Wednesday, July 8, 2015

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q3) - Phẩm CA DIẾP BỒ TÁT (phần 2)

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật rằng: "Thế nào là chấp trước."
- Này thiện nam tử! Những người như vậy hoặc do người khác dạy bảo, hoặc nghe người khác nói, hoặc tự tìm kinh điển, với những điều ham thích chẳng thể buông bỏ đây gọi là chấp trước.
- Bạch Thế Tôn! Sự chấo trước này là thiện hay là bất thiện?
- Này thiện nam tử! Sự chấp trước như vậy chẳng gọi là thiện, vì không thể phá hoại những lưới nghi.
- Bạch Thế Tôn! Những người này vốn tự chẳng nghi, sao lại nói rằng chẳng phá hoại lưới nghi?
- Này thiện nam tử! Luận về người chẳng nghi chính là nghi.
- Bạch Thế Tôn! Nếu có người nói rằng bậc Tu Đà Hoàn chẳng đọa ba ác đạo. Người này cũng nên gọi là chấp trước, là nghi?
- Này thiện nam tử! Nên gọi là quyết định, mà chẳng được gọi là nghi. Tại sao vậy? Này thiện nam tử! Như có người trước kia thấy cây thấy người, về sau đi ban đêm từ xa thấy gốc cây trụi, bèn nghi rằng đó là người hay là cây? Như người trước thấy Tỳ Kheo và Phạm Chí, lúc sau đi đường từ xa thấy Tỳ Kheo bèn nghi rằng đó là Sa Môn hay là Phạm Chí? Như người trước thấy bò và trâu, lúc sau từ xa thấy bò, bèn nghi rằng đó là bò hay trâu?
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh trước thấy hai vật về sau bèn sanh nghi, vì trong tâm họ chẳng nhận được rõ ràng.
Ta cũng chẳng nói rằng bậc Tu Đà Hoàn có đọa ba đường ác hai chẳng đọa ba đường ác, cớ gì người này lại sanh lòng nghi!
Bạch Thế Tôn! Như Phật nói phải trước có thấy rồi sau mới nghi. Nhưng có người lúc chưa thấy hai vật cũng lại sanh nghi. Như đối với Niết Bàn. Như có người đi đường gặp dòng nước đục, trước kia chưa từng thấy mà cũng sanh nghi rằng dòng nước này sâu hay cạn.
- Này thiện nam tử! Luận về Niết Bàn chính là dứt khồ, chẳng phải là Niết Bàn thời chính là khổ. Tất cả chúng sanh thấy có khổ cùng chẳng phải khổ. Như thấy đói khát, lạnh nóng giận mừng, bệnh gầy, an ổn, trẻ, già, sống chết, trói buộc, cởi mở, ân ái biệt ly, oán thù gặp gỡ, sau khi thấy những việc này, chúng sanh bèn nghi rằng sẽ có những gì xa lìa vĩnh viễn nhưng sự khổ não này chăng? Do đây nên chúng sanh đối với Niết Bàn mà sanh nghi.
Nếu ông cho rằng người đó tứ trước đến nay chưa từng thấy dòng nước đục này sao lại sanh nghi. Lời nói này không đúng nghĩa, vì người đó ở chỗ khác đã từng thấy rồi, nên ở nơi chỗ mới đến này mà sanh nghi.
- Bạch Thế Tôn! Người đó lúc trước thấy nước sâu cạn đã chẳng sanh nghi, nay cớ gì mà sanh nghi?
- Này thiện nam tử! Vì trước kia chưa đi nên sanh nghi. Do đây nên ta nói rằng vì trong tâm họ chẳng nhận được rõ ràng nên sanh nghi.
- Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói nghi chính là chấp trước, chấp trước chính là nghi, đây là người nào?
- Này thiện nam tử! Là người dứt căn lành.
- Bạch Thế Tôn! Những hạng người nào có thể dứt căn lành.
- Này thiện nam tử! Người thông minh lanh lợi có thể khéo phân biệt, nếu xa lìa bạn lành, chẳng nghe chánh pháp, khéo tư duy, chẳng thực hành đúng pháp, người này có thể dứt căn lành.
Người thông minh này vì thiếu bốn điều trên mà tự suy nghĩ rằng: Không có vật bố thí, vì người thí là rời bỏ của cải, nếu bố thí mà có quả báo, thời thí chủ phải thường nghèo cùng, vì nhân cùng quả giống nhau. Do suy nghĩ những việc như vậy nên người này nói rằng không nhân không quả. Nếu nói không nhân không quả như vậy thời gọi là dứt căn lành.
Người thông minh này lại suy nghĩ rằng: Thí chủ, người thọ và tài vật đều là vô thường biến đổi, nếu không biến đổi sao lại nói rằng đây là thí chủ, đây là người thọ, đây là của cải, nếu không người thọ sai lại được quả báo, do nghĩa này này nên biết rằng không nhân không quả. Nếu nói không nhân không quả như vậy thời gọi là dứt căn lành.
Người thông minh này lại suy nghĩ rằng lúc thí chủ bố thí có năm sự bố thí: Người thọ thí khi lãnh được của cải rồi hoặc làm lành, hoặc làm điều chẳng lành, mà thí chủ này cũng chẳng mắc phải quả báo lành hay chẳng lành, như trong đời từ hột sanh ra trái, rồi từ trái trở lại có hột. Nhân chính là thí chủ, quả chính là người thọ, mà người thọ này không thể đem điều thiện, điều bất thiện của mình đã làm khiến cho thí chủ được quả báo thiện cùng bất thiện, do nghĩa này nên không nhân không quả. Nếu nói không nhân không quả như vậy, nên biết người này có thể dứt căn lành.
Người thông minh này lại suy nghĩ rằng: Không có vật bố thí, vì vật bố thí là vô ký, đã là vô ký thời đâu có quả báo lành, không quả báo lành tức là vô ký, của vật nếu là vô ký nên biết rằng không có quả báo thiện ác, nên không có sự bố thí không nhân không quả. Nếu nói rằng không nhân không quả như vậy phải biết người này có thể dứt căn lành.
Người thông minh này lại suy nghĩ rằng: Người bố thí do nơi ý, ý này chẳng phải là sắc pháp, không thể thấy không đối tượng, đã chẳng phải là sắc pháp thời đâu có thể bố thí do đây nên không có sự bố thí không nhân, không quả. Nếu nói không nhân, không quả như vậy, phải biết rằng người này có thể dứt căn lành.
Người thông minh lại suy nghĩ rằng: Nếu thí chủ cúng thí cho tượng Phật, tượng chư thiên, cho cha mẹ đã qua đời, như vậy là có người thí mà không thọ, nếu không người thọ thời lẽ ra không quả báo, nếu không quả báo thời là không nhân, nếu đã không nhân thời là không quả. Nếu nói không nhân quả như vậy, phải biết rằng người này có thể dứt căn lành.
Người thông minh này lại suy nghĩ rằng: không cha không mẹ. Nếu nói cha mẹ là nhân sanh ra chúng sanh, đúng lý phải thường sanh không có đoạn tuyệt, vì nhân là thường có, nhưng chẳng thường sanh, do đây nên biết  rằng không có cha mẹ. Người này lại nghĩ rằng không cha không mẹ. Vì nếu thân chúng sanh do cha mẹ mà có, lẽ ra một người phải đủ cả hai căn nam nữ, nhưng sự thật không có đủ, do đây biết rằng chúng sanh chẳng phải do cha mẹ mà có. Người này lại nghĩ rằng chẳng phải do cha mẹ mà có ra chúng sanh, vì chính mắt họ thấy chúng sanh chẳng giống với cha mẹ, nghĩa là thân hình diện mạo tâm tánh đi đứng cử động chẳng giống với cha mẹ, nên cha mẹ chẳng phải là nhân sanh ra chúng sanh. Người này lại nghĩ rằng trong đời có bốn thứ không có: một là chưa sanh gọi là không có, như lúc còn là viên đất sét thời chưa có công dụng của cái bình; hai là đã diệt mất gọi là không có, như cái bình đã bể hư thời gọi là không có; ba là riêng khác nhau nên lẫn không có, như trong bò không có ngựa, trong ngựa không có bò; bốn là rốt ráo gọi là không có, như sừng thỏ lông rùa. Cha mẹ cũng đồng như bốn thứ không có này. Nếu nói cha mẹ là nhân có ra chúng sanh, lúc cha mẹ chết đứa con bất tất cũng chết, do đây nên cha mẹ chẳng phải là nhân sanh ra chúng sanh. Người này lại nghĩ rằng: Nếu nói cha mẹ là nhân sanh ra chúng sanh, lẽ ra nhân nơi cha mẹ thường sanh ra chúng sanh, nhưng lại có hóa sanh và thấp sanh, do đây nên biết chẳng phải nhân nơi cha mẹ sanh ra chúng sanh. Người này lại nghĩ rằng: tự có chúng sanh chẳng phải nhân nơi cha mẹ mà được sanh trưởng như chim công nghe tiếng sấm nổ mà có trứng, như chim thanh tước uống nước mắt của chim tước trống mà có trứng, như chim cộng mạng thấy chim trống múa bèn có trứng. Người này lúc suy nghĩ những điều trên đây nếu chẳng gặp được bậc thiện tri thức khai thị, phải biết rằng người này có thể dứt căn lành.
Người thông minh này lại nghĩ rằng: Trong đời không có quả thiện ác, vì có những chúng sanh tu tập đủ mười điều lành, ưa thực hành bố thí siêng làm công đức, mà những người này cũng lại bị các bệnh tật nhóm trên thân, hoặc chết yểu, hoặc mất của, hoặc nhiều sự lo khổ. Cũng có những người tạo đủ mười điều dữ, tham lam bỏn xẻn tật đố giải đãi, mà lại mạnh khoẻ sống lâu, hoặc giàu có không sầu khổ, do đây nên biết rằng không có quả thiện ác. Người này lại nghĩ rằng: Tôi cũng từng nghe các thánh nhân nói có người tu tập pháp lành khi chết bị đọa trong ba đường dữ. Có người làm điều ác khi chết sanh trong loài người trên trời, do đây nên biết rằng không quả thiện ác. Người này lại nghĩ rằng: Các thánh nhân nói hai thuyết: Hoặc nói sát sanh được quả báo lành, hoặc nói sát sanh mắc quả báo dữ. Thánh nhân còn nói bất định, tại sao tôi lại nói quyết định, do đây nên biết không có quả thiện ác.
Người thông minh này lại nghĩ rằng: Trong đời không có thánh nhân, vì nếu nói là thánh nhân thời phải chứng được thánh đạo. Tất cả chúng sanh lúc có đủ phiền não tu hành chánh đạo, nên biết rằng người này đồng thời đủ có phiền não và chánh đạo. Nếu đồng thời chánh đạo chẳng phá được kiết sử. Nếu không phiền não mà tu hành chánh đạo, thời chánh đạo ấy dùng làm gì? Do đây nên người đủ phiền não thời chánh đạo chẳng thể phá hoại được, người không phiền não thời chánh đạo lại vô dụng. Do đây nên biết trong đời không có bậc thánh nhân.
Người thông minh này lại nghĩ rằng: vô minh làm duyên cho hành, nhẫn đến sanh làm duyên cho lão tử, mười hai nhân duyên này tất cả chúng sanh đồng có. Tám thánh đạo tánh nó bình đẳng cũng như vậy, lúc một người được, thời tất cả người lẽ ra cũng được, lúc một người tu hành lẽ ra tất cả khổ đều diệt, vì phiền não bình đẳng. Mà nay chẳng đồng chứng đặng, do đây nên biết rằng không có chánh đạo.
Người thông minh này lại nghĩ rằng: Các thánh nhân đều có những pháp đồng với phàm phu, như là uống ăn, đi đứng ngồi nằm, ngủ nghĩ, vui cười, đói khát, lạnh nóng, lo buồn sợ sệt. Nếu đã đồng với phàm phu có những việc như vậy, nên biết rằng bậc thánh nhân chẳng chứng được thánh đạo, nếu đã được thánh đạo lẽ ra phải dứt hẳn những việc như vậy. Những việc như vậy nếu đã chẳng dứt, do đây nên biết rằng không thánh đạo.
Người thông minh này lại nghĩ rằng: Thánh nhân có nhân thọ vui ngũ dục, cũng mắng nhiếc đánh đập người, cũng tật đố kiêu mạn thọ những sự khổ vui, tạo nghiệp thiện ác, do đây nên biết rằng không có thánh nhân. Nếu có chánh đạo lẽ ra đã dứt những việc này, nếu những việc này chẳng dứt nên biết rằng không chánh đạo.
Người thông minh này lại nghĩ rằng: Người nhiều lòng từ mẫn gọi là thánh nhân. Do nhân duyên gì gọi là thánh nhân? Nhân nơi thánh đạo mà gọi là thánh nhân. Nếu tánh của thánh đạo là từ mẫn, thời nên thương xót tất cả chúng sanh, chẳng cần chờ tu hành rồi mới đặng. Nếu như không từ mẫn cớ sao thánh nhân chứng được thánh đạo lại hay từ mẫn, do đây nên biết trong đời không có thánh đạo.
Người thông minh này lại nghĩ rằng: Tất cả tứ đại chẳng từ nhân duyên sanh. Chúng sanh đồng có tánh tứ đại này. Chẳng quan sát chúng sanh đáng đến bờ này, chẳng đáng đến bờ kia, nếu là có thánh đạo, thời tánh của thánh đạo lẽ ra cũng như vậy, nhưng nay chẳng phải như vậy, do đây nên biết rằng trong đời không có thánh nhân.
Người thông minh này lại nghĩ rằng nếu các bậc thánh nhân có một Niết Bàn thời nên biết rằng không có thánh nhân. Vì Niết Bàn là bất khả đắc. Pháp thường trụ là bất khả đắc chẳng thể lấy chẳng thể bỏ. Nếu các bậc thánh nhân có nhiều Niết Bàn thời là vô thường, vì là pháp có thể đếm được. Niết Bàn nếu là một, lúc một người được thời lẽ ra tất cả đều được. Nếu Niết Bàn là nhiều thời là có chừng ngằn, nếu là có chừng ngằn thời đâu được gọi là thường trụ. Nếu nói rằng thể của Niết Bàn là một, mà người giải thoát là nhiều, như một cây lọng là một mà cọng cánh lá nhiều, lời nói này chẳng đúng nghĩa, vì mỗi người chứng đặng chẳng phải tất cả người chứng đặng, bởi có chừng ngằn lẽ ra là vô thường, nếu đã là vô thường thời đâu được gọi là Niết Bàn. Nếu không có Niết Bàn thời ai là bậc thánh nhân? Do đây nên biết rằng không có thánh nhân.
Người thông minh này lại nghĩ rằng: Chánh đạo của thánh nhân chẳng phải do nhân duyên mà được. Nếu chánh đạo của thánh nhân đã chẳng phải do nhân duyên mà được, cớ sao tất cả chúng sanh chẳng làm thánh nhân. Nếu tất cả người chẳng phải là thánh nhân, thời biết rằng không có thánh nhân và không có thánh đạo.
Người thông minh lại nghĩ rằng thánh nhân nói có hai nhân duyên được chánh kiến: Một là nghe người khác thuyết pháp, hai là tự mình tư duy. Hai nhân duyên này đã từ duyên sanh, thời duyên này lại từ duyên khác mà sanh, xoay vần mãi như vậy thành ra có lỗi vô cùng. Nếu hai nhân duyên này chẳng từ duyên sanh, thời tất cả chúng sanh do cớ gì chẳng đều được.
Lúc người thông minh này suy nghĩ những điều như trên thời có thể dứt mất căn lành.
Này thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào chấp nhặt những điều không nhân không quả như vậy người này có thể dứt mất năm căn: tín, tấn, niệm, định và huệ. Người dứt mất căn lành chẳng phải là người hạ liệt, ngu độn, cũng chẳng phải chư thiên, chẳng phải ba ác đạo. Người phá Tăng cũng như vậy.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Người như vậy, lúc nào sẽ có thể sanh căn lành trở lại?"
- Này thiện nam tử! Người này có hai lúc sanh căn lành trở lại: Lúc mới vào địa ngục và lúc ra khỏi địa ngục.
Này thiện nam tử! Căn lành có ba thứ: Quá khứ, hiện tại và vị lai. Nếu là quá khứ thời tánh nó tự diệt, dầu nhân diệt nhưng quả báo chưa thục nên chẳng gọi là dứt quả quá khứ. Vì dứt nhân lành ba đời nên gọi là dứt mất.
- Bạch Thế Tôn! Nếu dứt nhân lành ba đời mà gọi là mất căn lành, người dứt căn lành vẫn có Phật tánh, Phật tánh này là quá khứ, là hiện tại, là vị lai, hay là khắp cả ba đời? Nếu là quá khứ thế nào gọi là thường. Phật tánh là thường trụ nên biết rằng không phải là quá khứ. Nếu là vị lai thế nào gọi là thường? Cớ sao Phật nói rằng tất cả chúng sanh quyết định sẽ được? Nếu quyết định được thời sao lại nói rằng dứt mất? Nếu là hiện tại sao lại là thường? Cớ sao lại nói rằng quyết định có thể thấy?
Đức Như Lai cũng nói rằng Phật tánh cũng có sáu: Một là thường, hai là chân, ba là thật, bốn là thiện, năm là tịnh, sáu là có thể thấy. Nếu người dứt mất thiện căn mà có Phật tánh thời chẳng được gọi là dứt mất căn lành. Nếu không có Phật tánh sao lại nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Nếu nói rằng Phật tánh cũng có, cũng dứt, thế nào đức Như Lai lại nói Phật tánh là thường trụ?
- Này thiện nam tử! Đức Như Lai vì chúng sanh nên có ba thứ giải đáp: Một là đáp quyết định, hai là phân biệt mà đáp, ba là theo lời hỏi mà đáp, bốn là yên lặng mà đáp.
Thế nào là quyết định đáp? Nếu có ai hỏi rằng nghiệp ác cảm quả lành hay quả chẳng lành? Thời nên quyết định đáp rằng cảm quả chẳng lành. Hỏi thiện nghiệp cũng đáp như vậy. Nếu hỏi đức Như Lai có phải là bậc nhất thiết trí chăng? Thời nên quyết định đáp rằng là bậc nhất thiết trí. Nếu hỏi Phật pháp là thanh tịnh chăng? Thời nên quyết định đáp rằng là thanh tịnh. Nếu hỏi đệ tử của Phật có ăn ở đúng như pháp chăng? Thời nên quyết định đáp rằng có đúng như pháp mà ở. Đây gọi là quyết định đáp.
Thế nào là phân biệt mà đáp? - Như đức Phật giảng nói bốn chân đế. - Thế nào là bốn? - Là khổ tập diệt đạo. - Sao gọi rằng khổ đế? - Vì có tám điều khổ nên gọi là khổ đế. - Thế nào là tập đế? - Vì là nhân của ngũ ấm nên gọi là tập đế. - Thế nào là diệt đế? - Vì đã dứt hẳn tham sân si nên gọi là diệt đế. - Thế nào là đạo đế? - Ba mươi bảy pháp trợ đạo gọi đó là đạo đế. Đây gọi là phân biệt mà giải đáp.
Thế nào là theo lời hỏi mà đáp? Hỏi rằng đức Thế Tôn nói những pháp gì là vô thường? - Đáp rằng đức Như Lai nói pháp hữu vi là vô thường. Vô ngã cũng như vậy. - Hỏi rằng đức Thế Tôn vì những pháp gì mà nói tất cả đốt cháy? - Đáp rằng đức Như Lai vì tham, sân, si, mà nói tất cả đốt cháy.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai có mười trí lực, bốn vô sở úy, ba niệm xứ, đại từ đại bi, thủ lăng nghiêm v.v… tám muôn ức môn tam muội, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, năm trí ấn v.v… ba muôn năm ngàn môn tam muội, kim cang định v.v… bốn ngàn hai trăm môn tam muội, vô lượng vô biên phương tiện tam muội, những công đức trên đây là Phật tánh của Phật. Phật tánh này có bảy điều: thường, lạc, ngã, tịnh, chân, thật và thiện. Đây gọi là phân biệt mà giải đáp.
Này thiện nam tử! Phật tánh của Bồ Tát thân rốt cau có sáu điều: thường, tịnh, chân, thật, thiện và thiểu kiến. Đây gọi là phân biêt mà giải đáp.
Như trước kia ông hỏi: Người dứt mất căn lành có Phật tánh. Người này cũng có Phật tánh của Như Lai, cũng có Phật tánh của Bồ Tát thân rốt sau. Hai Phật tánh này vì chướng ngại vị lai nên được gọi là không, vì rốt ráo sẽ được nên gọi là có. Đây gọi là phân biệt mà đáp.
Phật tánh của Như Lai, chẳng phải quá khứ chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai.
Phật tánh của Bồ Tát thân rốt sau là hiện tại và vị lai: vì có thể thấy phần ít nên gọi là hiện tại, vì chưa thấy đầy đủ nên gọi là vị lai.
Đức Như Lai lúc chưa chứng được vô thượng Bồ Đề, về nhân Phật tánh cũng là quá khứ, hiện tại và vị lai. Về quả Phật tánh thời chẳng như vậy: Có là ba đời, có chẳng phải ba đời.
Phật tánh của Bồ Tát thân rốt sau về nhân cũng là ba đời, về quả cũng như vậy. Đây gọi là phân biệt mà đáp.
Phật tánh của Cửu Trụ Bồ Tát có sáu điều: thường, thiện, chân, thật, tịnh, khả kiến. Nhân Phật tánh cũng là ba đời, quả cũng như vậy. Đây gọi là phân biệt mà nói.
Bát Trụ Bồ Tát xuống đến bậc Lục Trụ, Phật tánh có năm điều: chân, thật, tịnh, thiện và khả kiến. Nhân Phật tánh cũng là ba đời, quả cũng như vậy. Đây gọi là phân biệt mà đáp.
Ngũ trụ Bồ Tát xuống đến bậc Sơ Trụ, Phật tánh có năm điều: Chân, thật, tịnh, khả kiến và thiện bất thiện.
Này thiện nam tử! Năm thứ Phật tánh, sáu thứ Phật tánh, bảy thứ Phật tánh, người dứt mất căn lành quyết sẽ được nên gọi là có, đây gọi là phân biệt mà đáp.
Nếu nói rằng người dứt mất căn lành quyết định có Phật tánh, quyết định không Phật tánh. Đây gọi là yên lặng mà đáp.
- Bạch Thế Tôn! Tôi nghe rằng chẳng đáp mới gọi là yên lặng mà đáp. Nay cớ gì đức Như Lai đáp mà lại gọi là yên lặng đáp?
- Này thiện nam tử! Ta cũng chẳng nói ra, để đó chẳng giải đáp nên gọi là yên lặng mà đáp.
Này thiện nam tử! Yên lặng đáp như vậy lại có hai thứ: Một là ngăn dứt, hai là chẳng chấp trước. Do nghĩa này nên được gọi là yên lặng đáp.
(Hán bộ quyển thứ 35)
- Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói, thế nào gọi rằng nhân Phật tánh cũng là ba đời, quả cũng là ba đời, lại chẳng phải là ba đời?
- Này thiện nam tử! Ngũ ấm có hai thứ: Một là nhân hai là quả. Nhân ngũ ấm này cũng là ba đời, quả ngũ ấm này cũng là ba đời mà cũng chẳng phải là ba đời.
Này thiện nam tử! Tất cả những kiết sử vô minh phiền não đều là Phật tánh, vì là nhân của Phật tánh. Từ vô minh, hành và các phiền não mà được ngũ ấm lành, đây gọi là Phật tánh. Từ ngũ ấm lành nhẫn đến chứng đặng vô thượng Bồ Đề. Do đây nên trong kinh ta nói trước rằng Phật tánh của chúng sanh như sữa lẫn lộn trong máu. Máu là nói vô minh, hành v.v… tất cả những phiền não. Sữa là nói ngũ ấm lành. Nên ta nói rằng do từ những phiền não và ngũ ấm lành mà chứng được vô thượng Bồ Đề, như thân chúng sanh đều do từ tinh huyết mà được thành, Phật tánh cũng như vậy.
Bậc Tu Đà Hoàn và Tư Đà Hàm dứt phần ít phiền não, Phật tánh của những bậc này như sữa. Bậc A Na Hàm Phật tánh như lạc. Bậc A La Hán Phật tánh như sanh tô. Từ bậc Bích Chi Phật đến Thập Trụ Bồ Tát, Phật tánh như thục tô. Phật tánh của đức Như Lai như đề hồ.
Này thiện nam tử! Vì phiền não hiện tại chướng ngăn làm cho chúng sanh chẳng thấy được Phật tánh. Như trong núi Hương Sơn có cỏ nhẫn ngục chẳng phải tất cả bò đều có thể được ăn. Phật tánh cũng như vậy. Đây gọi là phân biệt mà giải đáp.
- Bạch Thế Tôn! Năm thứ, sáu thứ, bảy thứ Phật tánh, nếu là đến vị lai sẽ có, tại sao nói rằng người dứt căn lành có Phật tánh?
- Này thiện nam tử! Như các chúng sanh có nghiệp quá khứ, do nghiệp này mà chúng sanh thọ lấy quả báo hiện tại. Có nghiệp vị lai vì chưa sanh nên trọn chẳng thành quả. Chúng sanh hiện tại có phiền não, nếu không phiền não thời tất cả chúng sanh lẽ ra phải thấy rõ Phật tánh hiện tại. Do đây nên người dứt căn lành, do phiền não đời hiện tại nên có thể dứt căn lành, do năng lực Phật tánh đời vị lai nên căn lành sanh trở lại.
- Bạch Thế Tôn! Đời vị lai thế nào có thể sanh căn lành?
- Này thiện nam tử! Như ngọn đèn và mặt trời dầu lại là vị lai mới sáng nhưng cũng phá tối tăm. Tánh vị lai có thể sanh ra chúng sanh, Phật tánh đời vị lai cũng như vậy. Đây gọi là phân biệt mà giải đáp.
- Bạch Thế Tôn! Nếu nói ngũ ấm là Phật tánh tại sao nói rằng Phật tánh của chúng sanh chẳng phải trong chẳng phải ngoài.
- Này thiện nam tử! Cớ sao quên mất như vậy. Trước kia ta chẳng nói rằng Phật tánh của chúng sanh là trung đạo ư?
- Bạch Thế Tôn! Thiệt ra tôi chẳng quên lời Phật dạy. Chỉ vì chúng sanh chẳng hiểu được trung đạo này nên bạch hỏi đức Phật như vậy.
- Này thiện nam tử! Chỗ mà chúng sanh chẳng hiểu được chính đó là trung đạo. Có lúc hoặc có hiểu hoặc có người chẳng hiểu. Ta vì muốn làm cho chúng sanh được hiểu rõ nên nói Phật tánh của chúng sanh chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Vì kẻ phàm phu cho rằng Phật tánh ở trong ngũ ấm, như trái cây đựng trong chậu. Cũng có kẻ cho rằng rời ngoài ngũ ấm mà có Phật tánh như hư không. Do đây nên đức Như Lai nói nghĩa trung đạo: Phật tánh của chúng sanh chẳng phải là sáu căn ở trong, chẳng phải là sáu trần ở ngoài. Vì hiệp trong và ngoài nên gọi là trung đạo, đây là phân biệt mà giải đáp.
Này thiện nam tử! Thế nào gọi là chẳng phải trong chẳng phải ngoài?
Này thiện nam tử! Có người nói rằng Phật tánh chính là ngoại đạo, vì các bậc đại Bồ Tát trải qua vô lượng kiếp ở trong ngoại đạo, mà dứt phiền não điều phục tâm của mình, giáo hóa vô lượng chúng sanh, rồi sau mới được vô thượng Bồ Đề.
Hoặc có người cho rằng Phật tánh chính là nội đạo. Vì đại Bồ Tát dầu trong vô lượng kiếp tập học ngoại đạo, nhưng nếu rời nội đạo thời chẳng thể được vô thượng Bồ Đề.
Đức Như Lai vì ngăn hai thứ chấp trước này nên nói rằng Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng gọi là trong ngoài, đây gọi là trung đạo.
Có người nói Phật tánh chính là thân Kim Cang của Như Lai: ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Có người nói Phật tánh chính là mười trí lực, bốn món vô sở úy, đại từ đại bi, tam niệm xứ, thủ-lăng-nghiêm v.v… Tất cả môn tam muội, vì do những tam muội này mà sanh ra thân Kim Cang ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Đức Như Lai vì ngăn hai sự chấp trước này nên nói rằng Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài cũng là trong ngoài, đây gọi là trung đạo.
Này thiện nam tử! Có người cho rằng Phật tánh chính là trong tâm khéo tư duy, vì rời khéo tư duy thời chẳng thể rõ được vô thượng Bồ Đề. Có người nói rằng Phật tánh chính là do nghe pháp với người khác, vì nghe pháp với người khác thời có thể trong tâm khéo tư duy, nếu chẳng nghe pháp thời không tư duy.
Do đây nên Như Lai vì ngăn hai sự chấp trước này nên nói Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài cũng là trong ngoài, đây gọi là trung đạo.
Lại có người nói Phật tánh là ngoài nghĩa, là đàn ba-la-mật. Từ đàn ba-la-mật mà chứng được vô thượng Bồ Đề. Có người nói Phật tánh là trong nghĩa, là năm môn ba-la-mật, vì rời năm môn này thời không có nhân quả Phật tánh.
Do đây nên Như Lai vì ngăn hai thứ chấp trước này mà nói Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, đây gọi là trung đạo.
Này thiện nam tử! Có người nói Phật tánh ở nơi trong, như viên bảo châu trên trán của lực sĩ, vì thường, lạc, ngã, tịnh như bảo châu. Có người nói Phật tánh ở nơi ngoài như kho báu của bần nữ, vì do phương tiện mà được thấy.
Vì ngăn hai thứ chấp trước này nên đức Như Lai nói rằng Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài cũng là trong ngoài, đây gọi là trung đạo.
Này thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh chẳng phải có chẳng phải không. Vì Phật tánh dầu là có nhưng chẳng phải như hư không, vì hư không của thế gian dầu dùng vô lượng thiện xảo phương tiện cũng chẳng thể thấy được, còn Phật tánh thời có thể thấy, do đây nên Phật tánh dầu là có nhưng chẳng phải như hư không.
Phật tánh dầu là không nhưng chẳng đồng như sừng thỏ. Vì lông rùa, sừng thỏ dầu dùng vô lượng thiện xảo phương tiện cũng chẳng thể sanh lên được, còn Phật tánh thời có sanh. Do đây nên Phật tánh chẳng phải có chẳng phải không, cũng là có cũng là không.
Thế nào gọi là có? Tất cả chúng sanh đều có chẳng dứt chẳng diệt, dường như ngọn đèn, mãi đến chứng đặng vô thượng Bồ Đề, nên gọi là có Phật tánh.
Thế nào gọi là không? Tất cả chúng danh hiện tại chưa có đủ tất cả Phật pháp thường, lạc, ngã, tịnh, nên gọi là không Phật tánh.
Vì có và không hiệp lại chính là trung đạo, nên đức Như Lai nói Phật tánh chúng sanh chẳng phải có chẳng phải không.
Này thiện nam tử! Như có người hỏi trong hột giống này có trái hay không? Tất phải đáp rằng cũng có cũng không. Vì ngoài hột giống thời không thể sanh ra trái nên gọi là có, còn hột giống chưa mọc mộng nên gọi rằng không. Do nghĩa này nên nói cũng có cũng không. Vì thời tiết có khác, nhưng thể chất của hột giống là một. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy. Nếu nói rằng trong chúng sanh riêng có Phật tánh thời không đúng nghĩa. Vì chúng sanh là Phật tánh, Phật tánh là chúng sanh, chỉ do thời gian có tịnh và bất tịnh sai khác.
- Này thiện nam tử! Nếu có người hỏi hột này có thể sanh trái chăng, trái này có thể sanh hột chăng? Tất phải đáp rằng cũng sanh cũng chẳng sanh.
- Bạch Thế Tôn! Như người đời nói rằng trong sữa có chất lạc, nghĩa này như thế nào?
- Này thiện nam tử! Nếu nói trong sữa có chất lạc thời là chấp trước. Nếu nói trong sữa không chất lạc thời là hư vọng. Tất phải nói rằng cũng có cũng không. Từ sữa sanh ra chất lạc: nhân là sữa, quả là lạc, đây gọi là có. Màu sắc cùng mùi vị đều khác nhau, ăn dùng cũng chẳng đồng, bệnh nóng thời dùng sữa, bệnh lạnh thời dùng lạc, sữa sanh bệnh lạnh, lạc sanh bệnh nóng.
Nếu nói trong sữa có tánh của lạc, sữa là lạc, lạc là sữa, hai thứ đồng một tánh, nhân duyên gì mà sữa lại có trước, còn lạc chẳng sanh trước? Nếu có nhân duyên tại sao tất cả người đời chẳng nói? Nếu không nhân duyên cớ sao lạc chẳng sanh ra trước? Nếu lạc chẳng sanh ra trước thời ai làm ra có thứ tự: sữa, lạc, sanh tô, thục tô, đề hồ? Do đây nên biết rằng chất lạc trước không có nay mới có, nếu là trước không nay có thời là pháp vô thường.
Này thiện nam tử! Nếu nói rằng trong sữa có chất lạc có thể sanh ra lạc, trong nước không có chất lạc nên chẳng sanh ra lạc, lời này không đúng nghĩa. Vì nước cỏ cũng có tánh chất của sữa và lạc, vì do nước cỏ mà sanh ra sữa và lạc. Nếu nói trong sữa quyết định có chất lạc, còn nước cỏ không chất lạc, lời này gọi là hư vọng, vì tâm chẳng bình đẳng nên gọi là hư vọng.
Này thiện nam tử! Nếu nói trong sữa quyết định có chất lạc, thời lẽ ra trong chất lạc cũng quyết định có chất sữa. Cớ gì trong sữa sanh ra lạc mà trong lạc chẳng sanh ra sữa? Nếu là không duyên cớ thời nên biết rằng chất lạc này trước không mà nay có. Do đây nên người trí phải nói rằng trong sữa chẳng có chất lạc chẳng phải không chất lạc.
Này thiện nam tử! Do đây nên đức Như Lai từng nói trong khế kinh rằng: Nếu cho tất cả chúng sanh quyết định có Phật tánh thời gọi là chấp trước, nếu cho không Phật tánh thời gọi là hư vọng. Người trí nên nói rằng Phật tánh của chúng sanh cũng có cũng không.
Này thiện nam tử! Do bốn pháp hòa hiệp mà có nhãn thức: nhãn căn, sắc trần, ánh sáng, tác ý. Tánh nhãn thức này chẳng phải là nhãn căn, chẳng phải sắc trần, chẳng phải ánh sáng, chẳng phải tác ý. Do bốn pháp này hòa hiệp mà nhãn thức được sanh. Nhãn thức như vậy là trước không mà nay có, đã có trở lại không. Do đây nên biết rằng nhãn thức vốn không có tánh. Chất lạc ở trong sữa cũng như vậy.
Nếu nói rằng trong nước không chất lạc nên chẳng xuất sanh ra lạc, còn trong sữa sanh ra lạc, nên trong sữa quyết định có chất lạc. Lời nói trên đây không đúng nghĩa. Vì tất cả pháp: nhân khác, quả khác, cũng chẳng phải một nhân sanh tất cả quả chẳng phải tất cả quả từ một nhân sanh. Như do bốn pháp sanh ra nhãn thức, chẳng nên nói rằng từ bốn pháp này phải sanh ra nhĩ thức hay tỹ thức.
Này thiện nam tử! Rời các phương tiện thời không thể được chất lạc trong sữa, cũng không thể từ chất lạc sanh ra chất tô. Do đây nên cần phải có phương tiện. Người trí chẳng nên có quan niệm rằng rời các phương tiện mà được chất lạc từ nơi sữa. Được sanh tô cũng như vậy.
Do đó nên trong khế kinh ta từng nói: Vì "nhân" sanh nên có pháp, vì "nhân" diệt nên không pháp.
Này thiện nam tử! Như muối tánh chất là mặn có thể làm cho vật chẳng phải mặn thành mặn. Nếu vật chẳng phải mặn mà trước có tánh chất mặn, cớ sao người đời cho rằng chẳng phải là muối ư! Nếu trước không mặn thời nên biết rằng trước không mà nay có, do các duyên khác mà thành mặn.
Nếu nói rằng tất cả vật chẳng mặn đều có tánh chất mặn vì quá ít nên chẳng biết, do tánh chất quá ít này nên muối có thể làm cho vật ấy thành mặn, nếu vốn không tánh chất mặn thời dầu có muối cũng chẳng thể làm thành mặn được. Như hột giống tự nó có tứ đại, duyên nhờ tứ đại ngoài mà có được tăng trưởng: Nảy mầm, lên cây, đâm chồi, ra lá, tánh chất của muối cũng vậy. Lời nói trên đây không đúng nghĩa, vì vật chẳng mặn nếu trước đã có tánh chất mặn, muối lẽ ra cũng có tánh chất chút ít chẳng mặn. Muối này nếu có hai tánh chất như vậy, duyên cớ gì rời vật chẳng mặn nó không thể riêng dùng? Do đây nên biết muối vốn không có hai tánh. Như muối không có hai tánh, tất cả vật chẳng mặn cũng không có hai tánh như vậy.
Nếu nói rằng tứ đại ngoài có năng lực làm tăng trưởng tứ đại trong. Lời nói này không đúng nghĩa, vì là theo thứ tự mà nói chẳng từ phương tiện: Trong sữa được chất lạc, chất sanh tô, nhẫn đến tất cả pháp đều cũng chẳng phải do phương tiện mà được, tứ đại cũng như vậy. Nếu nói từ tứ đại trong tăng trưởng tứ đại ngoài. Như trái thi-lợi-sa, từ trước không hình chất, lúc gặp sao Mão mọc thời sanh trái lớn đủ năm tấc. Trái này thiệt chẳng do nơi tứ đại ngoài mà tăng trưởng.
Này thiện nam tử! Như mười hai bộ kinh của ta nói: Hoặc tùy tự ý mà nói, hoặc tùy tha ý mà nói, hoặc tùy tự tha ý mà nói.
Thế nào gọi là tùy tự ý mà nói? Như năm trăm Tỳ Kheo hỏi Xá Lợi Phất: Bạch đại đức! Phật nói nhân của thân là những gì? Xá Lợi Phất nói: Chư đại đức cũng đều được chánh giải thoát tự mình nên biết đó, duyên cớ gì mà hỏi như vậy? Có Tỳ Kheo nói: Bạch đại đức! Lúc tôi chưa được chánh giải thoát, cho rằng vô minh là nhân của thân, lúc quan sát như vậy chứng được quả A La Hán.
Lại có Tỳ Kheo nói: Bạch đại đức! Lúc tôi chưa được chánh giải thoát, cho rằng thọ và vô minh là nhân của thân, lúc quan sát như vậy đặng quả A La Hán.
Hoặc có Tỳ Kheo nói: Hành, thức, danh, sắc, lục nhậtp, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, ẩm thực, ngũ dục là nhân của thân.
Lúc đó năm trăm Tỳ Kheo mỗi người tự nói chỗ hiểu biết của mình rồi, bèn cùng nhau đến đảnh lễ chân Phật, đi nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một bên. Mỗi người tự đem chỗ hiểu của mình như đã nói ở trên mà bạch với Phật. Xá Lợi Phất bạch rằng: Thế Tôn! Những Tỳ Kheo này ai là chánh thuyết, ai là không chánh thuyết.
Phật nói: Lành thay! Lành thay! Tất cả Tỳ Kheo đây đều là chánh thuyết cả.
Xá Lợi Phất bạch rằng: Thế Tôn! Ý của đức Phật thế nào?
- Này Xá Lợi Phất! Ta vì chúng sanh trong cõi dục mà nói cha mẹ là nhân của thân.
Những kinh như vậy gọi là tùy tự ý mà nói.
Thế nào gọi là tùy tha ý mà nói? Như Bả Tra La trưởng giả đến hỏi ta rằng: Thưa Cù Đàm! Ngài có biết ảo thuật chăng? Nếu biết ảo thuật thời ngài là nhà ảo thuật, còn nếu không biế thời ngài chẳng phải là nhất thiết trí.
Phật nói: Này trưởng giả! Người biết ảo thuật có gọi là người ảo thuật chăng?
Trưởng giả nói: Đúng vậy! Đúng vậy! Người biết ảo thuật chính là người ảo thuật.
Phật nói: Này trưởng giả! Trong nước Xá Vệ vua Ba Tư Nặc có gã Chiên Đà La tên là Khí Hứ, ông có biết không?
Trưởng giả thưa rằng từ lâu tôi đã biết người ấy.
Phật nói: Từ lâu ông đã biết người mà ông có thể chính là Chiên Đà La không?
Trưởng giả thưa tôi dầu biết gã Chiên Đà La ấy, nhưng thân của tôi chẳng phải Chiên Đà La.
Phật nói: Ông biết được nghĩa ấy: Người biết Chiên Đà La chẳng phải là Chiên Đà La. Nay cớ sao ta chẳng được biết ảo thuật mà chẳng phải là ảo thuật? Này trưởng giả, thiệt ra ta biết ảo thuật, biết người ảo thuật, biết quả báo ảo thuật, biết nghề ảo thuật. Ta biết sát nghiệp, biết người sát nghiệp, biết quả báo sát nghiệp, biết giải thoát sát nghiệp, nhẫn đến biết tà kiến, biết người tà kiến, biết quả báo tà kiến, biết giải thoát tà kiến.
Nếu trưởng giả nói người chẳng phải ảo thuật gọi là người ảo thuật, người chẳng phải tà kiến gọi là người tà kiến, thời mắc vô lượng tội.
Trưởng giả nói: "Thưa Cù Đàm! Cứ như lời của ngài nói thời tôi mắc tội rất lớn. Nay tất cả của cải của tôi, tôi đem dâng cho ngài tất cả. Mong ngài chớ cho vua Ba Tư Nặc biết việc của tôi."
Phật nói: "Này trưởng giải! Tội của ông bất tất mất của. Ông sẽ do tội này mà phải bị đọa trong ba ác đạo."
Trưởng giả nghe nói đến ba ác đạo, kinh sợ bạch Phật rằng: "Thưa Thánh nhân! Nay tôi vì quên sót mà mắc lấy tội lớn. Thánh nhân là bậc nhất thiết trí tất là biết rõ con đường giải thoát. Nay tôi phải thế nào để được thoát khỏi địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh?"
Lúc đó đức Phật giảng giải về bốn lý chân đế. Nghe xong trưởng giả chứng được quả Tu Đà Hoàn. Trong lòng hổ thẹn hướng về đức Phật mà sám hối: "Tôi vốn ngu si, đức Phật không phải người ảo mà nói là ảo. Ngày nay tôi xin quy y Tam Bảo."
Đức Phật nói: "Lành thay! Lành thay!"
Đây gọi là tùy tha ý mà nói.
Thế nào gọi là tùy tự tha ý mà nói? Như ta từng nói: Trong tất cả thế gian, người trí nói có thời ta cũng nói có, người trí nói không thời ta cũng nói không.
Người trí trong đời nói sự vui ngũ dục có vô thường, khổ, vô ngã, đáng dứt diệt, thời ta cũng nói là có như vậy.
Người trí trong đời nói không bao giờ có vui ngũ dục, mà có thường, lạc, ngã, tịnh, thời ta cũng nói là không bao giờ có.
Đây gọi là tùy tự tha ý mà nói.
Này thiện nam tử! Như ta nói bậc Thập Trụ Bồ Tát thấy Phật tánh một phần ít. Đây gọi là tùy tha ý mà nói.
Thế nào gọi là thấy phần ít? Thập Trụ Bồ Tát được ba ngàn môn thủ-lăng-nghiêm tam muội v.v… nên biết rõ mình sẽ được vô thượng Bồ Đề, mà chẳng thấy tất cả chúng sanh quyết định được vô thượng Bồ Đề, do đây nên ta nói bậc Thập Trụ Bồ Tát thấy Phật tánh phần ít.
Này thiện nam tử! Ta thường tuyên nói: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đây gọi là tùy tự ý mà nói.
Tất cả chúng sanh chẳng đoạn chẳng diệt mãi đến chứng được vô thượng Bồ Đề. Đây gọi là tùy tự ý mà nói.
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vì phiền não che ngăn nên chẳng thể thấy được. Ta nói như vậy, ông nói như vậy. Đây gọi là tùy tự tha ý mà nói.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai có lúc vì một pháp mà nói vô lượng pháp. Như trong khế kinh nói: Tất cả phạm hạnh nhân nơi thiện tri thức. Tất cả phạm hạnh dầu có vô lượng nhân, nhưng nói thiện tri thức thời đã nhiếp hết cả.
Như ta từng nói: Tất cả ác hạnh nhân nơi tà kiến. Tất cả ác hạnh dầu có vô lượng nhân, nhưng nói tà kiến thời đã nhiếp hết cả.
Hoặc như ta nói: Tín tâm là nhân của vô thượng Bồ Đề, dẫu Bồ Đề có vô lượng nhân nhưng nói tín tâm thời đã nhiếp hết cả.
Này thiện nam tử! Dầu đức Như Lai nói vô lượng pháp là Phật tánh, nhưng chẳng rời ấm, nhập, giới.
Này thiện nam tử! Vì chúng sanh nên đức Như Lai thuyết pháp có bảy thứ từ ngữ: Một là từ ngữ về nhân, hai là từ ngữ về quả, ba là từ ngữ về nhân quả, bốn là từ ngữ về ví dụ, năm là từ ngữ bất ưng thuyết, sáu là từ ngữ về thế đế lưu bố, bảy là từ ngữ như ý.
Thế nào là từ ngữ về Nhân?
Trong Nhân hiện tại nói quả báo vị lai. Như ta từng bảo Tỳ Kheo: Ông xem chúng sanh ưa sát hại nhẫn đến ưa tà kiến, phải biết đó là người địa ngục vậy. Nếu có người chẳng ưa sát hại nhẫn đến chẳng ưa tà kiến, phải biết đó là người cõi trời. Đây gọi là từ ngữ về nhân.
Thế nào là từ ngữ về Quả?
Trong quả báo hiện tại nói nhân quá khứ. Như trong khế kinh ta bảo Tỳ Kheo: Như ông thấy mấy người nghèo khó hình dung xấu xa không được thong thả, phải biết rằng những người ấy quyết định đời trước có phá giới, tật đố, sân hận, không lòng hổ thẹn. Nếu thấy người giàu có, lành mạnh, có thế lực, phải biết rằng người này đời trước quyết định có trì giới, bố thí, tinh tấn, hổ thẹn, không lòng tật đố, sân hận. Đây gọi là từ ngữ về quả.
Thế nào là từ ngữ về nhân quả?
Như trong khế kinh ta bảo các Tỳ Kheo chúng sanh hiện tại lục nhập, xúc làm nhân đây gọi là nghiệp quả quá khứ. Đức Như Lai cũng gọi đó là nghiệp, nghiệp này làm nhân duyên sẽ có quả vị lai. Đây gọi là từ ngữ về nhân quả.
Thế nào là từ ngữ về ví dụ?
Như nói rằng Sư Tử Vương dụ có thân của Phật. Cũng nói những ví dụ: Đại Tượng Vương, Đại Long Vương, cây Ba Lợi Chất Đa La, đống Thất Bảo, Đại Hải, núi Tu Di, quả đất, mưa to, thuyền sư, đạo sư, Điều Ngự Trượng Phu, Đại Lực Sĩ, Ngưu Vương, Bà La Môn, Sa Môn, Đại Thành, cây đa-la, đây gọi là từ ngữ về ví dụ.
Thế nào là từ ngữ bất-ưng-thuyết? Như trong kinh ta từng nói: Trời, đất có thể hiệp, con sông chẳng chảy vào biển. Như ta nói với vua Ba Tư Nặc bốn phía núi đồng đến. Như ta vì Lộc Mẫu Ưu Bà Di nói nếu cây Ta La có thể thọ giới bát quan trai thời nó được hưởng thọ sự vui sướng cõi trời cõi người. Thà nói thập trụ Bồ Tát có tâm thối chuyển chẳng nên nói đức Như Lai nói hai lời. Thà nói bậc Tu Đà Hoàn đọa ba ác đạo chẳng nên nói Thập Trụ Bồ Tát cho tâm thối chuyển. Đây gọi là từ ngữ bất-ưng-thuyết.
Thế nào là từ ngữ thế đế lưu bố? Như Phật nói: nam nữ, lớn nhỏ đến đi nằm ngồi, xe cộ, nhà cửa, bình, áo, chúng sanh, thường lạc ngã tịnh, quân, rừng, thành, ấp, tăng phường hiệp tan. Đây gọi là từ ngữ về thế đế lưu bố.
Thế nào là từ ngữ như ý? Như ta quở trách người hủy phạm cấm giới khiến họ tự trách hộ trì cấm giới. Như ta khen ngợi bậc Tu Đà Hoàn, khiến hàng phàm phu sanh tâm lành. Ngợi khen Bồ Tát làm cho chúng sanh phát tâm bồ đề, nói những sự khổ não của ba ác đạo khiến chúng sanh tu tập các pháp lành. Chỉ vì tất cả pháp hữu vi mà nói tất cả đều đốt cháy, vô ngã cũng như vậy, nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh khiến mọi người chẳng phóng dật. Đây gọi là từ ngữ như ý.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai lại có từ ngữ tùy tự ý: Như nói Phật tánh của Như Lai có hai thứ: Một là có, hai là không.
Có, là Như Lai có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, mười trí lực, bốn vô sở úy, ba niệm xứ, đại từ, đại bi, thủ-lăng-nghiêm v.v… vô lượng tam muội, kim cang v.v… vô lượng tam muội, phương tiện v.v… vô lượng tam muội, năm trí ấn v.v… vô lượng tam muội.
Không, là Như Lai không có các điều thiện, bất thiện, vô úy, nghiệp nhân quả báo, phiền não, ngũ ấm, mười hai nhân duyên.
Này thiện nam tử! Như có và không, thiện bất thiện, hữu lậu vô lậu, thế gian phi thế gian, thánh phi thánh, hữu vi vô vi, thật bất thật, tịch tịnh phi tịch tịnh, tránh phi tránh, giới phi giới, phiền não phi phiền não, thủ phi thủ, thọ ký phi thọ ký, hữu phi hữu, tam thế phi tam thế, thời phi thời, thường vô thường, ngã vô ngã, lạc vô lạc, tịnh vô tịnh, sắc thọ tưởng hành thức, phi sắc thọ tưởng hành thức, nội nhập phi nội nhập, ngoại nhập phi ngoại nhập, thập nhị nhân duyên phi thập nhị nhân duyên. Đây là Phật tánh của Như Lai hai thứ có và không, nhẫn đến nhất-xiển-đề Phật tánh hai thứ có và không cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Dầu ta nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng chúng sanh chẳng hiểu những từ ngữ tùy tự ý của Phật như vậy. Những lời như vậy bậc tối hậu thân Bồ Tát còn chẳng hiểu được huống là những Bồ Tát khác và hàng nhị thừa.
Này thiện nam tử! Trước kia có một lúc tại núi Kỳ Xà Quật, ta cùng Di Lặc Bồ Tát luận về thế đế, mà Xá Lợi Phất v.v…, năm trăm vị Thanh Văn đều chẳng hiểu biết những việc ấy, huống là việc xuất thế đệ nhất nghĩa đế.
Này thiện nam tử! Hoặc có Phật tánh nhất-xiển-đề có mà người thiện căn thời không. Hoặc có Phật tánh người thiện căn thời có nhất-xiển-đề thời không. Hoặc có Phật tánh cả hai đều có, hoặc cả hai đều không. Nếu hàng đệ tử của ta hiểu bốn nghĩa như vậy, chẳng nên gạn rằng nhất-xiển-đề quyết định có Phật tánh hay quyết định không Phật tánh.
Như nói chúng sanh đều có Phật tánh, đây là từ ngữ tùy tự ý của Như Lai. Từ ngữ tùy tự ý của Như Lai như vậy, sao chúng sanh lại nhận hiểu quyết định một bề.
Này thiện nam tử! Như trong sông Hằng có bảy hạng chúng sanh: Một là chìm luôn, hai là tạm nổi lên lại chìm, ba là nổi lên rồi thời dừng lại, bốn là nổi lên xem khắp bốn phương, năm là xem khắp rồi thời đi, sáu là đi rồi lại đứng lại, bảy là dưới nước trên bờ đều đi.
Nói chìm luôn, là cá lớn mang nghiệp ác lớn thân nặng ở sâu nên chìm luôn.
Nói tạm thời nổi lên rồi lại chìm, là cá lớn vì nghiệp ác thân nặng ở chỗ cạn tạm thời thấy ánh sáng, do ánh sáng tạm thời nổi lên, rồi vì thân nặng mà lại chìm xuống.
Nói nổi lên rồi ở lại, là cá Kỳ Di ở chỗ nước cạn thích thấy ánh sáng nên nổi lên rồi ở lại.
Nói xem khắp bốn phương, là cá Tích vì kiếm ăn mà xem khắp bốn phương.
Xem khắp rồi đi, là nói cá Tích ấy thấy vật đằng xa cho là ăn được nên mau lội đến.
Đi rồi lại đứng lại, là cá này đi rồi đã đặng đồ ăn bèn dừng lại.
Nói dưới nước trên bờ đều đi tức là linh quy vậy.
Này thiện nam tử! Con sông Đại Niết Bàn vi diệu này, trong đó cũng có bảy hạng chúng sanh: từ hạng ban đầu thường chìm, nhẫn đến hạng thứ bảy hoặc xuống nước hoặc lên bờ.
Nói thường chìm, là như có người nghe kinh Đại Niết Bàn, nói rằng đức Như Lai thường trụ không có biến đổi, là thường, lạc, ngã, tịnh trọn chẳng nhập Niết Bàn, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đến hạng nhất-xiển-đề cũng ắt sẽ thành đạo Bồ Đề, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật v.v… ắt sẽ được thành vô thượng Bồ Đề. Người này nghe lời trên đây không tin mà nghĩ và nói rằng kinh điển Đại Niết Bàn này là sách ngoại đạo chẳng phải kinh Phật. Lúc bấy giờ người này xa lìa bạn lành, chẳng nghe chánh pháp, dầu có lúc được nghe nhưng chẳng thể tư duy, dầu có tư duy nhưng chẳng tư duy pháp lành, vì chẳng tư duy pháp lành nên trụ nơi pháp ác. Người trụ nơi pháp ác có sáu hạng: một là ác, hai là vô thiện, ba là ô pháp, bốn là tăng hữu, năm là não nhiệt, sáu là thọ quả ác, do đây nên gọi là chìm.
Cớ sao gọi là chìm? Vì không tâm lành mà thường làm việc ác, vì chẳng tu tập pháp đối trị, nên gọi là chìm.
Nói rằng ác là vì thánh nhân quở trách, vì tâm sợ sệt, vì xa lìa người lành, vì không lợi ích chúng sanh, nên gọi là ác.
Nói rằng vô thiện là vì có thể sanh vô lượng quả báo ác, vì thường bị vô minh buộc ràng, vì thích cùng người ác làm bạn, vì không tu tập những phương tiện lành, vì tâm họ điên đảo luôn sai lầm.
Nói rằng ô pháp là vì thân khẩu thường nhiễm ô, vì nhiễm ô chúng sanh thanh tịnh, vì thêm lớn nghiệp chẳng lành, vì xa lìa pháp lành, đây gọi là ô pháp.
Nói tăng hữu là ba người như trên thực hành những pháp ác, có thể thêm địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, chẳng thể tu tập pháp giải thoát, thân, khẩu, ý chẳng nhàm các cõi, đây gọi là tăng hữu.
Nói rằng não nhiệt là những người này, làm đủ bốn việc như trên có thể khiến thân tâm não nhiệt, xa lìa tịch tịnh thời gọi là nhiệt, bị quả báo địa ngục nên gọi là nhiệt, đốt cháy các chúng sanh nên gọi là nhiệt, đốt cháy các pháp lành nên gọi là nhiệt, người này chẳng có tín tâm mát mẻ nên gọi là nhiệt.
Nói rằng thọ lấy quả ác là người này làm đủ năm việc trên khi chết đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Có ba việc ác nên gọi là quả ác: một là phiền não ác, hai là nghiệp ác, ba là báo ác, đây gọi là thọ lấy quả báo ác. Người này có đủ sáu việc như trên thời có thể làm dứt mất căn lành tạo tội ngũ nghịch, phạm bốn tội trọng, hủy báng Tam Bảo, dùng của vật của chúng tăng, có thể làm những việc phi pháp, do đây nên chìm đắm ở trong địa ngục A Tỳ, thân hình rộng lớn tám muôn bốn ngàn do diên, vì người này nghiệp ác nơi thân, khẩu, ý quá nặng nên không thể ra khỏi được, vì tâm họ chẳng thể sanh pháp lành, dầu có vô lượng chư Phật ra đời cũng chẳng được nghe được thấy, đây gọi là thường chìm, như cá lớn sông Hằng.
Này thiện nam tử! Dầu ta nói nhất-xiển-đề gọi là thường chìm, nhưng lại có hạng thường chìm, mà chẳng phải nhất-xiển-đề: Như người vì cõi hữu lậu mà bố thí trì giới làm các việc lành, đây cũng gọi là thường chìm.
Này thiện nam tử! Có bốn việc lành mang lấy quả ác: một là vì hơn người mà đọc tụng kinh điển, hai là vì lợi dưỡng mà thọ trì cấm giới, ba là vì hệ thuộc người khác mà làm việc bố thí, bốn là vì cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng mà nhiếp niệm tư duy, đây là bốn điều lành được quả báo ác. Nếu người thực hành bốn việc như vậy thời gọi là chìm rồi lại nổi lên, nổi lên rồi lại chìm xuống. Vì ưa thích ba cõi hữu lậu nên gọi là chìm. Vì thấy ánh sáng tức là được nghe pháp trì giới, bố thí, thiền định đây gọi là nổi lên. Thêm lớn tà kiến sanh kiêu mạn nên gọi là lại chìm xuống. Do đây nên trong khế kinh ta nói kệ rằng:
Nếu có chúng sanh thích các cõi
Vì các cõi mà tạo nghiệp ác
Người này mê mất đạo Niết Bàn
Đây là tạm nổi lại chìm xuống.
Đi nơi biển sanh tử tối tăm
Dầu được giải thoát xen phiền não
Người này lại thọ quả báo ác
Đây là tạm ra lại chìm xuống
Này thiện nam tử! Như cá lớn kia do thấy ánh sáng tạm thời nổi lên khỏi nước, vì thân nặng nên lại chìm xuống, hai hạng người trên đây cũng lại như vậy.
Này thiện nam tử! Hoặc có người tham đắm ba cõi hữu lậu đây gọi là chìm. Được nghe kinh Đại Niết Bàn này mà sanh lòng tin, đây gọi là nổi lên. Duyên cớ gì gọi đó là nổi lên? Vì nghe kinh này rồi xa lìa pháp ác tu tập pháp lành, nên gọi là nổi lên. Người này dầu tin nhưng cũng chẳng đầy đủ. Duyên cớ gì tín tâm chẳng đầy đủ? Người này dầu tin Đại Niết Bàn thường lạc ngã tịnh, mà nói rằng thân Như Lai là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Đức Như Lai có hai thứ Niết bàn: một là hữu vi, hai là vô vi. Hữu vi Niết Bàn không có thường lạc ngã tịnh. Vô vi Niết Bàn có thường lạc ngã tịnh. Dầu tin Phật tánh là chúng sanh có, nhưng bất tất cả đều có. Do đây nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ.
Này thiện nam tử! Tín tâm có hai thứ: một là tin, hai là cầu. Người như trên đây dầu có tín tâm, nhưng chẳng thể suy cầu, nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ.
Tín tâm lại có hai thứ: một là từ nghe pháp mà sanh lòng tin, hai là từ tư duy mà sanh lòng tin. Tín tâm của người này do nghe pháp mà sanh chẳng phải do tư duy, nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ.
Tín tâm lại có hai thứ: một là tin có thánh đạo, hai là tin người đắc đạo. Người này dầu tin có thánh đạo, nhưng trọn chẳng tin có người đắc đạo, nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ.
Tín tâm lại có hai thứ: một là tin chánh, hai là tin tà. Nói rằng có nhân quả, có Phật, Pháp, Tăng, đây gọi là tin chánh. Nói rằng không nhân quả, tánh Tam Bảo khác nhau, tin theo những lời tà của ngoại đạo, đây gọi là tin tà. Người này dầu tin Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo nhưng chẳng tin tam bảo đồng một tánh tướng, dầu tin nhân quả nhưng chẳng tin người đắc quả, nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ.
Người này trọn nên tín tâm chẳng đầy đủ, thọ trì cấm giới cũng chẳng đầy đủ. Vì nhân chẳng đầy đủ nên chỗ được cấm giới cũng chẳng đầy đủ. Lại giới có hai thứ: một là oai nghi, hai là tùng giới. Người này dầu đầy đủ những giới về oai nghi nhưng chẳng đầy đủ những giới về tùng giới, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Giới lại có hai thứ: một là tác giới, hai là vô tác giới. Người này dầu có tác giới nhưng chẳng đủ vô tác giới, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Giới lại có hai thứ: một là từ thân khẩu mà được chánh mạng, hai là từ thân khẩu chẳng được chánh mạng. Người này dầu từ thân khẩu nhưng chẳng được chánh mạng, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Giới lại có hai thứ: một là cầu giới, hai là xả giới. Người này dầu đủ giới do cầu mà có nhưng chẳng được giới do xả mà có, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Giới lại có hai thứ: một là tùy hữu, hai là tùy đạo. Người này dầu đủ giới tùy hữu nhưng chẳng đủ giới tùy đạo, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Giới lại có hai thứ: một là thiện giới, hai là ác giới. Thân khẩu ý lành gọi là thiện giới. Ngưu giới, cẩu giới v.v… gọi là ác giới. Người này rất tin cả hai thứ giới đây đều có quả lành, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Người này chẳng đầy đủ hai điều: tín tâm và giới, nên chỗ tu tập đa văn cũng chẳng đầy đủ. Thế nào gọi là đa văn chẳng đầy đủ? Mười hai bộ kinh của đức Như Lai nói ra người này chỉ tin sáu bộ mà chẳng tin sáu bộ, nên gọi là đa văn chẳng đầy đủ. Người này dầu thọ trì sáu bộ kinh đây nhưng không thể đọc tụng cùng giảng giải cho người, không chỗ lợi ích, nên gọi là đa văn chẳng đầy đủ. Hoặc người này thọ trì sáu bộ kinh đây rồi mà vì luận nghị, vì hơn người, vì lợi dưỡng, vì các cõi hữu lậu mà đọc tụng giảng thuyết nên gọi là đa văn chẳng đầy đủ.
Này thiện nam tử! Ở trong khế kinh ta từng nói đa văn đầy đủ. Thế nào là đầy đủ? Nếu có Tỳ Kheo thân khầu ý đều lành, trước có thể cúng dường Hoà Thượng, chư Sư, những người có đức. Chư Sư này đối với người ấy sanh lòng thương mến, nên đem kinh pháp truyền dạy cho. Người này chí tâm thọ trì tụng tập, được trí huệ. Được trí huệ rồi có thể khéo tư duy thực hành đúng như pháp. Khéo tư duy rồi thời được chánh nghĩa. Được chánh nghĩa rồi thân tâm tịch tịnh. Thân tâm đã tịch tịnh thời sanh hỷ tâm. Do hỷ tâm mà được định. Do được định nên được chánh tri kiến. Được chánh tri kiến rồi sanh lòng ăn năn nhàm chán các cõi hữu lậu. Vì nhàm chán các cõi nên được giải thoát.
Người trên đây không có những việc như vậy nên gọi là đa văn chẳng đầy đủ.
Người này chẳng đầy đủ ba việc như vậy nên bố thí cũng chẳng đầy đủ.
Bố thí có hai thứ: một là tài thí, hai là pháp thí, người này dầu thực hành về tài thí nhưng vì cầu cõi hữu lậu, dầu thực hành pháp thí nhưng cũng chẳng đầy đủ, vì bí lẫn chẳng nói hết sợ người hơn mình, nên gọi là bố thí chẳng đầy đủ.
Hai thứ tài thí, pháp thí đều riêng có hai: một là thánh, hai là chẳng phải thánh. Thánh nhân bố thí rồi chẳng cầu quả báo. Người chẳng phải thánh bố thí rồi cầu quả báo. Thánh nhân bố thí pháp để làm cho pháp được tăng trưởng. Người chẳng phải thánh bố thí pháp để tăng trưởng các cõi hữu lậu.
Người này vì tăng trưởng của cải mà thực hành tài thí, vì tăng trưởng cõi hữu lậu mà thực hành pháp thí, nên gọi là bố thí chẳng đầy đủ.
Lại người này lãnh thọ sáu bộ kinh, thấy người thọ pháp thời cung cấp cho, gặp người chẳng thọ pháp thời chẳng cung cấp, nên gọi là bố thí chẳng đầy đủ.
Người này chẳng đủ bốn điều như trên nên chỗ tu trí huệ cũng chẳng đầy đủ. Tánh của trí huệ là hay phân biệt. Người này chẳng thể phân biệt Như Lai là thường hay vô thường. Trong kinh Đại Niết Bàn này đức Phật nói Như Lai chính là giải thoát, giải thoát chính là Như Lai, Như Lai là Niết Bàn, Niết Bàn là giải thoát. Trong những nghĩa đây người này chẳng thể phân biệt được.
Đức Phật lại nói phạm hạnh là Như Lai, Như Lai là từ, bi, hỷ, xả. Từ, bi, hỷ, xả là giải thoát, giải thoát là Niết Bàn, Niết Bàn là từ, bi, hỷ, xả. Trong những nghĩa đây, người này không phân biệt được, nên gọi là trí chẳng đầy đủ.
Người này lại chẳng phân biệt được Phật tánh, Phật tánh là Như Lai, Như Lai là tất cả pháp bất cộng, pháp bất cộng là giải thoát, giải thoát là Niết Bàn, Niết Bàn là pháp bất cộng. Người này lại chẳng phân biệt được bốn đế lý khổ, tập, diệt, đạo, vì không phân biệt được bốn đế lý nên chẳng biết thánh hạnh, vì chẳng biết thánh hạnh nên chẳng biết Như Lai, vì chẳng biết Như Lai nên chẳng biết giải thoát vì chẳng biết giải thoát nên chẳng biết Niết Bàn, do đây nên gọi là trí chẳng đầy đủ.
Người này chẳng có đủ năm điều như vậy, thời thêm lớn hai pháp: Một là thêm pháp lành, hai là thêm pháp ác.
Thế nào gọi là thêm lớn pháp ác? Người này chẳng biết rằng mình không đầy đủ, tự cho rằng đầy đủ mà sanh tâm tham trước, đối với người đồng hàng cho mình là hơn, do đây bèn gần gũi những bạn ác đồng với mình, đã gần gũi bạn ác rồi lại được nghe những pháp chẳng đầy đủ, sanh tâm vui mừng nhiễm trước, kiêu mạn phóng dật, do phóng dật mà gần gũi người tại gia, thích nghe nói những việc tại gia, xa lìa pháp xuất gia thanh tịnh, do đây nên thêm lớn pháp ác, vì đã thêm pháp ác nên thân khẩu ý gây nghiệp chẳng thanh tịnh, vì ba nghiệp chẳng thanh tịnh nên thêm lớn địa ngục súc sanh ngạ quỷ. Đây gọi là tạm nổi lên lại chìm xuống.
Trong Phật pháp của ta ai là kẻ tạm nổi lên lại chìm xuống? Chính là Đề Bà Đạt Đa, Cù Hòa Ly Tỳ Kheo, Uyển Thủ Tỳ Kheo, Thiện Tinh Tỳ Kheo, Kỳ Xá Tỳ Kheo, Mãn Tú Tỳ Kheo, Từ Địa Tỳ Kheo Ni, Khoáng Dã Tỳ Kheo Ni, Phương Tỳ Kheo Ni, Mạn Tỳ Kheo Ni, Tịnh Khiết trưởng giả, Cầu Hữu Ưu Bà Tắc, Kim Lặc Thích Chủng, Tượng trưởng giả, Danh Xưng Ưu Bà Di, Quang Minh Ưu Bà Di, Nan Đà Ưu Bà Di, Quân Ưu Bà Di, Linh Ưu Bà Di. Như cá lớn thấy ánh sáng nên nổi lên, vì thân nặng lại chìm xuống.
Thế nào gọi là thêm lớn pháp lành? Người này biết rõ mình công hạnh chẳng đầy đủ, vì tự biết chẳng đầy đủ nên cầu gần bạn lành, vì gần bạn lành nên thích nghe hỏi chỗ chưa được nghe, nghe rồi thích thọ trì, thọ rồi thích tư duy, khéo tư duy rồi có thể đúng như pháp, vì ở đúng như pháp nên thêm lớn pháp lành, vì thêm lớn pháp lành nên trọn chẳng còn chìm, đây gọi là nổi lên rồi ở lại.
Trong Phật pháp của ta ai là người nổi lên rồi ở lại? Chính là Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, A Nhã Kiều Trần Như v.v… Năm vị Tỳ Kheo Da Xá v.v… Năm mươi vị Tỳ Kheo, A Nâu Lâu Đà, Ma Ha Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp v.v… Ba vị Tỳ Kheo Thập Lực Ca Diếp, Sấu Cù Đàm Di Tỳ Kheo Ni, Ba Tra La Hoa Tỳ Kheo Ni, Thắng Tỳ Kheo Ni, Thiệt Nghĩa Tỳ Kheo Ni, Hải Ý Tỳ Kheo Ni, Bạt Đà Tỳ Kheo Ni, Tịnh Tỳ Kheo Ni, Bất Thối Chuyển Tỳ Kheo Ni, Tần Bà Ta La Vương, Úc Dà trưởng giả, Tu Đạt Đa trưởng giả, Thích Ma Ha Nam trưởng giả, Bần Tu Đạt Đa Thử Lang trưởng giả, Danh Xưng trưởng giả, Cụ Túc trưởng giả, Sư Tử tướng quân, Ưu Ba Ly trưởng giả, Đao trưởng giả, Vô Úy Ưu Bà Di, Thiện Trụ Ưu Bà Di, Ái Pháp Ưu Bà Di, Dũng Kiện Ưu Bà Di, Thiên Đắc Ưu Bà Di, Thiện Sanh Ưu Bà Di, Cụ Thân Ưu Bà Di, Ngưu Đắc Ưu Bà Di, Khoáng Dã Ưu Bà Di, Ma Na Tư Na Ưu Bà Di v.v…
Thế nào gọi là ở lại? Vì thường thích xem thấy ánh sáng pháp lành. Do nhân duyên này, hoặc Phật xuất thế, hoặc chẳng xuất thế, những người trên đây trọn chẳng tạo nghiệp ác nên gọi là ở lại. Như cá Kỳ Di thích thấy ánh sáng nên chẳng lặn chẳng chìm. Hạng tứ chúng trên đây cũng như vậy. Trong kinh ta từng nói kệ rằng:
Nếu người khéo phân biệt pháp nghĩa
Chí tâm cầu được quả Sa Môn
Quở trách tất cả cõi hữu lậu
Người này gọi là ở đúng pháp.
Nên hay cúng dường vô lượng Phật
Trong vô lượng đời tu thánh đạo
Hưởng thọ vui sướng chẳng phóng dật
Người này gọi là ở đúng pháp.
Gần gũi bạn lành nghe chánh pháp
Tâm khéo tư duy ở đúng pháp
Thích thấy ánh sáng tu thánh đạo
Chứng được giải thoát thường an ổn.
(Hán bộ quyển thứ 36)
Này thiện nam tử! Trí chẳng đầy đủ phàm có năm điều, người này biết rồi cầu gần bạn lành. Bạn lành này nên xem xét người trên đây nhiều tham dục hay nhiều sân khuể, ngu si, tư giác chấp ngã?
Nếu biết là nhiều tham dục thời nên dạy cho pháp quán bất tịnh; nhiều sân khuể dạy pháp quán từ bi; nhiều ngu si dạy pháp quán nhân duyên; nhiều tư giác dạy pháp quán sổ tức; nhiều chấp ngã nên dạy phân tích thập bát giới v.v…

Người này nghe rồi chí tâm thọ trì, thọ trì rồi tu hành đúng như pháp, thực hành đúng như pháp rồi lần lượt chứng được tứ niệm xứ quán thân thọ tâm pháp đặng pháp quán này rồi lại quán mười hai nhân duyên, quán rồi chứng được noãn pháp.

No comments:

Post a Comment