, nóng v.v…
Lại quán sát thân thể này chính là khí cụ vô thường, là khổ. Vì là khí cụ khổ nên bao nhiêu sự nhận lấy của thân đều là khổ cả.
Lại quán sát sanh là khổ, diệt là khổ. Sanh diệt chính là vô thường, chẳng phải ngã, chẳng phải ngã sở, nên tu vô ngã tưởng.
Lại quán sát khổ là vô thường, vô thường tức là khổ. Nếu đã là khổ vô thường, người trí đâu nên cho rằng có ngã! Khổ không phải phải là ngã, vô thường cũng vậy. Cả năm ấm đều là khổ là  vô thường, sao chúng sanh lại cho là có ngã!
Lại quán sát tất cả pháp có nhiều thứ hòa hiệp sai khác. Chẳng phải từ một hòa hiệp sanh tất cả pháp. Lại một pháp chẳng phải là quả của tất cả hòa hiệp. Tất cả hòa hiệp đều không tự tánh, cũng không một tánh, cũng không tánh sai khác, không vật tánh, cũng không tự tại. Các pháp đã có những tướng như vậy, người trí đâu nên nói là có ngã.
Lại suy nghĩ rằng: Trong tất cả pháp không có một pháp nào là tác giả. Một pháp đã không phải tác giả, thời nhiều pháp hòa hiệp cũng không thể là tác giả. Tánh của các pháp không thể tự sanh tự diệt, do hòa hiệp mà diệt, do hòa hiệp mà sanh. Khi pháp đã sanh, chúng sanh điên đảo tưởng rằng là hoà hiệp, từ hòa hiệp sanh. Chúng sanh điên đảo tưởng niệm không có chân thật. Như thế thời đâu có thật ngã! Do đây nên người trí quán sát vô ngã.
Lại quán sát duyên cớ gì mà chúng sanh nói là ngã! Ngã này nếu là có, thời là một hay nhiều. Nếu ngã chỉ có một, thời sao lại có Sát Đế Lợi, Bà La Môn v.v… nhẫn đến nhân, thiên, quỷ, súc? Nếu ngã là nhiều, sao lại nói rằng ngã của chúng sanh là duy nhất, là khắp, là không biên tế. Cho là một hay là nhiều, cả hai đều không có ngã cả.
Người trí đã quán vô ngã rồi, kế lại quán tưởng yểm ly thực.
Nên suy nghĩ rằng: Nếu tất cả pháp là vô thường, khổ, vô ngã, sao lại vì sự ăn mà thân, khẩu, ý gây tạo ác nghiệp! Nếu có chúng sanh nào vì tham ăn mà thân, khẩu, ý gây tạo nghiệp ác, bao nhiêu của cải có ra, mọi người đều cùng hưởng dụng, về sau lúc mắc quả khổ, không một ai cùng chia.
Lại quán sát tất cả chúng sanh vì ăn uống mà thân tâm chịu khổ. Nếu từ các sự khổ mà được ăn uống, sao ta lại đối với sự ăn uống mà sanh lòng tham đắm.
Kế lại nên quán sát thân nhân. Do nơi uống ăn mà thân thể tăng trưởng. Nay ta  xuất gia vì muốn xả thân nên thọ giới tu hành, nếu tham đắm ăn uống thời sao gọi là xả thân! Quán sát như vậy rồi, dần có ăn uống, nhưng coi như quỷ Khoáng Dã ăn thịt con của nó, trong lòng nhàm ghét không biết ngon ngọt.
Quán sát rõ món ăn uống có lỗi như vậy rồi, kế lại quán xúc thực: Như con bò bị lột da, có vô số kiến ruồi bu cắn. Kế quán tư thực như đống lửa lớn. Quán thức thực như ba trăm mâu nhọn.
Người trí quán sát bốn thứ thực này rồi thời không còn có quan niệm tham ưa. Nếu còn tham ưa thời nên quán bất tịnh để lìa hẳn sự ái nhiễm đối với tứ thực. Phải khéo phân biệt sự bất tịnh của tất cả thứ uống ăn. Lúc thọ ăn món ngon món dở, xem như thuốc thoa ghẻ, trọn không sanh lòng tham ái. Nếu có thể quán sát như trên đây thời gọi là người trí trọn nên quán tưởng yểm ly thực.
- Bạch Thế Tôn! Người trí quán sát món ăn là bất tịnh, đó là thật quán hay hư quán? Nếu là thật quán thời thức ăn đương quán thật chẳng phải bất tịnh. Nếu là hư quán thời sao lại gọi là thiện tưởng?
- Này thiện nam tử! Quán tưởng như vậy, cũng là thật cũng là hư: Vì có thể trừ quan niệm tham ăn nên gọi là thật; Vì không phải trùng dòi mà thấy là trùng dòi nên gọi là hư.
Này thiện nam tử! Tất cả pháp hữu lậu đều gọi là hư, mà cũng có thể được thật.
Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ Kheo lúc muốn đi khất thực, dự ghĩ rằng: Tôi sẽ đi khất thực, mong được món ăn ngon, nhiều và mau được, đừng được món ăn dở, ít và chậm lâu. Tỳ Kheo này chẳng được gọi là có yểm ly tưởng đối với sự ăn uống, pháp lành sẽ suy hao lần, pháp chẳng lành sẽ càng ngày càng tăng trưởng.
Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ Kheo lúc muốn đi khất thực, phải nguyện trước rằng: Cầu mong cho những người khất thực đều được no đủ, người bố thí vô lượng phước. Nếu tôi được món ăn, cũng chỉ là dùng để chữa bệnh cho thân thể ác độc này, để tu tập pháp lành, cho thí chủ được lợi ích. Tỳ Kheo lúc phát nguyện trên đây thời pháp lành lần tăng trưởng, pháp chẳng lành tiêu diệt lần. Tỳ Kheo này chẳng luống ăn của tín thí.
Này thiện nam tử! Người trí có đủ bốn pháp quán tưởng như vậy thời có thể tu pháp quán tưởng "Thế gian không đáng ưa thích". Suy nghĩ rằng: Tất cả thế gian không chỗ nào chẳng có sự sanh, già, bệnh, chết, mà thân của tôi không chỗ nào chẳng sanh. Thế gian đã không có một chỗ nào lìa được sự sanh, già, bệnh, chết như vậy tại sao tôi lại ưa thích thế gian! Tất cả thế gian không có gì tiến đắc mà chẳng phải thối thất, nên thế gian quyết định là vô thường. Đã là vô thường, người trí đâu nên ưa thích thế gian.
Mỗi chúng sanh trải qua khắp tất cả thế gian, hưởng thọ đủ cả sự khổ vui, đều được thân Phạm Thiên cho đến trời Phi Phi Tưởng, lúc mạng chung cũng lại phải sa vào ba ác đạo. Dầu được thân trời Tứ Thiên Vương cho đến trời Tha Hóa Tự Tại, lúc mạng chung hoặc phải sanh trong loài súc sanh làm thân sư tử, cọp, sói, voi, ngựa, bò, lừa v.v…
Kế lại suy nghĩ: Chuyển Luân Thánh Vương thống lãnh bốn châu thiên hạ, sang giàu tự tại, lúc hết phước phải nghèo khốn ăn mặc không đủ.
Người trí quán tưởng như trên đây rồi, thời có quan niệm thế gian không đáng ưa thích.
Người trí lại quán sát tất cả tài vật châu báu, nhà cửa, hương, hoa v.v… ở thế gian dầu dùng đề đỡ khổ, nhưng những vật ấy chính nó là khổ, sao lại dùng khổ để lìa khổ.
Này thiện nam tử! Người trí quan sát như vậy rồi thời chẳng còn ưa thích tài vật ở thế gian. Như có người thân mang bệnh nặng, dầu có những thứ âm nhạc ca hát hoa hương chuỗi ngọc, nhưng trọn chẳng sanh lòng ưa thích. Người trí quán sát những điều trên đây không tham ưa tài vật châu báu ở thế gian cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Người trí quán sát tất cả thế gian đều chẳng phải chỗ quy y, chẳng phải chỗ giải thoát, chẳng phải chỗ tịch tịnh, chẳng phải chỗ đáng ưa, chẳng phải bờ kia, chẳng phải thường lạc ngã tịnh. Nếu tôi tham ưa nơi thế gian thời tôi làm thế nào lìa  được thế gian, như người chẳng thích ở trong tối muốn tìm ánh sáng mà lại trở về trong tối. Trong tối là thế gian, ánh sáng là xuất thế. Nếu tôi ưa thích thế gian thời là thêm lớn sự đen tối mà muốn xa lìa đen tối.
Đen tối là vô minh, ánh sáng là trí minh. Chính quan niệm chẳng ưa thích thế gian là nhân của trí minh. Tất cả kiết sử tham ưa dầu hay trói buộc, nhưng nay tôi tham ưa trí minh mà chẳng tham ưa thế gian.
Người trí quan sát rõ những sự trên đây rồi thời có đủ quan niệm rằng thế gian là chẳng đáng ưa thích.
Này thiện nam tử! Người trí kế lại tu tập tư tưởng: Quán sát thọ mạng này thường bị  vô lượng oán thù vây quanh, niệm niệm tổn diệt không có tăng trưởng, như nước dốc trên núi không thể đứng dừng, cũng như sương móc ban mai thế chẳng còn lâu, như người tù bị mắt ra chợ mỗi bước gần đến chỗ chết, như dắt bò dê đến chỗ hàng thịt.
- Bạch Thế Tôn! Người trí quan sát niệm niệm diệt như thế nào?
- Này thiện nam tử! Như bốn người đều có tài bắn giỏi họp nhau ở một chỗ, mỗi người riêng bắn qua một hướng đồng nghĩ rằng bốn mũi tên của chúng tôi đồng thời bắn ra đồng thời rơi xuống. Lại có một người nghĩ rằng lúc bốn mũi tên này chưa rơi xuống, trong một lúc tôi có thể dùng tay bắt lấy.
Này thiện nam tử! Đáng gọi người này là mau lẹ chăng?
- Bạch Thế Tôn! Người này thật mau lẹ.
- Này thiện nam tử! Địa hành quỷ còn lẹ hơn người này. Phi Hành quỷ lại mau hơn Địa Hành quỷ. Tứ Thiên Vương mau hơn Phi Hành quỷ. Nhật Nguyệt Thần Tiên mau hơn Tứ Thiên Vương. Hành Kiên Tật Thiên mau hơn Nhật Nguyệt Thiên. Thọ mạng của chúng sanh lại mau hơn Kiên Tật Thiên.
Này thiện nam tử! Một hơi thở một nháy mắt, thọ mạng của chúng sanh có bốn trăm lần sanh diệt. Nếu có thể quán sát thọ mạng như vậy thời gọi là có thể quán niệm niệm diệt.
Này thiện nam tử! Người trí quán sát thọ mạng thuộc nơi vua chết, nếu tôi lìa được vua chết này thời dứt hẳn được thọ mạng vô thường. Lại nên quán sát thọ mạng này như cây to bên bờ sông lở, như người phạm tội lúc bị xử tử không ai xót thương, như lúc sư tử vương quá đói, như lúc rắn độc hớp gió to, như lúc ngựa khát nước nó giữ gìn nước, như lúc đại ác quỷ phát sân, vua chết của chúng sanh cũng dữ độc như vậy.
Người trí nếu có thể quán sát như vậy thời gọi là tu tập tử tưởng.
Này thiện nam tử! Người trí lại nên quán sát rằng nay tôi xuất gia dầu thọ mạng chỉ có bảy ngày bảy đêm, trong thời gian ấy tôi sẽ tinh tấn tu hành giữ gìn cấm giới, thuyết pháp giáo hóa lợi ích chúng sanh, đây là người trí tu tập tư tưởng.
Lại vì bảy ngày bảy đêm còn là nhiều, nếu được sáu ngày, hoặc năm ngày, bốn ngày, ba ngày, hai ngày, một ngày, một giờ, nhẫn đến trong khoảng một hơi thở ra vào, trong thời gian này tôi sẽ tinh tấn tu hành, giữ gìn cấm giới, thuyết pháp giáo hóa lợi ích chúng sanh. Đây gọi là người trí khéo tu tập tử tưởng.
Người trí có đủ sáu pháp quán tưởng trên đây có thể làm nhân cho bảy pháp quán tưởng. Đây là bảy pháp quán tưởng: một là quán tưởng thường tu tập, hai là quán tưởng thích tu tập, ba là quán tưởng không sân hận, bốn là quán tưởng không tật đố, năm là quán tưởng phát nguyện lành, sáu là quán tưởng không kiêu mạn, bảy là quán tưởng tam muội tự tại.
Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ Kheo nào có đủ bảy pháp quán tưởng này, thời gọi là Sa Môn, là Bà La Môn, là tịch tịnh, là tịnh khiết, là giải thoát, là người trí, là chánh kiến, là đáo bỉ ngạn, là đại y vương, là đại thương chủ, là hiểu rõ pháp bí mật của Như Lai, là biết bảy thứ lời nói của chư Phật, là tri kiến chân chánh, dứt được những lưới nghi trong bảy thứ lời nói của chư Phật.
Này thiện nam tử! Nếu người nào có đủ sáu pháp quán tưởng như trên, nên biết rằng người đó có thể quở trách ba cõi, xa lìa ba cõi, dứt trừ ba cõi, chẳng ưa đắm ba cõi. Đây gọi là người trí có đủ mười pháp quán tưởng.
Nếu Tỳ Kheo nào có đủ mười pháp quán tưởng này thời đáng được gọi là tướng Sa Môn.
Lúc đó Ca Diếp Bồ Tát liền ở trước Phật nói kệ tán thán:
Đấng Đại Y Vương thương thế gian
Thân và trí huệ đều tịch tịnh
Trong pháp vô ngã có chân ngã
Nên tôi kỉnh lễ Vô Thượng Tôn.
Phát tâm và rốt ráo không sai khác
Hai tâm này tâm trước khó hơn
Mình chưa được độ, độ người trước
Nên tôi kỉnh lễ sơ phát tâm.
Sơ tâm đã là Thầy trời, người
Hơn bậc Thanh Văn và Duyên Giác
Phát tâm như vậy hơn ba cõi
Nên được gọi là Tối Vô Thượng.
Trong đời phải cầu rồi mới được
Phật không chờ thỉnh mà làm Thầy
Phật theo thế gian như nghé con
Nên được gọi là đấng đại bi.
Công đức của Phật khắp mười phương
Phàm phu vô trí chẳng thể khen
Nay tôi tán thán tâm từ bi
Để báo đáp hai nghiệp thân khẩu.
Thế gian thường ưa tự lợi ích
Đức Phật trọn chẳng có như vậy
Dứt báo thế gian chó chúng sanh
Nên tôi kỉnh lễ Tự Tha Lợi.
Người đời làm lợi cho thân nhân
Đức Phật lợi ích không thân thù
Phật không riêng biệt như người đời
Do đây tâm Phật thường bình đẳng.
Người đời nói khác việc làm khác
Nói làm của Phật đều không sai
Phàm chỗ tu hành xả của hạnh
Do đây được gọi là Như Lai.
Trước đã rõ biết lỗi phiền não
Thị hiện ở đó vì chúng sanh
Từ lâu đã giải thoát thế gian
Vì từ bi mà ở sanh tử.
Dầu hiện thân trời cùng thân người
Từ bi theo dõi như nghé con
Đức Phật là mẹ của chúng sanh
Từ tâm chính là nghé con nhỏ.
Tự chịu khổ não vì chúng sanh
Do xót thương nên lòng chẳng hối
Quá xót thương mà chẳng biết khổ
Nên tôi cúi lạy đấng cứu khổ.
Đức Phật dầu làm vô lượng phước
Nhưng thân khẩu ý thường thanh tịnh
Thường vì chúng sanh chẳng vì mình
Nên tôi kỉnh lễ nghiệp thanh tịnh
Đức Phật chịu khổ chẳng biết khổ
Thấy người chịu khổ như mình khổ
Dầu vì chúng sanh ở địa ngục
Chẳng có niệm khổ và ăn năn.
Chúng sanh chịu khổ đều khác nhau
Mà Như Lai một mình chịu khổ
Biết rồi tâm Phật càng kiên cố
Do đây siêng tu đạo vô thượng.
Phật đủ tâm đại từ duy nhất
Thương xót chúng sanh xem như con
Chúng sanh chẳng biết Phật cứu mình
Nên hủy báng Phật cùng Pháp, Tăng.
Thế gian có đủ những phiền não
Cũng có vô lượng những lỗi ác
Phiền não và tội lỗi như vậy
Lúc sơ phát tâm đã dứt trừ.
Chư Phật mới tán thán được Phật
Ngoài Phật không ai tán thán được
Nay tôi chỉ tán thán một điều
Là tâm đại từ thương thế gian.
Từ tâm của Phật là Pháp lớn
Từ tâm này độ được chúng sanh
Chính đây là vô thượng giải thoát

Giải thoát này là Đại Niết Bàn.

No comments:

Post a Comment