Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Như Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, như trong sữa có chất lạc. Kim cang lực sĩ, chư Phật. Phật tánh như đề-hồ trong sạch. Cớ sao đức Như Lai nói rằng Phật tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài?"
Phật nói: "Này thiện nam tử! Ta cũng chẳng nói rằng trong sữa có chất lạc. Vì chất lạc từ sữa sanh ra nên nói rằng có chất lạc."
- Thế Tôn! Tất cả sanh pháp đều có thời tiết.
- Này thiện nam tử! Lúc là sữa thời không có chất lạc, cũng không có các chất sanh tô, thục tô, đề-hồ. Tất cả chúng sanh cũng gọi đó là sữa. Vì thế nên ta nói rằng trong sữa không có chất lạc. Như trong sữa đồng thời có chất lạc, cớ sao chẳng đồng thời có hai thứ tên. Như người có hai nghề thời gọi rằng thợ vàng sắt. Lúc là chất lạc không có sữa cũng như không có sanh tô, thục tô và đề-hồ. Chúng sanh cũng gọi là chất lạc chẳng phải sữa, sanh tô, thục tô và đề-hồ.
Này thiện nam tử! Nhân có hai thứ: một là chánh nhân, hai là duyên nhân. Chánh nhân là như sữa sanh chất lạc. Duyên nhân là như ủ ấm. Vì từ sữa sanh nên gọi là trong sữa có tánh chất lạc.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Nếu sữa không tánh chất lạc, trong sừng bò cũng không có, cớ sao chẳng từ trong sừng bò mà sanh?"
- Này thiện nam tử! Sừng bò cũng sanh chất lạc. Vì ta nói rằng duyên nhân có hai thứ: một là ủ, hai là ấm. Tánh sừng bò là ấm nên cũng có thể làm duyên sanh chất lạc.
- Bạch Thế Tôn! Nếu sừng bò có thể sanh chất lạc, người tìm chất lạc cớ sao lại tìm nơi sữa mà chẳng dùng sừng.
- Này thiện nam tử! Do cớ đó nên nói có chánh nhân có duyên nhân.
- Thế Tôn! Nếu trong sữa vốn không tánh của chất lạc nay mới có, trong sữa vốn không tánh cây am-ma-la, cớ sao chẳng sanh cây am-ma-la, vì trong sữa cả hai tánh đều không.
- Này thiện nam tử! Sữa cũng có thể sanh cây am-ma-la, nếu dùng sữa tưới trong một đêm, cây am-ma-la cao thêm năm thước. Do nghĩa này nên ta nói có hai thứ nhân.
Này thiện nam tử! Nếu tất cả pháp chỉ có một nhân sanh ra thời mới có thể vấn nạn như lời của ông vừa hỏi.
Này thiện nam tử! Như tứ đại làm nhân duyên có ra tất cả sắc pháp. Nhưng sắc pháp mỗi mỗi riêng khác chẳng đồng nhau, do nghĩa này nên trong sữa chẳng sanh cây am-ma-la.
- Bạch Thế Tôn! Như Phật nói có hai nhân là chánh nhân và duyên nhân. Phật tánh của chúng sanh thuộc về nhân nào?
- Này thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh cũng hai thứ nhân: một là chánh nhân, hai là nhân duyên. Chánh nhân đó chính là các chúng sanh. Duyên nhân đó chính là sáu môn ba-la-mật.
- Bạch Thế Tôn! Nay tôi quyết định biết rằng trong sữa có tánh của chất lạc. Vì tôi thấy trong đời những người tìm chất lạc chỉ lấy ở trong sữa mà trọn chẳng lấy trong những vật khác. Do đây nên biết rằng trong sữa có tánh của chất lạc.
- Này thiện nam tử! Như lời của ông hỏi, theo nghĩa thời chẳng đúng. Ví như có người muốn soi thấy hình bóng của mặt mình bèn lấy con dao sáng.
- Bạch Thế Tôn! Do nghĩa này nên trong sữa có tánh của chất lạc, vì nếu trong dao không có hình bóng của gương mặt, cớ gì lại lấy dao.
- Này thiện nam tử! Nếu trong con dao này quyết định có hình bóng của gương mặt, cớ sao lại điên đảo: dựng đứng thời thấy hình dài, cầm ngang thời thấy bóng rộng. Nếu là mặt của mình cớ sao lại thấy dài? Nếu là mặt người khác thời đâu được gọi rằng là hình bóng của mặt mình. Nếu nhân mặt mình mà thấy mặt người khác, cớ sao chẳng thấy bóng mặt của lừa của ngựa?
- Bạch Thế Tôn! Nhãn quang đến nơi kia nên thấy bóng mặt.
- Này thiện nam tử! Thật ra nhãn quang này chẳng đến nơi kia, vì xa gần đồng một thời đều được thấy cả, vì chẳng thấy những vật ở chặn giữa vậy.
Nhãn quang nếu đến nơi kia mà được thấy, thời tất cả chúng sanh đều thấy lửa cớ sao chẳng bị cháy? Như người thấy vật trắng ở xa thời chẳng nên nghi rằng đó là chim hạc? Là phan? Là người? Là cây? Nếu nhãn quang đến nơi kia thế nào thấy được vật ở trong bình thủy tinh, cá cùng đá ở dưới vực sâu. Nếu nhãn quang chẳng đến mà thấy, cớ sao thấy được vật trong bình thủy tinh, mà chẳng thấy được vật ở ngoài vách. Do lẽ này nên nếu nói rằng nhãn quang đến nơi kia mà được thấy đó là không đúng.
Này thiện nam tử! Như ông vừa nói trong sữa có tánh của chất lạc, cớ sao người bán sữa chỉ lấy giá tiền sữa mà chẳng đòi tiền chất lạc. Người bán ngựa cái cớ sao chỉ lấy tiền ngựa mà chẳng đòi tiền ngựa con.
Này thiện nam tử! Người đời vì không con cái nên cầu cưới vợ. Vợ nếu có thai nghén thời chẳng được gọi là con gái. Nếu nói là con gái có tánh của con cái nên phải cưới hỏi, thời không đúng. Vì nếu có tánh của con cái lẽ ra cũng phải có tánh của cháu. Nếu có tánh của cháu thời thành ra anh em, vì đồng một bụng sanh ra vậy. Do đây nên ta nói rằng nơi người con gái không có tánh của con cái.
Nếu trong sữa kia có tánh của chất lạc, cớ sao chẳng thấy cả năm vị đồng một thời. Nếu trong hột cây có tánh chất của cây ni-câu-đà cao năm trượng, cớ sao chẳng thấy mộng cây nhánh lá bông trái hình sắc sai khác của cây đồng một thời.
Này thiện nam tử! Lúc là sữa thời màu khác, vị khác công dụng khác, nhẫn đến đề-hồ cũng lại như vậy. Làm sao có thể nói được rằng trong sữa có tánh của chất lạc.
Này thiện nam tử! Như có người sáng ngày sẽ uống chất tô, giờ đây đã sợ hôi. Nếu nói rằng quyết định trong sữa có tánh của chất lạc thời cũng như vậy.
Ví như có người dùng viết giấy mực hòa hiệp thành chữ, mà trong giấy này vốn không có chữ, vì vốn không có nên nhờ duyên mà thành có, nếu vốn đã có thời cần gì đến các duyên.
Như xanh vàng hiệp thành màu lục, nên biết hai màu này vốn không có tánh của màu lục, nếu vốn đã có cần gì phải hiệp lại mới thành.
Như chúng sanh do ăn mà được sống. Nhưng trong vật thực này thiệt không có mạng sống. Nếu vốn đã có mạng sống, thời lúc chưa ăn lẽ ra vật thực này là mạng sống.
Này thiện nam tử! Tất cả các pháp vốn không có tánh, do nghĩa này nên ta nói kệ rằng:
Trước không nay có
Trước có nay không
Ba đời có pháp
Không có lẽ đó.
Này thiện nam tử! Tất cả pháp do nhân duyên mà sanh cũng do nhân duyên mà diệt.
Nếu chúng sanh có Phật tánh, thời tất cả chúng sanh lẽ ra có thân Phật như ta hôm nay.
Phật tánh của chúng sanh chẳng hư, chẳng hoại, chẳng bị kéo, bị bắt, chẳng bị trói, bị buộc. Như trong chúng sanh có hư không, vì tất cả chúng sanh đều có hư không chẳng chướng ngại, chúng sanh đều chẳng tự thấy mình có hư không này. Giả sử nếu chúng sanh chẳng có hư không, thời không có những sự đến đi đứng ngồi nằm, chẳng sống chẳng lớn. Do nghĩa này nên trong kinh ta nói tất cả chúng sanh đều có hư không giới, hư không giới đây gọi là hư không. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy. Bậc thập trụ Bồ Tát thấy được phần ít như châu kim cương.
Này thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh là cảnh giới của chư Phật, chẳng phải là hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết được. Tất cả chúng sanh vì chẳng thấy Phật tánh nên thường bị phiền não trói buộc mà phải lưu chuyển trong sanh tử. Chư Phật vì thấy Phật tánh nên phiền não kiết sử chẳng trói buộc được, do đây giải thoát sanh tử đặng Đại Niết Bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Tất cả chúng sanh có tánh của Phật tánh như tánh chất lạc trong sữa. Nếu sữa không tánh chất lạc, tại sao Phật nói có hai thứ nhân: chánh nhân và duyên nhân. Duyên nhân có hai: ủ và ấm. Hư không vì là không tánh nên không có duyên nhân."
- Này thiện nam tử! Giả sử trong sữa quyết định có tánh chất lạc, cần gì đến duyên nhân?
- Bạch Thế Tôn! Vì có tánh nên phải cần duyên nhân. Vì muốn thấy rõ vậy. Duyên nhân đó chính là liễu nhân. Như trong nhà tối đã trước có những đồ vật, vì muốn thấy rõ nên dùng đèn soi sáng. Nếu vốn không đồ vật thời đèn soi sáng những gì? Như trong đất sét có bình, nên cần nhân công, nước, vòng dây, dây v.v… mà làm liễu nhân. Như hột ni-câu-đà cần đến đất, nước, phân mà làm liễu nhân. Trong sữa cũng như vậy, phải nhờ ủ ấm làm liễu nhân. Vì thế nên dầu trước đã có tánh phải nhờ liễu nhân rồi sau mới được thấy. Do nghĩa này nên quyết định biết trong sữa đã trước có tánh của chất lạc.
- Này thiện nam tử! Giả sử nếu trong sữa quyết định có tánh của chất lạc thời tánh này chính là liễu nhân. Nếu đã có liễu nhân lại cần gì dùng liễu.
Này thiện nam tử! Nếu liễu nhân đây tánh nó là liễu thời lẽ ra phải thường tự liễu. Nếu chẳng tự liễu thời đâu có thể liễu cái khác.
Nếu nói liễu nhân có hai thứ tánh: một là tự liễu, hai là liễu tha, thời không đúng nghĩa. Vì một pháp liễu nhân làm sao lại có hai thứ tánh? Nếu có hai tánh thời sữa lẽ ra cũng có hai thứ. Giả sử trong sữa không có hai thứ, tại sao liễu nhân lại riêng có hai tánh?
- Bạch Thế Tôn! Như người đời nói rằng chúng tôi cộng có tám người: liễu nhân cũng như vậy: tự liễu và liễu tha.
- Này thiện nam tử! Liễu nhân nếu như vậy thời chẳng phải là liễu nhân, vì là số, có thể đếm, sắc của mình sắc của người nên được nói là tám, mà sắc tánh này tự nó không có liễu tướng, vì không liễu tướng, phải nhờ trí tánh mới đếm được tự và tha. Do đây nên liễu nhân chẳng thể tự liễu cũng chẳng thể được tha.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh đã có Phật tánh cớ gì lại phải tu tập vô lượng công đức? Nếu nói tu tập là liễu nhân thời đã đồng hư hoại như chất lạc.
Nếu nói trong nhân quyết định có quả thời giới định huệ lẽ ra không tăng trưởng. Nhưng người đời trước kia không giới, định, huệ, theo sư trưởng học tập thời lần lần được có giới, định, huệ. Nếu cho rằng sư trưởng dạy dỗ là liễu nhân, chính lúc dạy dỗ thời chưa có giới, định, huệ, nếu là liễu đó, lẽ ra là liễu thứ chưa có, sao lại gọi rằng liễu giới, định, huệ làm cho được tăng trưởng.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Nếu liễu nhân là không, sao lại được gọi là có sữa có lạc?"
- Này thiện nam tử! Sự đáp mạn của thế gian có ba: Một là chuyển đáp, như trước kia nói cớ gì gọi là giới? Do vì chẳng ăn năn nhẫn đến vì được Đại Niết Bàn; hai là nín lặng mà đáp, như có Phạm Chí đến hỏi ta rằng: Ngã là thường ư? Lúc đó ta nín lặng. Ba là nghi đáp, như trong kinh đây nói: Nếu liễu nhân có hai tánh cớ gì trong sữa chẳng được có hai thứ?
Này thiện nam tử! Nay ta chuyển đáp, như người đời nói rằng có sữa có lạc, vì quyết định được, nên được gọi rằng sữa có lạc. Phật tánh cũng như vậy có chúng sanh có Phật tánh do vì sẽ được thấy.
- Bạch Thế Tôn! Như lời Phật vừa nói không được đúng nghĩa. Quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến thế nào gọi là có? Nếu cho rằng sẽ có mà gọi là có đó, thời không đúng. Như người đời thấy không con cái bèn nói không con. Tất cả chúng sanh không có Phật tánh, tại sao nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
- Này thiện nam tử! Quá khứ gọi rằng có. Ví như trồng quít mộng mọc lên thời hột hư mất. Từ mộng lên cây nhánh lá nhẫn đến kết trái, lúc trái chín bèn có vị ngọt.
Này thiện nam tử! Vị ngọt này đều không từ nơi hột, mộng, cây, nhánh, bông v.v…, lúc trái chín thời sanh vị ngọt, vị ngọt này trước không nay có. Dầu trước không nay có mà chẳng phải là chẳng do nơi hột lúc trước. Thế nên hột lúc trước dầu đã quá khứ nhưng được gọi là có. Do nghĩa này nên quá khứ gọi rằng có.
Thế nào lại gọi rằng vị lai là có? Ví như có người gieo trồng cây mè. Có kẻ hỏi cớ gì trồng thứ này? - Đáp rằng vì có dầu.
Thiệt ra thời chưa có dầu, khi cây mè đã già lấy hột hấp xôi dã, ép rồi sau mới có dầu chảy ra. Nên biết rằng người này trả lời như vậy chẳng phải là hư vọng. Do nghĩa này nên gọi rằng vị lai có.
Lại thế nào gọi rằng quá khứ có ư? Ví như có người lén mắng nhà vua trải qua nhiều năm. Lúc sau vua nghe được đòi đến hỏi cớ sao mắng ta? - Tâu Đại Vương! Tôi chẳng mắng, vì người mắng đó đã mất. - Vua bảo: Kẻ mắng cùng thân ta cả hai đều còn tại sao lại nói rằng mất? Người kia không trả lời được nên phải bị tội chết.
Này thiện nam tử! Hai tánh ấy thiệt không mà quả chẳng mất, đây gọi là quá khứ có.
Thế nào lại gọi rằng vị lai có? Như có người đến nhà thợ gốm hỏi có bình không? Đáp rằng có. Thiệt ra thợ gốm này chưa có bình, vì có đất sét nên đáp rằng có bình, phải biết rằng thợ gốm này chẳng phải vọng ngữ. Trong sữa có chất lạc, chúng sanh có Phật tánh cũng như vậy, muốn thấy Phật tánh phải nên quan sát thời tiết hình sắc. Do đây nên ta nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh thiệt chẳng hư vọng.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Tất cả chúng sanh không có Phật tánh làm sao mà được vô thượng Bồ Đề?"
- Do chánh nhân nên khiến chúng sanh được vô thượng Bồ Đề. Gì là chánh nhân? Chính là Phật tánh.
- Bạch Thế Tôn! Nếu hột ni-câu-đà không có cây ni-câu-đà, tại sao gọi là hột ni-câu-đà mà chẳng gọi là hột khư-đà-la?
Bạch Thế Tôn! Như họ Cù Đàm chẳng được gọi là họ A Kỳ Da. Họ A Kỳ Da lại cũng chẳng được gọi là họ Cù Đàm. Hột ni-câu-đà chẳng được gọi là hột khư-đà-la, còn hột khư-đà-la cũng chẳng được gọi là hột ni-câu-đà. Cũng như đức Thế Tôn chẳng được bỏ lìa họ Cù Đàm. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy. Do nghĩa này nên biết rằng chúng sanh đều có Phật tánh.
Phật bảo: "Này thiện nam tử! Nếu nói rằng trong hột có cây ni-câu-đà thời không đúng vì nếu là có cớ sao chẳng thấy?
Này thiện nam tử! Như những vật trong đời vì có nhân duyên nên chẳng thấy được. Ở xa chẳng thấy được như dấu chim bay giữa hư không. Vì gần nên chẳng thấy được: như lông nheo rớt vào mắt. Vì hư hoại nên chẳng thấy như ngũ căn đã hư. Vì loạn tưởng nên chẳng thấy như tâm chẳng chuyên nhất. Vì nhỏ nên chẳng thấy như vi trần. Vì bị che nên chẳng thấy như tinh tú bị mây phủ. Vì nhiều nên chẳng thấy như hột mè trên đống lúa. Vì tương tự nên chẳng thấy như hột đậu trong đống đậu. Cây ni-câu-đà chẳng đồng tám thứ nhân duyên như vậy, nếu nó là có tại sao chẳng thấy? Nếu cho rằng vì nhỏ bị che nên chẳng thấy thời không đúng, vì tướng cây to thô. Nếu cho rằng tánh vi tế thời thế nào lại thành cây lớn. Nếu cho rằng bị che ngăn thời lẽ ra luôn luôn chẳng được thấy. Cây trước kia không có tướng thô to, nay thời thấy cây to, nên biết rằng tướng to này vốn không có tánh. Trước kia không có tánh thấy nay thời thấy được, nên biết rằng sự thấy này cũng vốn không có tánh. Hột cũng như vậy: trước không có cây nay thời có đó, như thế có lỗi gì?"
- Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói có hai thứ nhân: chánh nhân và liễu nhân. Hột ni-câu-đà do đất, nước, phân làm liễu nhân khiến nhỏ được thành to.
- Này thiện nam tử! Nếu trước đã có thời cần gì đến liễu nhân? Nếu trước là không thời liễu nhân là liễu cái gì. Nếu trong hột ni-câu-đà vốn không có tướng to, do liễu nhân bèn sanh to, cớ sao chẳng sanh cây khư-đà-la, vì rằng hai thứ đều là không cả.
Này thiện nam tử! Nếu như nhỏ chẳng thấy được, thời lẽ ra to có thể thấy. Như hột vi trần thời chẳng thấy được, nhiều vi trần hòa hiệp thời thấy được. Trong hột lẽ ra cũng như vậy, to thời có thể thấy, vì trong đó đã có mộng cây bông trái, trong mỗi mỗi trái có vô lượng hột, trong mỗi mỗi hột có vô lượng cây cho nên gọi là thô, vì là thô nên lẽ ra có thể thấy.
Nếu hột ni-câu-đà có tánh cây ni-câu-đà mà mọc lên cây, con mắt thấy hột này bị lửa đốt cháy thời lẽ ra tánh đốt cháy này cũng là đã có trước. Nếu tánh cháy vốn đã có thời lẽ ra cây chẳng mọc lên. Nếu tất cả pháp vốn đã có sanh diệt, cớ sao trước sanh rồi sau diệt mà chẳng đồng một thời ư? Do nghĩa này nên biết là không có tánh.
- Bạch Thế Tôn! Nếu hột ni-câu-đà vốn không tánh cây mà sanh ra cây, thời hột này cớ gì chẳng sanh ra dầu, vì cả hai tánh đều là không cả?
- Này thiện nam tử! Hột ấy cũng có thể sanh ra dầu, dầu vốn không có tánh dầu, nhưng do nhân duyên mà có.
- Bạch Thế Tôn! Cớ sao không gọi là dầu mè ư?
- Này thiện nam tử! Vì chẳng phải là mè.
Như duyên lửa sanh ra lửa, duyên nước sanh ra nước. Dầu hai thứ lửa và nước đều từ nơi duyên, nhưng chẳng thể có lẫn nhau được. Hột ni-câu-đà và dầu mè cũng như vậy, tuy cả hai đều từ nơi duyên mà đều chẳng sanh lẫn nhau.
Tánh chất hột ni-câu-đà hay trị bệnh hàn hãnh. Tánh chất của dầu mè hay trị được bệnh phong.
Như cây mía, do nhân duyên mà thành các thứ đường: đường phèn, đường đen. Dầu cả hai thứ đường đều từ nơi chất mía, nhưng sắc tướng khác nhau, đường phèn trị bệnh nhiệt, đường đen trị hàn lãnh.
- Bạch Thế Tôn! Như trong sữa không tánh lạc, trong mè không tánh dầu, trong hột ni-câu-đà không tánh cây, trong đất sét không tánh bình, tất cả chúng sanh không tánh Phật, cứ theo đây thời như trước kia đức Phật nói: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh vì thế nên được vô thượng Bồ Đề. Nghĩa này xét ra không được đúng, vì trời và người đều vô tánh. Vì vô tánh nên người có thể sanh làm trời, trời có thể sanh làm người. Đều là do nhân duyên của nghiệp không phải do nơi tánh.
Đại Bồ Tát do nhân duyên của nghiệp nên được vô thượng Bồ Đề.
Nếu các chúng sanh có Phật tánh thời do nhân duyên gì mà nhất-xiển-đề dứt căn lành phải đọa địa ngục? Nếu bồ đề tâm là Phật tánh, thời nhất-xiển-đề lẽ ra chẳng dứt. Nếu là có thể dứt được, sao lại được nói rằng Phật tánh là thường? Còn nếu chẳng phải là thường thời không gọi là Phật tánh.
Nếu chúng sanh có Phật tánh, cớ sao gọi là sơ phát tâm ư? Tại sao lại gọi là bậc thối chuyển, bậc bất thối chuyển? Nếu là bậc thối chuyển thời nên biết rằng người này không có Phật tánh.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nhất tâm hương đến vô thượng Bồ Đề, đại từ đại bi, thấy tội lỗi của phiền não sanh tử. Quan sát Đại Niết Bàn không có các lỗi sanh tử phiền não. Tin ngôi Tam Bảo và nghiệp nhân quả báo, thọ trì giới cấm. Những tâm hạnh như vậy gọi là Phật tánh.
Nếu rời lìa nhưng tâm hạnh này mà có Phật tánh, thời cần gì dùng những tâm hạnh này để làm nhân duyên.
Bạch Thế Tôn! Như sữa chẳng nhờ duyên tất sẽ thành lạc, nhưng thành tô thời phải chờ đủ duyên: nhân công, nước, bình, dây, khấy.
Cũng vậy, những chúng sanh có Phật tánh lẽ ra không cân nhân duyên cũng được vô thượng Bồ Đề.
Nếu là quyết định có Phật tánh, cớ sao người tu hành thấy sự khổ của ba ác đạo, sanh già, bệnh, chết mà thối tâm? Nếu quyết định có Phật tánh, cũng chẳng cần tu sáu môn ba-la-mật, lẽ ra được vô thượng Bồ Đề, như sữa chẳng cần duyên mà thành lạc. Nhưng thật ra phải nhờ tu sáu môn ba-la-mật mới được vô thượng Bồ Đề.
Do những nghĩa này nên biết rằng chúng sanh đều không có Phật tánh.
Như trước kia đức Phật nói Tăng Bảo là thường trụ. Đã là thường thời tất chẳng phải là vô thường. Đã chẳng phải vô thường, tại sao Tăng Bảo được thành vô thượng Bồ Đề.
Tăng nếu là thường, sao lại nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh?
Bạch Thế Tôn! Giả sử nếu chúng sanh từ trước đến nay không tâm Bồ Đề, cũng không tâm vô thượng Bồ Đề, về sau mới có, thời Phật tánh của chúng sanh cũng lẽ ra trước không, sau mới có.
Do nghĩa trên đây nên tất cả chúng sanh lẽ ra không có Phật tánh.
Phật nói: "Lành thay! Lành thay! Ông từ lâu đã biết rõ nghĩa Phật tánh. Nay ông vì chúng sanh mà thỉnh hỏi như vậy.
Tất cả chúng sanh thiệt có Phật tánh.
Này thiện nam tử! Ông nói rằng nếu chúng sanh có Phật tánh lẽ ra chẳng nên có người sơ phát tâm. Phải biết rằng tâm không phải là Phật tánh, vì tâm vốn vô thường, còn Phật tánh là thường.
Ông nói cớ sao có người thối tâm. Thật ra không có thối tâm. Nếu tâm có thối thời tất là trọn chẳng thể được vô thượng Bồ Đề, vì được chậm nên gọi đó là thối.
Tâm Bồ Đề này thiệt chẳng phải là Phật tánh, vì nhất-xiển-đề dứt căn lành đọa địa ngục.
Nếu tâm Bồ Đề là Phật tánh thời hạng nhất-xiển-đề, chẳng được gọi là nhất-xiển-đề. Tâm Bồ Đề cũng chẳng được gọi là vô thường. Do đây nên biết rằng tâm Bồ Đề thiệt chẳng phải là Phật tánh.
Này thiện nam tử! Ông nói nếu chúng sanh có Phật tánh thời lẽ ra chẳng cần nhờ nhân duyên mới được vô thượng Bồ Đề, như sữa thành lạc. Lời này không đúng nghĩa. Vì ông đã nói phải có năm duyên mới thành sanh tô, nên biết rằng Phật tánh cũng như vậy.
Như trong các thứ đá có vàng, có bạc, có đồng, có sắt. Bốn thứ đá đều bẩm thọ chất tứ đại, đồng tên là đá, đồng là vật có thiệt, nhưng mỗi thứ đá sản xuất mỗi chất không đồng nhau, phải cần nhờ đủ các duyên mới sản xuất ra chất vàng, bạc, đồng, sắt. Do đây nên biết rằng trước vốn không có, chờ đủ duyên mà sau mới có.
Phật tánh của chúng sanh chẳng gọi là Phật. Phải do công đức được thấy Phật tánh, rồi sau chúng sanh mới thành Phật.
Ông nói chúng sanh đều có Phật tánh tại sao lại không thấy. Lời này không đúng nghĩa. Vì các duyên công đức chưa đầy đủ nên không được thấy.
Do nghĩa này nên ta nói có hai nhân: chánh nhân và duyên nhân.
Chánh nhân gọi là Phật tánh, duyên nhân là phát tâm Bồ Đề. Do hai nhân duyên này mà được vô thượng Bồ Đề, như đủ duyên thời sản xuất vàng.
Ông nói Tăng Bảo thường trụ thời lẽ ra chúng sanh không có Phật tánh đó. Phải biết rằng Tăng gọi là hòa hiệp. Hòa hiệp này có hai: thế gian hòa hiệp và đệ nhất nghĩa hòa hiệp.
Thế hòa hiệp gọi là Thanh Văn Tăng. Nghĩa hòa hiệp gọi là Bồ Tát Tăng.
Thế Tăng là vô thường. Phật tánh là thường trụ. Như Phật tánh, nghĩa Tăng cũng là thường trụ.
Lại có Tăng gọi là pháp hòa hiệp, chính là nói mười hai bộ kinh. Mười hai bộ kinh là thường, nên ta nói Pháp và Tăng là thường trụ.
Này thiện nam tử! Tăng gọi là hòa hiệp. Hòa hiệp đây chính là nói mười hai nhân duyên. Trong mười hai nhân duyên cũng có Phật tánh. Mười hai nhân duyên là thường, Phật tánh cũng vậy. Do đây nên Ta nói Tăng có Phật tánh.
Ông nói: nếu chúng sanh có Phật tánh, tại sao có kẻ thối, người không thối?
Này thiện nam tử! Lóng nghe! Lóng nghe! Ta sẽ phân biệt giải thuyết cho.
Có mười ba điều làm cho Bồ Tát thối chuyển đạo vô thượng Bồ Đề: một là tâm chẳng tin; hai là tâm chẳng cố làm; ba là tâm nghi; bốn là tham tiếc thân mạng và của cải; năm là có quan niệm quá sợ sệt đối với Niết Bàn: "Thế nào làm cho chúng sanh diệt độ hẳn?"; sáu là tâm chẳng kham nhẫn; bảy là tâm chẳng điều nhu; tám là sầu não; chín là chẳng thích vui; mười là phóng dật; mười một là tự khinh thân mình; mười hai là tự thấy phiền não không thể phá; mười ba là không thích những pháp môn tiến đến Bồ Đề.
Trên đây là mười ba điều làm cho Bồ Tát thối chuyển đạo Bồ Đề vô thượng.
Lại có sáu điều làm hư tâm Bồ Đề: Một là bỏn xẻn pháp; hai là có tâm chẳng lành đối với chúng sanh; ba là gần gũi bạn ác; bốn là chẳng siêng năng tin tiến; năm là quá tự kiêu mạn; sáu là kinh doanh nghề nghiệp thế gian.
Này thiện nam tử! Có người được nghe chư Phật là bậc thầy của cõi Trời và nhân gian, là đấng tối thượng trong tất cả chúng sanh, hơn tất cả hàng Thanh Văn Duyên Giác, là bậc có pháp nhãn sáng suốt thấy rõ tất cả pháp, có thể đưa chúng sanh qua khỏi biển khổ lớn. Nghe như vậy rồi, người này phát nguyện lớn: Nếu trong đời có đấng vô thượng như vậy, tôi cũng sẽ được. Do đây nên người này phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Hoặc có người nhờ người khác khuyên dạy mà phát tâm Bồ Đề.
Hoặc có người nghe nói Bồ Tát trải qua vô số kiếp thực hành những khổ hạnh rồi sau mới được vô thượng Bồ Đề. Nghe rồi tự nghĩ rằng: nay tôi không thể kham nổi những khổ hạnh như vậy, thời làm sao được vô thượng Bồ Đề. Do đây nên có thối tâm.
Lại còn có năm điều thối tâm Bồ Đề: một là thích xuất gia theo ngoại đạo; hai là chẳng tu tâm đại từ; ba là ưa tìm lỗi pháp sư; bốn là thường thích ở trong vòng sanh tử; năm là không thích thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh.
Lại cũng có hai pháp làm thối tâm Bồ Đề: một là tham ưa ngũ dục; hai là chẳng thể cung kính tôn trọng ngôi Tam Bảo.
Này thiện nam tử! Do những nhân duyên như vậy làm cho Bồ Tát thối tâm Bồ Đề.
Thế nào lại gọi là tâm bất thối? Có người nghe rằng đức Phật có thể độ chúng sanh khỏi sanh, lão, bệnh, tử. Là đấng chẳng học với thầy, tự tu tập được vô thượng Bồ Đề. Nếu đạo bồ đề là quả có thể được, tôi cũng tu tập quyết được quả ấy. Do đây nên người này phát tâm Bồ Đề. Bao nhiêu công đức tu tập không luận nhiều ít đều hồi hướng cả về vô thượng Bồ Đề.
Người này thệ nguyện thường được gặp Phật cùng đệ tử Phật, thường được nghe pháp đại thừa thâm diệu, nhãn nhĩ tỷ thiệt thân cả năm căn đều hoàn cụ, nếu gặp cảnh khổ nạn cũng quyết không mất tâm Bồ Đề này.
Lại nguyện rằng: mong chư Phật, chư Bồ Tát luôn có lòng hoan hỷ đối với tôi, nguyện tôi đủ năm căn lành. Nếu có chúng sanh nào chặt chém đánh đập giết hại tôi, đối với kẻ này, tôi khởi lòng đại từ, lòng vui mừng, vì nhờ họ mà tôi được thêm lớn công hạnh bồ đề. Nếu không có họ, tôi làm sao được quả vô thượng Bồ Đề.
Lại nguyên rằng: đời đời tôi được khỏi những thân nữ, thân hai căn, không căn; không bị làm nô lệ; không gặp chủ hung ác; không thuộc dưới quyền vua chúa ác; chẳng sanh nào nước ác.
Nếu được thân xinh tốt, dòng họ cao sang, giàu có, nguyện tôi không có lòng kiêu mạn.
Nguyện tôi thường được nghe mười hai bộ kinh và thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải thuyết. Lúc tôi giải thuyết cho chúng sanh, nguyện cho thính giả đều kính tin không nghi, chẳng sanh ác tâm đối với tôi.
Nguyện cho tôi thà nghe pháp ít mà hiểu được nhiều nghĩa vị, chẳng muốn nghe nhiều mà chẳng rõ nghĩa lý.
Nguyện là thầy của tâm mình, chớ chẳng bị tâm sai sử. Thân, khẩu, ý, ba nghiệp chẳng giao tiếp với kẻ ác, điều ác. Có thể làm cho tất cả chúng sanh được an lạc. Giới hạnh nơi thân cũng như trí huệ nơi tâm đều vững chắc như núi không bị lay động. Vì muốn thọ trì chánh pháp vô thượng nên chẳng lẫn tiếc thân mạng và tài sản. Chẳng đem vật bất tịnh làm phước nghiệp. Tâm không tà vạy, tự sống với chánh mạng. Nếu thọ ơn thời nhớ mãi, trả nhiều hơn thọ. Biết rành những sự nghiệp thế gian; hiểu rành ngôn ngữ của các địa phương, của mọi loài chúng sanh.
Đọc tụng biên chép mười hai bộ kinh không hề nhàm mỏi biếng lười.
Nếu có chúng sanh không thích nghe kinh, thời tôi tìm phương tiện tiếp dẫn cho họ ưa nghe kinh.
Tôi thường nói lời diệu hòa, miệng không tuyên điều xấu ác.
Chúng bất hòa, tôi làm cho họ hòa hiệp.
Người lo sợ, tôi làm cho họ được vững lòng.
Thời kỳ đói kém, tôi làm cho mọi người được no đủ. Đời tật bệnh thời tôi sẽ làm vị đại lương y tự có đủ tài bảo cũng như thuốc men, làm cho người bệnh đều được lành mạnh.
Kiếp binh đao, tôi sẽ có thế lực lớn trừ dứt hết sự tương tàn tương hại.
Tôi sẽ làm cho chúng sanh khỏi các điều kinh sợ như bị giết, bị bắt, giam nhốt, đánh đập, những nạn về nước lụt, hỏa hoạn, nạn vua chúa, nạn giặc cướp, sự nghèo khốn, phá giới, danh xấu, ác đạo.
Với cha mẹ, sư trưởng, tôi rất kính mến, với kẻ thù nghịch, tôi khởi lòng từ.
Tôi thường tu tập sáu chánh niệm, môn không tam muội, mười hai nhân duyên, quán sanh diệt vô thường, sổ tức, Thiên hạnh, Phạm hạnh, Thánh hạnh, kim cang tam muội, thủ-lăng-nghiêm định.
Nơi không có ngôi Tam Bảo, nguyện tôi được tâm tịch tịnh.
Nếu lúc thân tôi bị phải sự rất khổ, nguyện không hư mất tâm Bồ Đề vô thượng. Chẳng sanh lòng tri túc đối với Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Chỗ không ngôi Tam Bảo tôi thường xuất gia trong hàng ngoại đạo để phá tà kiến của họ, đặng pháp tự tại, đặng tâm tự tại, nơi pháp hữu vi thấy rõ sự lỗi lầm.
Nguyện tôi sợ sệt đạo quả nhị thừa như người tiếc thân sợ chết.
Nguyện tôi vì chúng sanh nên thích ở trong ba ác đạo như chúng sanh thích ở cõi trời Đạo Lợi.
Nguyện tôi vì mỗi mỗi chúng sanh mà chịu khổ địa ngục trong vô lượng kiếp chẳng sanh lòng hối hận.
Nguyện tôi thấy người khác được lợi ích chẳng sanh lòng ganh ghét, thường có lòng tùy hỷ như chính mình được.
Nếu gặp ngôi Tam Bảo, nguyện tôi sẽ đem y phục, đồ uống ăn, thuốc men, đồ nằm, nhà cửa, đèn sáng, hoa hương, kỹ nhạc, phan lọng, bảy báu cúng dường.
Nếu thọ giới pháp của Phật nguyện tôi giữ gìn bền chắc trọn chẳng sanh lòng hủy phạm. Nếu nghe khổ hạnh khó làm của Bồ Tát, trong lòng vui mừng chẳng hối hận. Tự biết những việc đời trước trọn chẳng gây nghiệp tham, sân, si. Chẳng vì quả báo mà chứa nhóm nghiệp nhân. Đối với sự vui hiện tại chẳng sanh lòng tham đắm.
Này thiện nam tử! Nếu có người phát được những nguyện như vậy thời gọi là Bồ Tát trọn chẳng thối thất tâm Bồ Đề, cũng gọi là thí chủ, có thể thấy đức Như Lai, thấy rõ Phật tánh, có thể điều phục chúng sanh độ khỏi sanh tử, có thể hộ trì chánh pháp vô thượng, có thể được đầy đủ sáu môn ba-la-mật.
Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên tâm bất thối chẳng gọi là Phật tánh!
(Hán bộ quyển thứ 29)
Này thiện nam tử! Ông chẳng nên vì tâm có thối chuyển mà cho rằng các chúng sanh không có Phật tánh. Thí như có hai người đều nghe phương khác có núi thất bảo, trong núi có suối nước trong vị ngọt. Nếu ai đến được núi ấy thời vĩnh viễn khỏi sự nghèo khốn. Ai uống được nước suối ấy thời sống lâu muôn tuổi. Chỉ vì đường sá xa xôi hiểm trở nhiều tai nạn. Hai người ấy đều muốn cùng nhau đi. Một người sắm sửa các thứ vật cần dùng đi đường, một người thời đi tay không, cùng nhau đồng tiến về hướng núi báu. Dọc đường gặp một người mang nhiều của báu đi ngược chiều. Hai người hỏi rằng: xin hỏi ông xứ đó có thiệt có núi bảy báu ư? Đáp rằng: thiệt có núi báu, chính tôi đã được bảo vật và được uống nước suối ngọt. Chỉ lo rằng đường xa hiểm trở, trộm cướp quá nhiều, hầm hố gai chông, lại thêm thiếu nước, thiếu cỏ. Muôn ngàn người đi ít người đến được.
Nghe khách nói, một người ăn năn cho rằng đường sá gian nan khốn khổ như vậy, vô lượng người đi không mấy người được đến, tôi làm thế nào có thể đến được núi báu. Hiện tại sản nghiệp của tôi cũng tạm đủ dùng. Nếu gắng gượng đi hoặc có thể chẳng toàn thân mạng. Thân mạng đã chẳng toàn còn mong gì được trường thọ.
Một người nói rằng: Có người đến được thời tôi cũng có thể đến được. Tôi quyết đến núi báu lượm lấy bảo vật cùng uống nước suối ngọt, nếu chẳng toại nguyện có chết cũng cam lòng.
Lúc đó hai người, một thời ăn năn trở về, một thời tiến đến núi báu. Người sau này đến được núi kia, uống nước suối ngọt, mang nhiều bảo vật trở về nhà, dùng của ấy phụng dưỡng cha mẹ, cung cấp họ hàng thân thuộc.
Bấy giờ người ăn năn thối về trước kia thấy kết quả tốt đẹp của người này trong lòng phát phẫn. Anh ấy mang được bảo vật về nhà, tại sao ta cứ ở mãi bên đây mà chẳng dám đi? Liền sắm sửa hành trang thẳng đến núi báu.
Này thiện nam tử! Núi báu kia dụ cho Đại Niết Bàn. Nước suối ngọt dụ cho Phật tánh. Hai người kia dụ cho hai vị Bồ Tát sơ phát tâm. Con đường hiểm ác dụ cho sanh tử. Người đi ngược chiều gặp dọc đường dụ cho đức Phật Thế Tôn. Trộm cướp dụ cho tứ ma. Hầm hố gai chông dụ cho các phiền não. Không nước không cỏ dụ chẳng tu tập đạo bồ đề. Người nghe khó ăn năn trở về dụ cho Bồ Tát thối chuyển. Người dũng mãnh thẳng tiến dụ cho Bồ Tát bất thối.
Này thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh thường trụ chẳng biến đổi. Như con đường hiểm trở kia, không ai có thể bảo rằng vì có người ăn năn trở lại mà làm cho con đường thành vô thường. Phật tánh cũng như vậy, trong đạo Bồ Đề trọn không có sự thối thất. Như người ăn năn kia thấy bạn mình đặng của báu mang về nhà, giàu có tự tại, cúng dường cha mẹ, cung cấp thân thuộc, an vui sung sướng.
Do đó bèn phát tâm thẳng đến núi báu chẳng tiếc thân mạng. Bồ Tát thối chuyển cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được thành vô thượng Bồ Đề. Do nghĩa này nên trong kinh Phật nói tất cả chúng sanh nhẫn đến kẻ tạo tội ngũ nghịch, phạm tứ trọng và nhất-xiển-đề đều có Phật tánh."
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Bồ Tát thế nào có thối cùng chẳng thối?"
- Này thiện nam tử! Nếu có Bồ Tát tu tập nghiệp nhân ba mươi hai tướng tốt của Như Lai thời được gọi là bậc bất thối, thời được gọi là đại Bồ Tát, cũng gọi là bậc bất động chuyển, là thương xót tất cả chúng sanh, gọi là hơn tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác, là bậc A Bệ Bạt Trí.
Này thiện nam tử! Nếu đại Bồ Tát trì giới chẳng lay động, tâm bố thí chằng dời đổi, lời nói chân thật như núi Tu Đi, nghiệp duyên trên đây được tướng tốt dưới bàn chân đầy bằng.
Nếu đại Bồ Tát ở nơi cha mẹ, hòa thượng, sư trưởng, nhẫn đến các loài súc sanh, đem của cải đúng pháp cúng dường cung cấp, do nghiệp duyên này được tướng tốt dưới lòng bàn chân có tướng thiên bức luân.
Nếu đại Bồ Tát chẳng sát sanh, chẳng trộm cướp, đối với cha mẹ, sư trưởng thường có lòng hoan hỷ, do nghiệp duyên này được thành ba tướng tốt: một là ngón tay dài vót, hai là ngón chân dài, ba là thân mình vuông thẳng, ba tướng tốt này đồng do một nghiệp duyên.
Nếu Đại Bồ Tát tu tập tứ nhiếp pháp để nhiếp thủ chúng sanh, do nghiệp duyên này được tướng tốt ngón tay có màn lưới như ngỗng chúa trắng.
Nếu Đại Bồ Tát lúc cha mẹ, sư trưởng có bệnh khổ, tự tay tắm rửa lau chùi dắt đỡ thoa bóp, do nghiệp duyên này được tướng tốt, tay chân dịu dàng.
Nếu Đại Bồ Tát trì giới nghe pháp, cùng bố thí không nhàm chán, do nghiệp duyên này được tướng tốt mắt cá lóng đốt đều no đủ, lông trong thân đều soắn lên trên.
Nếu Đại Bồ Tát chuyên tâm nghe pháp và diễn thuyết chánh pháp, do nghiệp duyên này được tướng tốt đùi vế như nai chúa.
Nếu Đại Bồ Tát đối với chúng sanh chẳng có lòng tổn hại, ăn uống biết đủ, thường ưa bố thí khám bệnh, cung cấp thuốc men, do nghiệp duyên này được tướng tốt thân hình tròn đủ như cây ni-câu-đà, lúc đứng hai tay dài quá đầu gối, đỉnh đầu có nhục kế vô kiến đảnh tướng.
Nếu Đại Bồ Tát thấy người gặp sự kinh sợ liền cứu hộ cho, thấy người lõa lồ rách rưới thời bố thí y phục, do nghiệp duyên này được tướng tốt mã-âm-tàng.
Nếu Đại Bồ Tát gần gũi người trí, xa lìa kẻ ngu, vui vẻ hỏi đáp, quét dọn đường đi, do nghiệp duyên này da thứa mịn màng, lông trên thân xoay về phía hữu.
Nếu Đại Bồ Tát thường dùng y phục, đồ uống ăn, đồ nằm, thuốc men, hương hoa, đèn đuốc bố thí cho người, do nghiệp duyên này đặng thân màu vàng ròng, thường có ánh sáng chói rỡ.
Nếu Đại Bồ Tát lúc bố thí, những vật báu quý có thể đem cho chẳng tiếc chẳng nghĩ là phước điền hay chẳng phải phước điền, do nghiệp duyên này được tướng tốt bảy chỗ trên thân được no đủ.
Nếu Đại Bồ Tát lúc bố thí lòng chẳng nghi ngờ, do nghiệp duyên này được tiếng nói dịu dàng.
Nếu Đại Bồ Tát đúng như pháp làm ra của cải đem bố thí, do nghiệp duyên này được tướng tốt nơi thân chỗ xương thiếu đều đầy đủ, thân như Sư Tử Vương, cánh tay thon dài.
Nếu Đại Bồ Tát xa lìa lưỡng thiệt, ác khẩu và tâm giận hờn, do nghiệp duyên này được được tướng tốt đủ cả bốn mươi cái răng trong trắng sạch sẽ, bằng thẳng khít khao.
Nếu Đại Bồ Tát có lòng đại từ bi đối với chúng sanh, do nghiệp duyên này được tướng hai răng nanh tốt.
Nếu Đại Bồ Tát thường phát nguyện: Có người đến cầu xin thời cấp cho theo ý của họ xin, do nghiệp duyên này được gò má như sư tử.
Nếu Đại Bồ Tát cung cấp đồ uống ăn theo sở thích của chúng sanh, do nghiệp duyên này được tướng tốt trong cổ họng thường rịn chất cam lộ thượng vị.
Nếu Đại Bồ Tát tự thực hành mười điều lành cùng giáo hóa người, do nghiệp duyên này được tướng tốt lưỡi rộng dài.
Nếu Đại Bồ Tát chẳng rao nói lỗi xấu của người, chẳng hủy báng chánh pháp, do nghiệp duyên này đặng tướng tốt tiếng phạm âm.
Nếu Đại Bồ Tát thấy kẻ thù nghịch thời sanh lòng hoan hỷ, do nhân duyên này được tướng tốt, tròng mắt màu xanh biếc.
Nếu Đại Bồ Tát chẳng ẩn che tài đức của người mà phô trương điều hay của mình, do nghiệp duyên này được tướng tốt bạch hào.
Này thiện nam tử! Nếu Đại Bồ Tát tu tập nghiệp duyên ba mươi hai tướng tốt như vậy thời được chẳng thối chuyển tâm Bồ Đề.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn. Cảnh giới và nghiệp quả của chư Phật cùng Phật tánh cũng chẳng thể nghĩ bàn. Vì bốn pháp này đều là thường, vì thường trụ nên chẳng thể nghĩ bàn. Tất cả chúng sanh vì phiền não che đậy nên gọi là thường. Vì dứt phiền não thường nên gọi là vô thường. Nếu nói rằng tất cả chúng sanh là thường, cớ gì lại tu tập tám thánh đạo? Tu tập để dứt các sự khổ, các sự khổ nếu đã dứt thời gọi là vô thường, sự vui được hưởng thọ thời gọi là thường. Do đây nên ta nói tất cả chúng sanh bị phiền não che đậy mà chẳng thấy được Phật tánh, vì chẳng thấy nên chẳng được Niết Bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Như lời Phật nói tất cả các pháp có hai thứ nhân là chánh nhân và duyên nhân. Do hai nhân này lẽ ra không có trói buộc, không có giải thoát: Thân ngũ ấm này niệm niệm sanh diệt, nó đã sanh diệt, thời có gì là trói buộc và giải thoát.
Bạch Thế Tôn! Nhân thân ngũ ấm này mà sanh thân ngũ ấm sau. Thân này tự diệt chẳng đến thân kia, dầu chẳng đến kia nhưng có thể sanh ngũ ấm kia. Như do hột sanh mộng, hột chẳng đến mộng, dầu hột chẳng đến mộng mà có thể sanh mộng. Chúng sanh cũng như vậy, thế nào có trói buộc và giải thoát?"
Phật nói: "Này thiện nam tử! Lóng nghe! Lóng nghe! Ta sẽ vì ông phân biệt giải thuyết. Như người lúc chết rất khổ, quyến thuộc bao quanh kêu khóc than thở, người này sợ hãi chẳng biết cầu cứu với ai, dầu có năm giác quan mà không hay, không biết, tay chân run giật, không thể tự chủ, thân thể lành lạnh sắp hết hơi nóng, thấy những tướng nghiệp báo thiện ác đã tạo từ trước. Như mặt trời sắp lặn, thời bóng của núi gò ngả về hướng đông, không bao giờ trở qua tây. Nghiệp quả của chúng sanh cũng như vậy, lúc thân ngũ ấm này diệt thời ngũ ấm kia liền nối sanh. Như đèn cháy lên thời bóng tối mất, đèn tắt thời bóng tối hiện ra. Như ấn sáp in vào đất sét, ấn cùng đất sét hiệp, ấn rã, lằn chữ nổi lên, mà ấn sáp này chẳng biến nơi đất sét, lằn chữ chẳng phải từ đất sét ra, cũng chẳng phải chỗ khác đến, do ấn làm nhân duyên mà sanh lằn chữ. Ngũ ấm hiện tại diệt, thân trung ấm liền sanh. Ngũ ấm hiện tại này trọn chẳng biến làm thân trung ấm, thân trung ấm cũng chẳng phải tự sanh, cũng chẳng từ nơi khác đến, do thân hiện tại mà sanh thân trung ấm. Như ấn sáp in nơi đất sét, ấn rả lằn chữ thành, danh từ dầu không sai khác mà thời tiết đều riêng khác. Do đây nên ta nói thân trung ấm chẳng phải nhục nhãn thấy được, thiên nhãn mới ngó thấy. Thân trung ấm này có ba cách ăn: tư thực, xúc thực, ý thực. Thân trung ấm có hai thứ: một là nghiệp quả lành, hai là nghiệp quả ác. Do nghiệp lành nên được giác quán lành, do nghiệp ác nên được giác quán ác. Lúc cha mẹ giao hội phán hiệp, theo nhân duyên của nghiệp mà đến chỗ thọ sanh. Đối với mẹ sanh lòng thương, đối với cha sanh lòng sân. Lúc tinh của cha chảy ra cho rằng là của mình, sanh lòng vui mừng. Do nhân duyên của ba thứ phiền não này, thân trung ấm diệt mà sanh thân ngũ ấm sau. Như ấn sáp in vào đất sét, ấn hư lằn chữ thành.
Lúc sanh ra những căn thân có đầy đủ cùng chẳng đủ. Người căn đầy đủ thấy sắc thời sanh lòng tham, vì tham nên gọi là ái. Do hư dối mà sanh lòng tham, đây gọi là vô minh. Do hai nhân duyên tham ái và vô minh nên chững cảnh giới xem thấy thảy đều điên đảo: vô thường thấy là thường, vô ngã thấy là ngã, vô lạc thấy là lạc, bất tịnh thấy là tịnh. Do bốn thứ điên đảo này nên gây tạo nhưng hạnh nghiệp thiện ác. Phiền não gây ra nghiệp, nghiệp sanh ra phiền não, đây gọi là hệ phược. Do nghĩa này nên gọi là ngũ ấm sanh.
Người này nếu được gần gũi chư Phật, đệ tử của Phật cùng những thiện tri thức thời được nghe được học mười hai bộ kinh. Do nghe pháp nên quán những cảnh giới lành. Do quán cảnh giới lành nên được trí huệ lớn, đây gọi là chánh tri kiến. Vì được chánh tri kiến nên sanh lòng hối hận đối với sanh tử. Do tâm hối hận này nên chẳng ưa thích sanh tử, vì chẳng ưa thích nên phá được lòng tham, vì phá lòng tham nên tu tám thánh đạo, do tu tám thánh đạo nên được không sanh tử, vì không sanh tử nên gọi là được giải thoát. Như lửa chẳng gặp củi gọi đó là tắt. Vì tắt diệt sanh tử nên gọi là diệt độ. Do nghĩa này nên gọi là thân ngũ ấm diệt."
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Trong hư không chẳng có gai thế nào nói rằng nhổ? Ngũ ấm không cột trói thế nào gọi rằng hệ phược?"
Phật nói: "Này thiện nam tử! Vì xiềng xích phiền não trói buộc ngũ ấm, lìa ngũ ấm rồi thời không có phiền não riêng, lìa phiền não rồi thời không có ngũ ấm riêng.
Như cột chống đỡ nóc nhà, lìa nhà thời không cột, lìa cột thời không nhà. Thân ngũ ấm của chúng sanh cũng như vậy: Vì có phiền não gọi là hệ phược, vì không phiền não nên gọi là giải thoát.
Như nắm tay, chắp tay, cột gút, ba thứ hiệp tan sanh diệt không có thứ gì riêng. Ngũ ấm của chúng sanh cũng như vậy: Vì có phiền não gọi là hệ phược, vì không phiền não gọi là giải thoát.
Như nói danh sắc hệ phược chúng sanh. Nếu danh sắc diệt thời không chúng sanh. Lìa danh sắc không có chúng sanh riêng, lìa chúng sanh không có danh sắc riêng, cũng gọi là danh sắc hệ phược chúng sanh, cũng gọi là chúng sanh hệ phược danh sắc."
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Như con mắt chẳng tự thấy, ngón tay chẳng tự chạm, dao chẳng tự cắt, thọ chẳng tự thọ, sao đức Thế Tôn nói rằng danh sắc hệ phược danh sắc? Vì nói danh sắc thời chính là chúng sanh, còn nói chúng sanh thời chính là danh sắc. Nếu nói danh sắc hệ phược chúng sanh thời là danh sắc hệ phược danh sắc."
Phật nói: "Này thiện nam tử! Như lúc hai tay chắp lại, thời không có cái gì khác đến chắp. Danh cùng sắc cũng như vậy. Do đây nên ta nói danh sắc hệ phược chúng sanh. Nếu rời danh sắc thời được giải thoát. Vì thế nên ta nói chúng sanh giải thoát."
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Nếu có danh sắc là hệ phược, các vị A La Hán chưa rời danh sắc, lẽ ra cũng là hệ phược!"
Phật nói: "Này thiện nam tử! Có hai thứ giải thoát: một là tử đoạn, hai là quả đoạn.
Tử đoạn là dứt phiền não. Các vị A La Hán đã dứt phiền não, các kiết sử đã phá hư, nên tử kiết sử dứt chẳng hệ phược được. Vì A La Hán chưa dứt quả nên gọi là quả hệ phược. Các vị A La Hán chẳng thấy Phật tánh. Vì chẳng thấy nên chẳng được vô thượng Bồ Đề. Do đây nên có thể gọi là quả hệ phược mà chẳng được gọi là danh sắc hệ phược.
Này thiện nam tử! Như thắp đèn, lúc dầu chưa hết thời ánh lửa chẳng tắt. Nếu đã hết dầu, thời lửa quyết phải tắt. Dầu là dụ cho phiền não. Đèn là dụ cho chúng sanh. Vì dầu phiền não nên chúng sanh chẳng nhập Niết Bàn. Nếu dứt hết phiền não, thời tất nhập Niết Bàn."
- Bạch Thế Tôn! Đèn cùng dầu tánh cách riêng khác. Còn chúng sanh và phiền não thời không phải như vậy: chúng sanh là phiền não, cũng như phiền não là chúng sanh. Chúng sanh gọi là ngũ ấm, chính ngũ ấm gọi là chúng sanh. Ngũ ấm gọi là phiền não, cũng như phiền não gọi là ngũ ấm. Sao đức Như Lai lại dụ như đèn?
- Này thiện nam tử! Có tám thứ ví dụ: một là thuận dụ, hai là nghịch dụ, ba là hiện dụ, bốn là phi dụ, năm là tiên dụ, sáu là hậu dụ, bảy là tiên hậu dụ, tám là biến dụ.
Thế nào là thuận dụ?
Như trong kinh nói: trời mưa lớn mương rãnh đều đầy nước; vì mương rãnh đầy nước nên hố nhỏ đầy, vì hố nhỏ đầy nên hố lớn đầy; vì hố lớn đầy nên suối nhỏ đầy; vì suối nhỏ đầy nên suối lớn đầy; vì suối lớn đầy nên ao nhỏ đầy; vì ao nhỏ đầy nên ao lớn đầy; vì ao lớn đầy nên sông nhỏ đầy; vì sông nhỏ đầy nên sông lớn đầy, vì sông lớn đầy nên biển lớn đầy.
Pháp võ của đức Như Lai cũng như vậy, làm cho chúng sanh đầy đủ giới hạnh; vì giới đầy đủ nên tâm chẳng hối hận được đầy đủ; vì tâm chẳng hối hận đầy nên lòng hoan hỷ đầy đủ; vì lòng hoan hỷ đầy nên sự viễn ly đầy đủ; vì sự viễn ly đầy nên sự an ổn được đầy đủ; vì sự an ổn đầy nên chánh định được đầy đủ; vì chánh định đầy nên chánh tri kiến đầy đủ; vì chánh tri kiến đầy nên sự nhàm lìa đầy đủ; vì yểm ly đầy nên sự quở trách đầy đủ; vì sự quở trách đầy nên giải thoát đầy đủ; vì giải thoát đầy nên Niết Bàn đầy đủ. Đây gọi là thuận dụ vậy.
Thế nào là nghịch dụ?
Biển lớn có nguồn chính là sông lớn; sông lớn có nguồn chính là sông nhỏ; sông nhỏ có nguồn chính là ao lớn; ao lớn có nguồn chính là ao nhỏ; ao nhỏ có nguồn chính là suối lớn; suối lớn có nguồn chính là suối nhỏ; suối nhỏ có nguồn chính là hố lớn; hố lớn có nguồn chính là hố nhỏ; hố nhỏ có nguồn chính là mương rãnh; mương rãnh có nguồn chính là mưa to.
Cũng vậy, Niết Bàn có nguồn chính là giải thoát; giải thoát từ quở trách; quở trách từ yểm ly; yểm ly từ chánh tri kiến; chánh tri kiến từ chánh định; chánh định từ an ổn; an ổn từ viễn ly; viễn ly từ hoan hỷ; hoan hỷ từ chẳng hối hận; chẳng hối hận từ trì giới; sự trì giới bắt nguồn từ nơi pháp võ của đức Như Lai. Đây gọi là nghịch dụ vậy.
Thế nào là hiện dụ?
Như nói là tâm tánh của chúng sanh như khỉ, vượn. Tánh của khỉ, vượn bỏ cái này liền bắt cái kia. Cũng vậy, tâm tánh của chúng sanh bắt lấy lục trần không lúc nào tạm dừng. Đây gọi là hiện dụ vậy.
Thế nào là phi dụ?
Như xưa kia ta bảo vua Ba Tư Nặc: Đại Vương! Có người thân tín từ bốn phương đến báo với nhà vua rằng có bốn hòn núi lớn từ bốn phương đến muốn hại nhân dân. Nếu nghe như vậy Đại Vương sẽ lập kế gì?
- Vua đáp: Bạch Thế Tôn! Nếu có như vậy thời không còn có chỗ trốn tránh, chỉ phải chuyên tâm trì giới bố thí.
- Ta khen rằng: Lành thay! Đại Vương! Ta nói bốn hòn núi là sanh, lão, bệnh, tử của chúng sanh. Bốn sự khổ đó thường đến bức não chúng sanh, sao Đại Vương chẳng trì giới bố thí? - Vua đáp: Bạch Thế Tôn! Trì giới bố thí được quả báo gì? Ta nói: trì giới bố thí sẽ được hưởng sự vui sướng ở cõi Trời cõi người. - Vua nói: Bạch Thế Tôn! Cây ni-câu-đà trì giới bố thí cũng được hưởng phước ư? - Ta nói cây ni-câu-đà chẳng thể trì giới bố thí, nếu nó có thể làm được thời cũng được hưởng phước như người. Đây gọi là phi dụ.
Thế nào là tiên dụ?
Trong kinh nói: Như có người ưa thích hoa đẹp, lúc hái lấy bị nước cuốn trôi. Chúng sanh cũng vậy vì tham ái ngũ dục mà bị sanh tử. Đây gọi là tiên dụ.
Thế nào là hậu dụ?
Như kinh Pháp Cú nói:
Chớ khinh tội nhỏ,
Cho là không hại,
Giọt nước dầu ít,
Lần đầy lu lớn.
Đây gọi là hậu dụ.
Thế nào là tiên hậu dụ?
Ví như cây có trái chuối thời chết. Người ngu được lợi dưỡng cũng như vậy. Như con la có thai thời mạng sống chẳng còn lâu. Đây là tiên hậu dụ.
Thế nào là biến dụ?
Như trong kinh nói trời Đao Lợi có cây Ba Lợi Chất Đa, gốc nó sâu năm do diên, cao một trăn do diên, nhánh lá bủa ra bốn phía năm mươi do diên, lúc lá chín thời màu vàng, chư Thiên xem thấy sanh lòng vui mừng. Lá này chẳng bao lâu sẽ rơi rụng, chư Thiên thấy lá rụng lại sanh lòng vui mừng. Nhánh cây chẳng bao lâu sẽ đổi sắc, chư Thiên thấy nhánh đổi sắc lại sanh lòng vui mừng. Nhánh này chẳng bao lâu sẽ sanh nụ tròn, chư Thiên thấy nụ sanh lòng vui mừng. Những nụ này chẳng bao lâu sẽ dài nhọn, chư Thiên lại sanh lòng vui mừng. Những nụ dài nhọn này chẳng bao lâu sẽ nở ra, lúc nụ nở hơi thơm khắp năm mươi do diên, chiếu sáng tám mươi do diên. Lúc đó chư Thiên ba tháng mùa hạ chơi vui dưới cây này.
Này thiện nam tử! Hàng đệ tử của ta cũng như vậy. Lá sắc vàng dụ cho đệ tử của ta có tâm niệm muốn xuất gia. Lá rụng dụ cho đệ tử của ta cạo bỏ râu tóc. Nhánh cây đổi sắc dụ cho đệ tử của ta bạch tứ yết ma thọ giới cụ túc. Mới sanh nụ tròn dụ cho đệ tử của ta phát tâm Bồ Đề, nụ nhọn dài dụ cho thập trụ Bồ Tát thấy được Phật tánh. Nở xòa ra dụ cho Bồ Tát được vô thượng Bồ Đề. Mùi thơm dụ cho vô lượng chúng sanh thọ trì cấm giới, chiếu sáng dụ cho Như Lai danh hiệu vô ngại cùng khắp mười phương. Ba tháng mùa hạ dụ cho ba môn chánh định. Chư Thiên chơi vui dụ cho chư Phật ở nơi Đại Niết Bàn được thường, lạc, ngã, tịnh. Đây gọi là biến dụ.
Này thiện nam tử! Phàm dẫn ví dụ bất tất phải lấy trọn hết, hoặc lấy phần ít, hoặc lấy phần nhiều, hoặc lấy hoàn toàn. Như nói gương mặt của Phật như mặt trăng tròn, đây gọi là lấy phần ít.
Ví như có người chưa bao giờ thấy sữa, hỏi người khác rằng: sữa là giống gì? Đáp: như nước, mật, vỏ ốc; nước thời là tướng ướt, mật thời vị ngọt, vỏ ốc thời là màu sắc. Dầu dẫn ba thứ dụ nhưng chưa phải thiệt là sữa. Ta nói ví dụ cái đèn đem dụ cho chúng sanh cũng như vậy. Ta nói lìa nước thời không có con sông, chúng sanh cũng vậy lìa năm ấm thời không còn là chúng sanh. Như ngoài thùng, gọng, trục, bánh, căm thời không còn có cái xe. Chúng sanh cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Nếu muốn đem pháp hiệp với ví dụ cái đèn kia, thời nên lóng nghe: tim đèn dụ cho hai mươi lăm cõi, dầu dụ cho tham ái, ánh sáng dụ cho trí huệ, trừ bóng tối dụ cho phá vô minh, hơi nóng dụ cho thánh đạo. Như đèn hết dầu thời ngọn lửa tắt, chúng sanh hết tham ái thời thấy Phật tánh, tuy có danh sắc nhưng chẳng hệ phược được, tuy ở trong hai mươi lăm cõi nhưng chẳng bị các cõi làm nhiễm ô.
- Bạch Thế Tôn! Ngũ ấm của chúng sanh rỗng không chẳng có gì, ai lãnh thọ giáo pháp tu tập đạo hạnh?
- Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh đều có niệm tâm, huệ tâm, phát tâm, tinh tấn tâm, tín tâm, định tâm. Những tâm như vậy dầu niệm niệm diệt nhưng vẫn tương tự tương tục chẳng dứt nên gọi là tu hành.
- Bạch Thế Tôn! Những tâm như vậy đều niệm niệm diệt, niệm niệm diệt này cũng là tương tự, tương tục, thời thế nào có sự tu tập?
- Này thiện nam tử! Như ngọn đèn dầu niệm niệm diệt mà có ánh sáng trừ bóng tối. Như chúng sanh ăn uống dầu niệm niệm diệt nhưng cũng làm cho người đói đặng no. Như thuốc hay dầu niệm niệm diệt nhưng cũng có thể làm cho bệnh được lành. Như ánh sáng mặt trời mặt trăng dầu niệm niệm diệt nhưng cũng có thể làm cỏ cây sanh sống.
Ông nói niệm niệm diệt thế nào tu tập?
Này thiện nam tử! Vì tâm nối luôn chẳng dứt nên gọi là tu tập thêm lên. Như người đọc tụng kinh sách, những chữ những câu đọc tụng chẳng đồng một thời gian: chữ trước chẳng đến giữa, chữ giữa chẳng đến sau, người đọc cùng với chữ và tâm tưởng tất cả đều niệm niệm diệt, do vì tập lâu mà được thông thuộc.
Này thiện nam tử! Như thợ kim hoàn từ lúc ban đầu tập nghề nhẫn đến đầu bạc, dầu niệm niệm diệt trước chẳng đến sau, nhưng do tích tập nên nghề giỏi khéo, do đây được gọi là thợ kim hoàn khéo. Đọc tụng kinh sách cũng như vậy.
Như hột giống kia, đất chẳng bảo rằng ngươi phải sanh mầm, vì tánh tự nhiên nên mầm tự mọc lên, nhẫn đến bông cũng chẳng bảo ngươi nên thành trái, vì tánh tự nhiên mà trái tự thành. Chúng sanh tu hành cũng như vậy.
Ví như đếm số một chẳng đến hai, hai chẳng đến ba, dầu niệm niệm diệt mà đếm đến ngàn muôn chúng sanh tu hành cũng như vậy.
Như ngọn đèn niệm niệm diệt, ngọn trước diệt chẳng bảo ngọn sau sanh. Như con nghé sanh ra bèn tìm sữa bú, trí khôn tìm sữa thiệt không ai dạy, dầu niệm niệm diệt mà trước thời đói lúc sau được no. Do đây nên biết rằng trước và sau chẳng giống nhau, nếu giống nhau thời lẽ ra chẳng sai khác.
Chúng sanh tu hành cũng như vậy, lúc mới tu dầu chưa tăng tiến nhưng vì tu tập lâu thời có thể phá hoại tất cả phiền não.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Như lời Phật nói người được chứng quả Tu Đà Hoàn rồi, dầu thác sanh cõi nước hung ác, vẫn trì giới chẳng sát sanh trộm cướp dâm dật vọng ngữ uống rượu. Thân ngũ ấm của Tu Đà Hoàn đã diệt chết ở đây chẳng qua đến nơi cõi nước hung ác. Người tu hành cũng chẳng đến cõi nước hung ác, nếu là tương tự thời cớ sao chẳng sanh nơi cõi nước tịnh diệu? Nếu thân ngũ ấm ở cõi nước hung ác chẳng phải là ngũ ấm của Tu Đà Hoàn, do đâu mà được chẳng gây tạo nghiệp ác?"
- Này thiện nam tử! Vị Tu Đà Hoàn dầu thác sanh cõi nước hung ác nhưng vẫn chẳng mất danh hiệu Tu Đà Hoàn, thân ngũ ấm thời chẳng tương tự, nên ta dẫn con nghé làm dụ. Vị Tu Đà Hoàn dầu thách sanh cõi nước hung ác, do đạo lực nên chẳng gây tạo nghiệp ác.
Như núi Hương Sơn có Sư Tử chúa, do đây nên tất cả loài phi cầm tẩu thú không dám đến gần núi này. Có lúc Sư Tử chúa đây đến trong núi Tuyết, tất cả chim thú cũng vẫn chẳng đến gần núi Hương Sơn. Vị Tu Đà Hoàn cũng như vậy, dầu chẳng tu hành nhưng do đạo lực nên chẳng gây tạo nghiệp ác.
Ví như có người uống chất cam lộ, chất cam lộ này dầu đã tiêu hóa mất, nhưng thế lực có thể làm cho người uống chẳng già chẳng chết.
Như núi Tu Di có vị thuốc thượng diệu tên là Lăng Già Lợi, người uống vị thuốc này dầu niệm niệm diệt, nhưng do năng lực của thuốc làm cho người uống chẳng bao giờ phải bệnh khổ.
Như chỗ ngự của Chuyển Luân Vương, dầu vua chẳng ngự nơi đó nhưng không ai dám đến gần, đây là do oai lực của vua. Vị Tu Đà Hoàn cũng như vậy, dầu sanh nơi cõi nước hung ác, chẳng tu hành nhưng do đạo lực nên chẳng gây tạo nghiệp ác.
Thân ngũ ấm Tu Đà Hoàn chết mất ở đây, dầu sanh ngũ ấm khác, nhưng vẫn chẳng mất ngũ ấm Tu Đà Hoàn.
Ví như chúng sanh vì muốn được trái được hột nên đối với hột giống ra công săn sóc vun phân bón tưới, chưa gặt được trái được hột mà hột giống lại hư diệt, dầu vậy nhưng cũng được gọi là nhân hột giống mà được trái. Ngũ ấm của Tu Đà Hoàn cũng như vậy.
Như có người sản nghiệp to tát, chỉ có một đứa con trai chết sớm, người con này cũng có một đứa con trai ở xứ khác. Lúc người giàu có này qua đời đứa cháu nội nghe tin bèn trở về lãnh lấy sản nghiệp, dầu mọi người đều biết tài sản đó chẳng phải của nó làm ra, nhưng không ai ngăn trở, vì nó là một họ, cháu ruột của phú ông. Ngũ ấm của Tu Đà Hoàn cũng như vậy.
No comments:
Post a Comment