Wednesday, July 8, 2015

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q3) - Phẩm SƯ TỬ HỐNG BỒ TÁT (phần 3)

Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Như bài kệ của Phật nói:
Tỳ Kheo nếu tu tập
Giới định và trí huệ
Nên biết là bất thối
Gần đến Đại Niết Bàn
Bạch Thế Tôn! Thế nào là tu giới? Thế nào là tu định? Thế nào là tu huệ?"
Phật nói: "Này thiện nam tử! Nếu có người trì giới chỉ vì muốn tự lợi hưởng thọ sự vui cõi trời, cõi người, mà chẳng vì độ thoát tất cả chúng sanh, chẳng vì ủng hộ chánh pháp vô thượng, chỉ vì lợi dưỡng, sợ ba ác đạo, vì sống lâu, sắc đẹp, sức mạnh, an ổn, vô ngại biện, vì sợ luật pháp của vua, vì sợ tiếng xấu, vì sự nghiệp thế gian, vì những việc như trên mà hộ trì giới luật thời chẳng được gọi là tu tập giới luật.
Thế nào gọi là chân thiệt tu tập giới luật? Lúc trì giới nếu vì độ thoát tất cả chúng sanh, vì hộ trì chánh pháp để độ người chưa được độ, khai ngộ người chưa tỏ ngộ, quy y người chưa quy y, người chưa nhập Niết Bàn làm cho được nhập, lúc tu tập như vậy chẳng thấy giới, chẳng thấy giới tướng, chẳng thấy người trì, chẳng thấy quả báo, chẳng tìm xem hủy phạm. Nếu có thể được như vậy thời mới gọi là tu tập giới luật.
Thế nào gọi là tu tập chánh định? Lúc tu tam muội, vì tự độ, vì lợi dưỡng, mà chẳng vì chúng sanh, chẳng vì hộ pháp, vì thấy những lỗi tham dục ăn uống, vì thấy những căn nam nữ chín lỗ bất tịnh, vì tranh đấu cãi cọ đánh đâm, giết hại lẫn nhau. Nếu vì những việc này mà tu tam muội, đây thời chẳng gọi là tu tập tam muội.
Thế nào gọi là chân thật tu tam muội? Nếu tu tập tam muội là vì chúng sanh, đối với chúng sanh có tâm bình đẳng, vì làm cho chúng sanh được pháp bất thối, được thánh tâm, được đại thừa, vì muốn hộ trì pháp vô thượng, khiến cho chúng sanh chẳng thối tâm Bồ Đề, làm cho chúng sanh được thủ-lăng-nghiêm tam muội, được kim cang tam muội, được Đà La Ni, được tứ vô ngại, được thấy Phật tánh. Lúc thực hành chẳng thấy tam muội, chẳng thấy tướng tam muội, chẳng thấy người tu, chẳng thấy quả báo. Nếu có thể như vậy thời gọi là tu tập chánh định.
Thế nào gọi là tu tập trí huệ? Nếu có người tu hành suy nghĩ như vầy: nếu tôi tu tập trí huệ này thời được thoát khỏi ba ác đạo? Ai có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sanh? Ai có thể ở trong đường sanh tử mà độ mọi người? Phật xuất hiện ra đời khó gặp như hoa Ưu Đàm, nay tôi có thể dứt phiền não kiết sử được quả giải thoát, nên tôi phải siêng năng tu hành trí huệ, để sớm dứt phiền não mau được giải thoát. Tu tập như vậy chẳng được gọi là tu tập trí huệ.
Thế nào gọi là chân thật tu tập trí huệ? Người trí nếu quan sát sự khổ sanh lão bệnh tử, tất cả chúng sanh bị vô minh che đậy, chẳng biết tu tập đạo vô thượng. Nguyện thân tôi nhận lấy sự khổ não thay thế chúng sanh. Bao nhiêu những sự bần cùng hạ tiện phá giới,  những nghiệp tham sân si của chúng sanh, nguyện tất cả đều nhóm chất trên thân tôi. Nguyện cho chúng sanh chẳng tham đắm, chẳng bị danh sắc trói buộc mau thoát khỏi sanh tử, chỉ để một thân tôi ở nơi sanh tử chẳng mỏi nhàm. Nguyện cho tất cả chúng sanh đều được vô thượng Bồ Đề. Lúc tu tập như vậy chẳng thấy trí huệ, chẳng thấy tướng trí huệ, chẳng thấy người tu, chẳng thấy quả báo, đây thời gọi tu tập trí huệ.
Này thiện nam tử! Người tu tập giới định huệ như vậy thời gọi là Bồ Tát. Người không thể tu tập giới định huệ như vậy thời gọi là Thanh Văn.
Thế nào lại gọi là tu tập giới hạnh? Nếu có thể phá hoại mười sáu ác luật nghi của tất cả chúng sanh: một là vì lợi mà nuôi dê, trừu cho mập để bán, hai là vì lợi mua dê trừu để làm thịt, ba là vì lợi nuôi heo cho mập để bán, bốn là vì lợi mua heo để làm thịt, năm là vì lợi nuôi bò con cho mập để bán, sáu là vì lợi mua bò để làm thịt, bảy là vì lợi nuôi gà cho mập để bán, tám là vì lợi mua gà để làm thịt, chín là câu cá, mười là thợ săn, mười một là cướp giựt, mười hai là thái thịt, mười ba là lưới chim, mười bốn là lưỡng thiệt, mười lăm là lính giữ ngục, mười sáu là bùa chú bắt rồng. Có thể vì chúng sanh mà dứt hẳn mười sáu nghiệp ác như vậy thời gọi là tu tập giới hạnh.
Thế nào là tu định? Có thể dứt tất cả tam muội thế gian, như vô thân tam muội có thể làm cho chúng sanh có tâm điên đảo cho là Niết Bàn, cùng những tam muội hữu biên tâm, vô biên tâm, tịnh tu, thế biên, thế đoạn, thế tánh, thế trượng phu, phi tưởng, phi phi tưởng, những môn định này có thể làm chúng sanh có tâm điên đảo cho là Niết Bàn. Nếu có thể dứt hẳn những tam muội như vậy thời gọi là tu tập chánh định.
Thế nào lại gọi là tu tập trí huệ? Có thể phá những ác kiến của thế gian.
Tất cả chúng sanh đều có ác kiến: chấp sắc là ngã là ngã sở, trong sắc có ngã, trong ngã có sắc, nhẫn đến chấp thức cũng như vậy. Thường tức là ngã, sắc diệt ngã còn. Sắc tức là ngã, sắc diệt ngã cũng diệt. Lại có người cho rằng: tác giả là ngã, thọ giả là sắc. Lại có người nói: tác giả là sắc, thọ giả là ngã. Lại có người nói: không tác giả không thọ giả, tự sanh, tự diệt đều chẳng phải nhân duyên. Lại có người nói: không tác giả, không thọ giả, đều là Tự Tại Thiên chỗ tạo ra. Lại có người nói: không tác giả, không thọ giả, tất cả đều do thời tiết là ra. Lại có người nói: không tác giả, không thọ giả. Địa, thủy, hỏa, phong, không, năm đại này gọi là chúng sanh.
Nếu có thể phá hoại những ác kiến của chúng sanh như vậy thời gọi là tu tập trí huệ.
Này thiện nam tử! Tu tập giới hạnh để cho thân được tịch tịnh. Tu tập chánh định để cho tâm được tịch tịnh. Tu tập trí huệ để phá trừ lòng nghi. Phá trừ lòng nghi là để tu tập Phật đạo. Người tu tập Phật đạo là để được thấy Phật tánh. Thấy Phật tánh để được vô thượng Bồ Đề. Được vô thượng Bồ Đề thời được vô thượng Đại Niết Bàn. Được Đại Niết Bàn để dứt tất cả sanh tử, tất cả phiền não, tất cả cõi, tất cả đế của tất cả chúng sanh. Dứt sanh tử nhẫn đến dứt tất cả đế là để được thường lạc ngã tịnh vậy."
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Như lời Phật nói nếu bất sanh bất diệt gọi là Đại Niết Bàn, thời sanh cũng là bất sanh bất diệt như vậy, cớ sao chẳng được gọi là Niết Bàn?"
- Này thiện nam tử! Đúng như lời của ông nói. Sanh dầu cũng là bất sanh bất diệt nhưng có thỉ có chung.
- Bạch Thế Tôn! Pháp sanh tử này cũng là vô thỉ vô chung. Nếu là vô thỉ vô chung thời gọi là thường, thường trụ tức là Niết Bàn, cớ sao chẳng gọi sanh tử là Niết Bàn?
- Này thiện nam tử! Pháp sanh tử này đều có nhân có quả, vì có nhân quả nên chẳng được gọi là Niết Bàn. Thể tánh của Niết Bàn vốn không nhân quả.
- Bạch Thế Tôn! Luận về Niết Bàn cũng có nhân quả như bài kệ của Phật nói:
Từ nhân nên sanh cõi trời,
Từ nhân mà đọa ác đạo,
Từ nhân nên được Niết Bàn,
Do đây nên đều có nhân.
Xưa kia Phật bảo các Tỳ Kheo: nay ta sẽ nói đạo quả của Sa Môn. Nói là Sa Môn đó nghĩa là người có thể tu tập hoàn toàn đạo hạnh giới định huệ, đạo hạnh này là bát thánh đạo. Quả của Sa Môn chính là Niết Bàn.
Bạch Thế Tôn! Niết Bàn như vậy há chẳng phải là quả ư? Cớ sao hôm nay đức Phật nói rằng thể của Niết Bàn không nhân, không quả?
- Này thiện nam tử! Ta tuyên nói nhân của Niết Bàn chính là Phật tánh, tánh của Phật tánh chẳng sanh Niết Bàn, nên ta nói Niết Bàn không có nhân. Vì có thể phá phiền não nên gọi là quả Đại Niết Bàn, Niết Bàn này chẳng từ nơi đạo hạnh sanh ra nên gọi là không có quả. Do đây nên Niết Bàn là không nhân, không quả.
- Bạch Thế Tôn! Phật tánh của chúng sanh là chung có hay là riêng có? Nếu là chung có thời một người lúc được vô thượng Bồ Đề lẽ ra tất cả chúng sanh cũng đồng được. Như hai mươi người đồng có một kẻ oán thù, nếu một người trừ được kẻ thù, thời mười chín người kia cũnng đồng hết người thù. Phật tánh cũng như vậy, lúc một người đặng thời lẽ ra những người khác cũng đồng đặng.
Nếu mỗi chúng sanh riêng có Phật tánh thời Phật tánh là vô thường, vì có thể tính đếm được. Nhưng Phật nói: Phật tánh của chúng sanh chẳng phải một chẳng phải hai. Nếu là riêng có, thời lẽ ra chẳng nên nói rằng chư Phật bình đẳng, cũng chẳng nên nói rằng Phật tánh như hư không.
- Này thiện nam tử! Phật tánh của chúng sanh chẳng một chẳng hai. Chư Phật bình đẳng dường như hư không. Tất cả chúng sanh đồng chung có đó. Nếu người có thể tu bát thánh đạo, nên biết người này được thấy rõ.
Này thiện nam tử! Trên núi Tuyết có thứ cỏ tên nhẫn nhục, nếu bò ăn cỏ này thời sanh ra chất đề-hồ, Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy.
- Bạch Thế Tôn! Cỏ nhẫn nhục đó là một hay là nhiều? Như là một, bò ăn thời hết. Nếu là nhiều sao Phật lại nói Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy?
Như Phật nói: Nếu người tu tập bát thánh đạo thời được thấy Phật tánh. Lời đây chẳng đúng nghĩa, vì thánh đạo nếu là một như cỏ nhẫn nhục thời lẽ ra phải hết. Nếu thánh đạo có hết, thời một người tu xong những người khác không có phần. Thánh đạo nếu là nhiều, thời thế nào nói rằng tu tập đầy đủ, cũng chẳng được gọi là tác-bà-nhã-trí.
- Này thiện nam tử! Như đường bằng thẳng, tất cả chúng sanh đồng đi trên đường không chướng ngại nhau. Giữa đường có cây to bóng mát, người đi đường nghỉ ngơi dưới bóng cây. Bóng cây này vẫn thường như vậy, chẳng biến đổi, chẳng hư mất, cũng không ai mang đi.
Đường bằng thẳng dụ cho chánh đạo, bóng mát dụ cho Phật tánh.
Ví như thành lớn chỉ có một cửa, dầu đông người đồng do một cửa này ra vào nhưng đều không chướng ngại, cũng không ai phá hoại hoặc mang đem đi.
Ví như cây cầu nhiều người đi trên đó cũng không chướng ngại, không ai phá hoại mang đi.
Ví như lương y trị đủ các chứng bệnh, không ai cấm ngăn lương y này trị người đây bỏ người kia.
Thánh đạo và Phật tánh cũng như vậy.
Bạch Thế Tôn! Những điều dụ của Phật dẫn ra đây, theo nghĩa thời chẳng phải. Vì người trước ở trên đường thời trở ngại cho người đi sau, sao lại nói là không chướng ngại. Những điều dụ khác cũng như vậy.
Thánh đạo cùng Phật tánh nếu là như vậy, thời lúc một người tu hành lẽ ra trở ngại những người khác.
Này thiện nam tử! Như lời ông vừa gạn hỏi, xét nơi nghĩa thời chẳng tương ứng. Những điều dụ của ta dẫn ra là dụ phần ít chẳng phải dụ tất cả.
Này thiện nam tử! Con đường ở đời thời có chướng ngại, kia khác với đây, không có bình đẳng. Đạo vô lậu thời chẳng như vậy, có thể làm cho chúng sanh không có chướng ngại, luôn bình đẳng không hai, không có kia đây sai khác. Thánh đạo như vậy có thể làm liễu nhân cho Phật tánh của tất cả chúng sanh, mà chẳng làm sanh nhân. Như ngọn đèn sáng, soi rõ các đồ vật.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh đều đồng vô minh làm nhân duyên cho hành nghiệp. Không thể nói rằng một người vô minh làm nhân duyên cho hành nghiệp rồi những người khác lẽ ra không có. Tất cả chúng sanh đều có vô minh làm nhân duyên cho hành nghiệp, do đây nên nói rằng mười hai nhân duyên tất cả đều bình đẳng.
Chúng sanh tu hành đạo vô lậu cũng như vậy, đồng dứt phiền não tứ sanh, các cõi các đường, do nghĩa này nên gọi là bình đẳng. Những người đã chứng được, kia đây thấy biết không có chướng ngại, nên được gọi là tát-bà-nhã-trí.
- Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sanh chẳng phải đồng một thân: hoặc là thân người, thân súc sanh, thân ngạ quỷ, thân địa ngục, những thân sai khác như vậy tại sao nói rằng Phật tánh là một?
- Này thiện nam tử! Như có người để chất độc trong sữa, sữa thành lạc nhẫn đến thành đề-hồ, danh tự dầu biến đổi như chất độc chẳng mất, nếu uống đề-hồ cũng có thể bị độc mà chết, thật ra chẳng để độc trong đề-hồ.
Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy dầu ở trong thân sai khác của năm loài, nhưng Phật tánh này vẫn thường trụ duy nhất không biến đổi.
- Bạch Thế Tôn! Trong mười sáu nước lớn, có sáu thành lớn: thành Xá Bà Đề, thành Bà Chỉ Đa, thành Chiêm Bà, thành Tỳ Xá Ly, thành Ba La Nại, thành Vương Xá, tại sao đức Như Lai bỏ những thành lớn ấy mà đến nơi thành Câu Thi Na nhỏ hẹp xấu xa này để nhập Niết Bàn?
- Này thiện nam tử! Ông chẳng nên nói rằng thành Câu Thi Na là nhỏ hẹp xấu xa, mà nên nói rằng thành này có nhiều công đức trang nghiêm tốt đẹp, vì chỗ này là chỗ mà chư Phật và Bồ tát thường đi đến. Như nhà của người dân hèn, nếu có vua đi qua, thời nên tán thán nhà này là phước đức trang nghiêm, nên nhà vua mới ngự giá đến.
Như người bệnh nặng uống chất thuốc dơ xấu, uống xong bệnh liền lành, thời nên vui mừng khen ngợi thuốc này là rất hay, rất tốt, chữa lành được bệnh của tôi.
Như người đi ghe ở trong biển lớn, bị ghe hư chìm nhân ôm tử thi mà được vào bờ, đã đến bờ rồi thời nên vui mừng khen ngợi rằng tôi nhờ tử thi này mà được an ổn.
Thành Câu Thi Na này cũng như vậy, là chỗ đi của chư Phật Bồ Tát, sao ông lại nói rằng là chỗ hẹp nhỏ xấu xa.
Này thiện nam tử! Ta nhớ thuở xa xưa cách đây hằng hà sa kiếp. Kiếp ấy hiệu là Thiện Giác. Lúc đó có vị thánh vương họ Kiều Thi Ca, bảy báu, ngàn con đều đầy đủ. Vua này là người ban đầu xây dựng thành trì nơi đây, ngang rộng đều mười hai do diên, bảy báu trang nghiêm, có nhiều con sông, nước sông trong sạch nhu nhuyến ngon ngọt: sông Ni Liên Thiền, sông Y La Bạt Đề, sông Hy Liên Thiền, sông Y Sưu Mạc Hoàn, sông Tỳ Bà Xá Na. Tất cả có năm trăm con sông như vậy. Hai bên bờ sông cây cối rậm rợp, hoa trái sum suê. Người thời ấy sống lâu vô lượng. Vua Chuyển Luân Thánh Vương qua khỏi trăm năm bèn xướng lên rằng: Như lời Phật nói tất cả pháp đều vô thường, nếu ai có thể tu tập mười pháp lành thời dứt được sự vô thường khổ não ấy. Toàn thể nhân dân nghe Thánh Vương truyền rao như vậy, đều phụng trì mười pháp lành. Thuở đó ta nghe danh hiệu của Phật, suy nghĩ tu tập mười pháp lành, ban đầu phát tâm vô thượng Bồ Đề. Ta phát Bồ Đề tâm rồi lại đem pháp lành này chỉ dạy vô lượng vô biên chúng sanh, giảng nói tất cả pháp đều vô thường biến hoại.
Do cớ trên đây nên hôm nay ta ở nơi chỗ này tiếp tục giảng nói các pháp đều vô thường biến hoại, chỉ có thân của Phật là pháp tường trụ. Ta nhớ việc đời trước nên đến nơi đây để nhập Niết Bàn, cũng là muốn đền đáp ơn đời trước chính tại chỗ này ta thực hành pháp lành phát tâm Bồ Đề. Vì thế nên trong kinh ta nói: quyến thuộc của ta thọ ơn đều có thể báo đáp.
Này thiện nam tử! Thuở xưa lúc chúng sanh tuổi thọ vô lượng, thời thành này hiệu là Câu Xá Bạt Đề, ngang rộng năm mươi do diên. Thuở ấy trong Diêm Phù Đề người ở khít nhau. Có vua Chuyển Luân Thánh Vương hiệu là Thiện Kiến, thấy bảo và ngàn con đều đầy đủ, cao trị khắp bốn cõi. Vị Thái Tử thứ nhất xuất gia tu hành được thành Bích Chi Phật. Thánh Vương thấy Thái Tử của mình thánh Bích Chi Phật oai đức trang nghiêm, thần thông hi hữu, liền vất bỏ ngôi vua như nhổ bỏ nước mũi dãi, xuất gia ở rừng Ta La này, trải qua tám muôn năm tu tập từ tâm, tám muôn năm tu tập bi tâm, tám muôn năm tu tập hỷ tâm, tám muôn năm tu tập xả tâm.
Này thiện nam tử! Nên biết rằng Thánh Vương Thiện Kiến thuở xưa chính là thân của ta. Do đây nên ngày nay ta thường ưa thích thực hành bốn pháp này, bốn pháp này gọi là chánh định. Do nghĩa này nên thân Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh.
Này thiện nam tử! Vì cớ trên đây nên hôm nay ta đến nơi thành Câu Thi Na này ở trong rừng Ta La Song Thọ mà nhập tam muội chánh định.
Này thiện nam tử! Ta nhớ thuở xưa cách đây vô lượng kiếp, thành này hiệu là Ca Tỳ La Vệ, trong thành có vua hiệu là Bạch Tịnh, phu nhân hiệu là Ma Da, vua chỉ có một Thái Tử tên là Tất Đạt Đa. Lúc đó Thái Tử chẳng học với thầy, tự mình tư duy tu tập chứng được vô thượng Bồ Đề. Có hai người đệ tử: Xá Lợi Phất và Đại Mục Kiền Liên. Đệ tử thị giả tên là A Nan. Đức Thế Tôn ấy ở trong rừng Song Thọ diễn nói kinh Đại Niết Bàn.
Lúc đó ta được dự pháp hội, nghe Phật nói chúng sanh đều có Phật tánh. Nghe xong ta liền được bậc bất thối chuyển, liền phát nguyện rằng: nguyện đời vị lai lúc tôi được thành Phật, cha mẹ, cõi nước, danh hiệu, đệ tử, thị giả, thuyết pháp giáo hóa, tất cả đều đồng như đức Thế Tôn. Do nhân duyên phát nguyện thuở xưa, nên hôm nay ta đến nơi đây diễn nói kinh Đại Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Lúc ta mới xuất gia chưa được vô thượng Bồ Đề, vua Tần Bà Ta La sai sứ đến thưa với ta rằng: Thái Tử Tất Đạt Đa nếu là Thánh Vương thời tôi sẽ là hạng thần thuộc. Nếu Thái Tử xuất gia được vô thượng Bồ Đề, xin trước đến nơi thành Vương Xá để thuyết pháp độ người và thọ sự cúng dường của tôi: lúc đó ta yên lặng nhận lời thỉnh của vua Tần Bà Ta La.
Này thiện nam tử! Lúc ta mới được vô thượng Bồ Đề, bèn đi về hướng nước Kiệt Xà. Lúc đó nơi sông Y Liên Thiền có nhà Bà La Môn họ Ca Diếp cùng năm trăm đệ tử ở bên sông cầu đạo vô thượng. Ta vì người này nên đến thuyết pháp. Ca Diếp nói: Thưa Cù Đàm! Nay tôi đã già một trăm hai mươi tuổi, trong nước Ma Già Đà, tất cả nhân dân cùng vua Tần Bà Ta La, đều cho rằng tôi đã chứng quả A La Hán. Nếu nay tôi ở trước Cù Đàm mà nghe pháp thời tất cả mọi người sẽ sanh lòng nghi ngờ. Trông mong Cù Đàm mau đi chỗ khác. Nếu mọi người biết rõ rằng công đức của Cù Đàm hơn tôi, thời chúng tôi sẽ mất sự cúng dường.
Lúc đó ta đáp rằng: này ông Ca Diếp, nếu ông chẳng tôn trọng ta chẳng thích ở đây, xin cho ta nghỉ nhờ một đêm sáng sớm sẽ đi.
Ca Diếp nói: Thưa Cù Đàm, tôi không có lòng gì khác, thật ra tôi rất kính mến Cù Đàm. Ngặt vì chỗ ở của tôi có một con rồng độc tánh nó hung dữ, sợ rằng nó làm hại Cù Đàm.
Ta nói: Ông Ca Diếp! Độc trong các thứ độc không gì hơn ba thứ độc, nay ta đã dứt, tất cả thứ độc trong đời ta đều chẳng sợ.
Ca Diếp lại nói: Nếu Cù Đàm không sợ xin mời đến ở.
Lúc đó ta cố ý vì Ca Diếp mà hiện mười tám môn thần biến. Ca Diếp cùng năm trăm đệ tử thấy thần thông, nghe ta thuyết pháp đều chứng quả A La Hán.
Lúc đó Ca Diếp lại có hai người em: Già Da Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp. Hai người này có năm trăm đệ tử, nghe ta thuyết pháp cũng đều chứng quả A La Hán.
Lúc đó trong thành Vương Xá, hàng lục sư ngoại đạo nghe việc này, liền sanh lòng rất ác đối với Ta. Lúc đó ta nhận lấy lời thỉnh của vua Tần Bà Ta La đi đến thành Vương Xá. Giữa đường gặp vua cùng trăm ngàn người đón rước. Ta vì đại chúng này thuyết pháp. Tám muôn sáu ngàn chư thiên cõi dục phát tâm vô thượng Bồ Đề. Mười hai muôn người đi theo vua Tần Bà Ta La được quả Tu Đà Hoàn. Vô lượng chúng sanh thành tựu nhẫn tâm.
Sau khi ta vào thành, độ ông Xá Lợi Phất và Đại Mục Kiền Liên cùng hai trăm năm mươi đệ tử của hai người, đều khiến bỏ tâm ngoại đạo theo ta xuất gia. Ta liền ở nơi thành Vương Xá nhận lấy sự cúng dường của vua Tần Bà Ta La. Hàng lục sư ngoại đạo hợp nhau qua ở nơi thành Xá Vệ.
(Hán bộ quyển thứ 30)
Trong thành Xá Vệ có một trưởng giả tên Tu Đạt Đa nhân việc hỏi vợ cho con nên đến thành Vương Xá, ngụ ở nhà của trưởng giả San Đàn Na. Giữa đêm trưởng giả dạy bảo các quyến thuộc lo quét rửa trần thiết nhà của cùng sắm sửa những thức ăn uống.
Ông Tu Đạt Đa nghĩ rằng: nhà này hoặc sắp sửa thỉnh vua, hay có lễ gã cưới hội hè gì chăng? Ông đem ý mình nghĩ mà hỏi trưởng giả San Đàn Na. Được biết rằng sáng ngày sẽ thỉnh Phật cùng giáo hội chư Tăng đến phó trai.
Ông Tu Đạt Đa nghe đến danh hiệu Phật, cả mình rởn ốc, liền hỏi rằng thế nào gọi là Phật? Trưởng giả đáp: Ông chẳng biết ư? Thành Ca Tỳ La có Thái Tử Thích Ca hiệu là Tất Đạt Đa, họ Cù Đàm, phụ vương là Bạch Tịnh. Lúc Thái Tử sanh ra, các nhà tướng sư bàn quyết định sẽ được lành Chuyển Luân Thánh Vương. Lớn lên Thái Tử bỏ sự giàu sang mà xuất gia, không thầy được giác ngộ chứng vô thượng Bồ Đề, hết tham, sân, si, thường trụ không biến đổi, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng còn lo sợ. Đối với chúng sanh tâm ngài bình đẳng thương đồng như ca mẹ thương con một. Dầu cao thượng hơn tất cả mà ngài không kiêu mạn. Với người kính mến cũng như với người ghét hại, lòng ngài không phân biệt. Trí huệ thông suốt đối với tất cả pháp không chướng ngại, đầy đủ mười trí lực, bốn vô sở úy, năm trí, đại từ, đại bi và tứ niệm xứ, do đầy đủ những công đức trên đây nên hiệu là Phật. Vì sáng ngày đức Phật sẽ đến nhà tôi thọ trai nên phải rộn ràng lo sắp đặt chẳng rỗi rảnh tiếp đãi nhau.
Tu Đạt Đa nói: Lành thay! Thưa trưởng giả! Đức Phật thật là công đức vô thượng, hiện nam Phật ngự tại đâu?
Trưởng giả đáp: hiện nam Phật đang ở tại Trúc Lâm Tinh Xá nơi thành Vương Xá này.
Lúc đó ông Tu Đạt Đa nhất tâm nghĩ tưởng đến công đức của chư Phật. Bỗng nhiên có ánh sáng như ban ngày chiếu đến. Ông liền theo ánh sáng đi đến cửa thành, do thần lực của Phật nên cửa thành tự mở. Ra khỏi cửa thành bên đường có miễu thờ trời, ông Tu Đạt Đa vô miễu lễ cúng. Lúc đó trời tối lại như cũ, ông sanh lòng sợ sệt bèn muốn trở về nhà ngủ. Trên cửa thành có thiên thần bảo Tu Đạt Đa rằng: Nếu ông đến chỗ đức Như Lai thời sẽ được nhiều lợi ích lành tốt. 
Ông Tu Đạt Đa thưa với thiên thần thế nào là lợi ích lành tốt?
Thiên thần đáp: Này trưởng giả! Giả sử có người đem trăm xe châu báu vàng bạc cùng voi ngựa và mỹ nữ, nhà cửa chạm trổ tốt đẹp, mâm vàng đựng lúa bạc, mâm bạc đựng lúa vàng, mỗi thứ đều đủ số một trăm, đem tất cả những thứ trên đây bố thí cho một người, lần lượt bố thí khắp tất cả người trong Diêm Phù Đề. Công đức bố thí này chẳng bằng có người phát tâm bước một bước đến chỗ Như Lai.
Tu Đạt Đa hỏi: ngài là ai?
Đáp rằng: Này trưởng giả! Tôi là Thắng Tướng Bà La Môn, bạn cũ của ông. Lúc còn sống, tôi thấy ngài Xá Lợi Phất và ngài Mục Kiền Liên sanh lòng hoan hỷ cung kính, do đó được sanh làm Thái Tử của Tỳ Sa Môn Thiên Vương, có bổn phận hộ trì thành Vương Xá này. Chỉ do cung kính ngài Xá Lợi Phất và ngài Đại Mục Kiền Liên mà tôi còn được thân trời tốt đẹp thế này, huống là được thấy đức Như Lai để đảnh lễ cúng dường!
Trưởng giả Tu Đạt Đa liền thẳng đường đến chỗ Phật, từ xa thấy Phật đi kinh hành thân chiếu sáng màu vàng, ông liền đến đảnh lễ dưới chân Phật. Lúc đó đức Phật vì ông mà thuyết pháp. Sau khi nghe pháp, trưởng giả Tu Đạt Đa chứng đặng quả Tu Đà Hoàn. Ông lại thỉnh Phật đến thành Xá Vệ để giáo hóa mọi người.
Đức Phật hỏi: "Nước Xá Vệ của ông có Tinh Xá có thể dung nạp giáo hội của ta chăng?" Tu Đạt Đa thưa: "Nếu đức Phật xót thương hứa khả, tôi tin tận lực về nước lo xây dựng. Ông lại bạch cùng Phật từ nào tới giờ tôi chưa hiểu cách thức kiến trúc Tinh Xá. Mong đức Phật cử một vị đến Xá Vệ chỉ bày cách thức cho."
Đức Phật liền sai ngài Xá Lợi Phất theo trưởng giả Tu Đạt Đa qua thành Xá Vệ.
Về đến Xá Vệ, trưởng giả Tu Đạt Đa thỉnh ngài Xá Lợi Phất chọn khu đất xứng đáng để lập Tinh Xá. Ngài Xá Lợi Phất chọn được khu vườn của Kỳ Đà Thái Tử. Trưởng giả Tu Đạt Đa liền vào cung thưa với Thái Tử xin nhường khu vườn ấy để mình lập Tinh Xá thỉnh Phật về ở.
Thái Tử đáp rằng: "Tôi không bán vườn, hoặc giả có đem vàng lót khắp mặt đất ta sẽ đổi cho."
Trưởng giả Tu Đạt Đa mừng rỡ thưa rằng: "Khu vườn ấy sẽ thuộc về tôi, Thái Tử sẽ lấy vàng."
Thái Tử nói ta không bán vườn.
Trưởng giả Tu Đạt Đa thưa nếu Thái Tử không bằng lòng xin đến quan đoán sự để giải quyết.
Quan đoán sự phán rằng: "Cứ theo lời của Thái Tử và trưởng giả giao ước nhau thời vườn thuộc về trưởng giả, Thái Tử lấy vàng."
Trưởng giả Tu Đạt Đa liền cho voi ngựa chở vàng đến lót, trong một ngày lót gần khắp cả vườn chỉ còn năm trăm bước.
Thái Tử nói: "Nếu trưởng giả hối hận thời tùy ý trả vườn lại tôi."
Trưởng giả thưa: "Tôi chẳng hối hận, tôi đương suy nghĩ coi kho vàng nào đủ lót khoảnh đất còn lại."
Thái Tử nghĩ rằng: "Có lẽ đức Phật thiệt là đấng pháp vương vô thượng, nên khiến ông này không tiếc vàng như vậy. Thái Tử liền bảo trưởng giả Tu Đạt Đa thôi đừng đem vàng lót nữa, tôi xin dâng hết đất vườn, và tự xây dựng cửa ngõ lầu để đức Như Lai thường do nơi đó mà ra vào.
Sau đó Thái Tử Kỳ Đà xây dựng cửa ngõ lầu. Trưởng giả Tu Đạt Đa trong bảy ngày dựng xong ba trăm căn phòng lớn, sáu mươi ba tòa thiền phòng tịch tịnh, cùng nhà mùa đông, nhà mùa hạ, nhà trù, nhà tắm, chỗ rửa chân, nhà đại tiểu tiện, tất cả cơ sở đều đầy đủ. Trưởng giả tay bưng lư hương quỳ hướng về thành Vương Xá mà bạch rằng: Tinh Xá xây dựng đã xong, ngưỡng mong đức Như Lai xót thương vì chúng sanh mà nhận ở nơi Tinh Xá này.
Lúc đó đức Phật ở thành Vương Xá rõ biết tâm niệm của trưởng giả Tu Đạt Đa, liền cùng đại chúng rời thành Vương Xá đến nước Xá Vệ. Trưởng giả đem tất cả giường nhà đã xây dựng phụng thí nơi Phật, Phật nhận lấy rồi cùng chúng tăng ở lại Tinh Xá Kỳ Hoàn.
Lúc đó hàng lục sư ngoại đạo sanh lòng tật đố, họp nhau đến ra mắt vua Ba Tư Nặc mà tâu rằng: "Tâu đại vương, đất nước của đại vương nhàn tịnh bằng thẳng, thiệt đáng chỗ cho người xuất gia ở tu, nên chúng tôi mới đến cư ngụ. Đại vương đem phép nước cai trị ngăn trừ sự tai hoạn cho nhân dân. Nay có Sa Môn Cù Đàm tuổi đã nhỏ, học lực lại kém, đạo thuật không có gì, nay đến ở nơi thành Xá Vệ này, dùng ảo thuật phỉnh gạt nhân dân, nói rằng các pháp đều vô thường, là khổ, là không, là vô ngã, là không tác giả, không thọ giả. Trong kinh của đạo chúng tôi có đoạn nói rằng qua khỏi ngàn năm có một người yêu thuật huyễn hóa ra đời: lời trên đây chính là ứng chỉ Sa Môn Cù Đàm vậy. Cúi mong đại vương cho phép chúng tôi cùng Sa Môn Cù Đàm so sánh đạo lực. Nếu Cù Đàm hơn chúng tôi, chúng tôi sẽ quy thuộc về Cù Đàm. Nếu chúng tôi hơn Cù Đàm, thời họ sẽ phải quy thuộc về chúng tôi."
Vua bảo: "Này các đại đức! Các ông đều có phương pháp tu hành riêng, có chỗ ở riêng. Tôi biết chắc rằng đức Như Lai không làm trở ngại các ông."
Sáu nhà ngoại đạo tâu rằng: "Tâu đại vương! Sa Môn Cù Đàm đối với chúng tôi có nhiều sự trở ngại, họ dùng ảo thuật gạt gẫm dụ dỗ nhân dân, làm cho mọi người quy phục theo họ đã hết. Xin đại vương theo lẽ công bằng cho phép chúng tôi cùng Sa Môn Cù Đàm so sánh đạo lực."
Vua nói: "Này các đại đức! Bởi các ông chưa biết đạo lực thần thông cao cả của đức Như Lai nên mới nài so sánh. Sợ rằng các ông chẳng bằng được."
- Tâu đại vương! Nay có lẽ đại vương đã mắc ảo thuật của Sa Môn Cù Đàm. Ngưỡng mong đại vương xét kỹ lại, chấp thuận lời yêu cầu của chúng tôi.
- Được lắm! Được lắm! Ta chấp thuận lời yêu cầu của các ông.
Sáu nhà ngoại đạo cùng đồ chúng vui mừng tạ ơn vua mà lui về.
Vua Ba Tư Nặc liền xa giá đến lễ Phật và bạch rằng: "Thế Tôn! Vừa rồi sáu nhà ngoại đạo yêu cầu tôi cho phép so đạo lực với đức Như Lai, tôi mạn phép hứa với họ."
Phật nói: "Lành thay! Lành thay! Này đại vương! Chỉ có điều là nên ở trong nước này tạo lập thêm Tinh Xá. Vì nếu ta cùng họ so sánh đạo lực thần thông, thời trong chúng của họ tất sẽ có nhiều người quy phục theo ta, Tinh Xá Kỳ Hoàn này không đủ chỗ để dung nạp."
Lúc đó, đức Phật vì muốn điều phục sáu phái ngoại đạo, nên trong mười lăm ngày hiện đại thần thông. Vô lượng chúng sanh do đây mà phát tâm vô thượng Bồ Đề, vô lượng chúng sanh quy tín ngôi Tam Bảo. Đồ chúng của sáu nhà ngoại đạo, vô lượng người bỏ tâm tà kiến, xuất gia theo chánh pháp. Vô lượng chúng sanh được bất thối đạo vô thượng Bồ Đề. Vô lượng chúng sanh được Đà La Ni cùng chánh định. Vô lượng chúng sanh chứng quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán.
Lúc đó, sáu nhà ngoại đạo hổ thẹn dắt nhau qua thành Bà Chỉ Đa để truyền giáo.
Lúc đó, đức Phật lên cung trời Đạo Lợi an cư nơi cây Ba Lợi Chất Đa, để vì mẹ và chư thiên mà thuyết pháp.
Sáu nhà ngoại đạo hay tin mừng lắm, chia nhau đi truyền rao rằng: nay thật là hân hạnh, nhà ảo thuật Cù Đàm đã diệt mất. Họ khuyến dụ vô số người tin theo tà kiến.
Vua Tần Bà Ta La, vua Ba Tư Nặc và bốn bộ chúng thưa ngài Đại Mục Kiền Liên rằng: Bạch Đại Đức! Nay cõi Diêm Phù Đề này tà kiến thịnh hành, chúng sanh đi vào chỗ tối tăm, thật đáng thương xót. Ngưỡng mong Đại Đức lên cung trời đảnh lễ Thế Tôn, thay lời chúng tôi bạch cùng đức Phật: như con nghé mới sanh, nếu không nhờ sữa trâu mẹ chắc sẽ phải chết, chúng tôi và mọi người cũng như vậy. Ngưỡng mong đức Như Lai thương xót chúng sanh mà trở về.
Đại Mục Kiền Liên yên lặng hứa khả, như trong khoảng co duỗi cánh tay của đại lực sĩ, ngài đã lên đến cung trời Đao Lợi bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Tứ chúng trong cõi Diêm Phù Đề khao khát được thấy Phật và được nghe pháp của đức Như Lai. Vua Tần Bà Ta La, vua Ba Tư Nặc và đại chúng đồng đảnh lễ đức Như Lai. Hiện nay chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề mê theo tà kiến, đi trong bóng tối tăm thật đáng thương xót, như con nghé mới sanh, nếu rời sữa mẹ chắc sẽ phải chết, chúng tôi cũng như vậy. Ngưỡng mong đức Như Lai vì thương xót chúng sanh mà trở lại Diêm Phù Đề.
Phật bảo: "Ông mau trở về bảo các Quốc Vương và bốn bộ chúng rằng: sau bảy ngày đức Phật sẽ trở xuống. Vì sáu nhà ngoại đạo, đức Phật sẽ đến nơi thành Bà Chỉ Đa."
Qua bảy ngày, đức Phật cùng Đế Thích, Phạm Vương, với vô lượng chư thiên rời cung trời xuống đến thành Bà Chỉ Đa. Đức Phật tuyên rằng: chỉ trong Phật pháp mới thiệt có Sa Môn và Bà La Môn. Tất cả các pháp là vô thường, vô ngã, niết bàn tịch tịnh rời những lỗi ác, nếu nói giáo pháp khác cũng có Sa Môn và Bà La Môn, có thường, có ngã, có Niết Bàn đó thời không bao giờ đúng.
Khi Phật tuyên nói những lời như trên, vô lượng vô biên chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Sáu nhà ngoại đạo bảo nhau rằng: "Nếu trong giáo pháp của chúng ta thiệt không có Sa Môn và Bà La Môn, tại sao lại được người đời cúng dường". Bấy giờ sáu nhà ngoại đạo lại tựu hội đồ chúng đi đến thành Tỳ Xá Ly.
Một thời gian sau, đức Phật đến thành Tỳ Xá Ly ở trong rừng cây Am La.
Hay tin đức Phật ở trong rừng này, nàng Am La muốn đến ra mắt đức Phật.
Lúc đó đức Phật bảo các Tỳ Kheo: "Các ông phải quán Tứ niệm xứ, khéo tu trí huệ, phải tinh tấn, chớ phóng dật.
Thế nào gọi rằng quán Tứ niệm xứ? Nếu có thầy Tỳ Kheo quan sát trong thân mình chẳng thấy ngã, chẳng thấy ngã sở, quan sát ngoài thân và quan sát cả trong thân ngoài thân, đều chẳng thấy có ngã và ngã sở. Quan sát thọ, tâm và pháp cũng như vậy. Đây gọi là quan sát niệm xứ.
Thế nào gọi là tu tập trí huệ? Nếu có thầy Tỳ Kheo chân thật thấy tứ đế lý: khổ tập diệt đạo, đây gọi là Tỳ Kheo tu tập trí huệ.
Thế nào gọi là tâm chẳng phóng dật? Nếu có thầy Tỳ Kheo niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm giới, niệm xả, niệm thiên. Đây gọi là thầy Tỳ Kheo tâm chẳng phóng dật.
Bấy giờ nàng Am La đến đảnh lễ và đi nhiễu Phật ba vòng, rồi ngồi qua một bên.
Đức Phật vì nàng Am La mà giảng nói chánh pháp. Nàng Am La sau khi nghe pháp liền phát tâm vô thượng Bồ Đề. Lúc đó, trong thành Tỳ Xá Ly, có năm trăm Lê Xa Tử, đồng đến chỗ Phật đảnh lễ đi nhiễu, rồi ngồi qua một bên.
Đức Phật vì hàng Lê Xa Tử mà thuyết pháp rằng: này các thiện nam tử! Luận về người phóng dật có năm kết quả không tốt: một là chẳng được của cải tự tại, hai là tiếng xấu truyền xa, ba là chẳng thích bố thí cho người nghèo thiếu, bốn là chẳng thích thấy bốn bộ chúng, năm là chẳng đặng thân chư thiên. Này các thiện nam tử! Do nơi chẳng phóng dật có thể sanh ra pháp lành thế gian và xuất thế gian. Nếu có người muốn được vô thượng Bồ Đề nên phải siêng năng tu hạnh chẳng phóng dật.
Luận về người phóng dật lại còn có mười ba quả báo: một là thích vì đời mà làm lụng, hai là thích nói những lời vô ích, ba là thường thích nằm lâu ngủ nhiều, bốn là thích nói việc đời, năm là thích gần gũi bạn ác, sáu là thích biếng lười, bảy là thường bị người khác khinh dễ, tám là dầu có học hỏi liền quên mất, chín là thích ở nơi biên địa, mười là chẳng thể điều phục các căn, mười một là ăn chẳng biết đủ, mười hai là chẳng thích vắng vẻ, mười ba là chỗ thấy biết chẳng chân chánh.
Này các thiện nam tử! Luận về người phóng dật dầu được gần Phật và thánh chúng, nhưng vẫn là cách xa.
Các Lê Xa Tử bạch rằng: Chúng tôi tự biết mình là người phóng dật. Vì nếu chúng tôi chẳng phóng dật, đấng Như Lai pháp vương sẽ ra đời trong cõi nước của chúng tôi.
Lúc đó trong đại hội có nhà Bà La Môn tên là Vô Thắng nói với các Lê Xa Tử rằng: "Phải lắm! Đúng như lời các ông nói. Vua Trần Bà Ta La được lợi ích lớn, vì đức Như Lai Thế Tôn xuất hiện trong cõi nước đó. Như trong ao lớn mọc lên hoa sen đẹp, hoa sen dầu mọc trong nước, nhưng nước chẳng vấy lấm được.
Đức Phật cũng như vậy, dầu xuất hiện trong nước kia mà chẳng bị pháp thế gian làm trở ngại.
Chư Phật không có xuất nhập, nhưng vì chúng sanh mà xuất hiện ra đời, chẳng bị pháp thế gian làm trệ ngại.
Các ông tự mê tham đắm nơi ngũ dục, chẳng biết gần gũi đức Như Lai để nghe pháp, do đó nên gọi là hạng người phóng dật. Chẳng phải đức Phật xuất hiện nơi nước Ma Già Đà mà gọi các ông là người phóng dật. Vì đức Như Lai như mặt trời, mặt trăng kia, chẳng phải vì một người hai người mà xuất hiện ra đời."
Năm trăm Lê Xa Tử nghe ông Đức Vô Thắng Bà La Môn nói những lời như trên liền phát tâm vô thượng Bồ Đề. Đồng tiếng tán thán rằng: Lành thay! Lành thay! Vô Thắng đồng tử nói những lời rất lành, rất hay như vậy. Các Lê Xa Tử mỗi người cởi y đang đắp trên thân đem cúng thí cho Vô Thắng.
Vô Thắng nhận lấy đem dâng lên Phật, bạch rằng: "Thế Tôn! Những y này tôi nhận lấy của hàng Lê Xa Tử, xin dâng lên đức Thế Tôn. Ngưỡng mong đức Thế Tôn vì thương xót chúng sanh mà nạp thọ."
Đức Phật mở lòng từ bi liền lãnh lấy những y ấy.
Các Lê Xa Tử đồng chắp tay bạch rằng ngưỡng mong đức Như Lai an cư nơi nước này một mùa, và nhận sự cúng dường của chúng tôi. Đức Phật yên lặng nhận lời thỉnh của Lê Xa Tử.
Lúc đó sáu nhà ngoại đạo nghe được việc này, thầy trò kéo nhau đi qua thành Ba La Nại.
Đức Phật lại đi qua thành Ba La Nại ở bên bờ sông Ba La.
Nơi thành Ba La Nại có vị trưởng giả tên là Bửu Xưng. Ông này say mê ngũ dục, chẳng biết lý vô thường. Do Phật đến ở, trưởng giả Bửu Xưng tự nhiên chứng được bạch cốt quán: tự thấy nhà cửa, điện đường, vợ con, quyến thuộc, tôi tớ, đều toàn là những bộ xương trắng. Lòng ông kinh sợ như sợ dao, rắn độc, giặc cướp, lửa. Ông liền ra khỏi nhà, thẳng đến chỗ Phật, dọc đường luôn miệng kêu rằng: "Sa Môn Cù Đàm! Nay tôi như là bị giặc rượt đuổi, lòng tôi quá kinh sợ, xin mau cứu tôi!"
Phật bảo trường giả rằng: "Này thiện nam tử! Phật pháp và chúng tăng vẫn an ổn, không sự lo sợ."
Trưởng giả bạch rằng: "Nếu trong Tam Bảo không sự kinh sợ, nay tôi cũng sẽ được không kinh sợ."
Đức Phật liền cho trưởng giả xuất gia tu hành.
Trưởng giả này lại có năm mươi người bạn thân, nghe tin trưởng giả Bửu Xưng nhàm chán dục lạc trong đời mà xuất gia, liền cùng nhau đồng xuất gia.
Sáu nhà ngoại đạo nghe việc này, liền dắt đồ chúng đi qua thành Chiêm Bà.
Lúc đó tất cả nhân dân trong nước Chiêm Bà đều cùng nhau phụng sự sáu nhà ngoại đạo, họ chưa từng nghe danh hiệu của Phật, Pháp, Tăng, phần đông gây tạo những nghiệp rất ác.
Đức Phật vì chúng sanh nên lại đi qua thành Chiêm Bà.
Trong thành này có vị đại trưởng giả không con nối dòng, bèn phụng thờ sáu nhà ngoại đạo để cầu con. Thời gian sau vợ trưởng giả có thai. Trưởng giả vui mừng đến thưa với sáu nhà ngoại đạo: vợ tôi có thai là nam hay nữ?
Sáu nhà ngoại đạo đáp rằng: "Chắn chắn sẽ sanh con gái."
Trưởng giả nghe lời này sanh lòng sầu não. Thân hữu hỏi trưởng giả: "Cớ sao ông quá sầu não như vậy?"
Trưởng giả đáp vợ tôi có thai chưa biết là nam hay nữ nên tôi đến hỏi lục sư, các ngài bảo chắc chắn là con gái. Tôi tự nghĩ tuổi đã già, sự nghiệp to lớn, tài sản vô lượng. Nếu không phải con trai thời không người giao phó. Do đây nên tôi sầu não.
Thân hữu nói rằng: "Ông không có trí huệ, ngày trước ông cũng đã nghe rằng ba anh em Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp là đệ tử của ai? Đệ tử của Phật hay đệ tử của lục sư? Nếu lục sư là bậc nhất thiết trí, sao ba anh em Ca Diếp bỏ họ mà làm đệ tử của Phật? Lại Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, các vị quốc vương như Tần Bà Ta La, các vị phu nhân như bà Mạt Lợi, các vị đại trưởng giả như ông Tu Đạt Đa, những người ấy chẳng phải là đệ tử của Phật ư?
Khoáng Đã quỷ thần, vua A Xà Thế, voi say, Ươn Quật Ma La ác tâm muốn hại mẹ, những người này há chẳng phải nhờ đức Phật điều phục ư?
Đức Như Lai Thế Tôn biết rõ tất cả pháp không bị chướng ngại nên hiệu là Phật. Lời nói ra duy nhất, không dời đổi, nên hiệu là Như Lai. Dứt hết phiền não nên gọi là A La Hán. Đức Thế Tôn phàm có nói ra trọn không sai. Lục sư chẳng phải như vậy, đâu đáng tin được.
Nay đức Như Lai đang ở nước này gần nơi đây, nếu ông muốn biết sự thiệt thời nên đến Phật."
Lúc đó trưởng giả cùng thân hữu đến chỗ Phật đảnh lễ đi nhiễu ba vòng, rồi quỳ chắp tay bạch rằng: "Đức Thế Tôn đối với chúng sanh bình đẳng, không oán không thân. Tôi còn bị tham ái ràng buộc, nay muốn hỏi đức Thế Tôn một việc, nhưng tự mình hổ thẹn chưa dám nói ra.
Bạch Thế Tôn! Vợ tôi có thai, lục sư bảo rằng chắc chắn là con gái. Xin đức Phật phán việc ấy thế nào?"
Phật nói: "Này trưởng giả, vợ ông có thai quyết định là trai, đứa trẻ này sau khi sanh ra thời phước đức không ai bằng."
Trưởng giả nghe lời Phật dạy vui mừng làm lễ tạ đức Phật mà trở về nhà.
Sáu nhà ngoại đạo nghe Phật huyền ký vợ trưởng giả quyết định sẽ sanh con trai có phước đức lớn, lòng họ ganh ghét, họ liền lấy trái Am La tẩm thuốc độc, rồi mang đến nhà biếu trưởng giả mà nói rằng. Tốt thay! Ông Cù Đàm bàn điều ấy rất hay. Gần ngày sanh vợ ông nên uống thuốc này sẽ bảo đảm cho mẹ cùng con lúc sanh sản không bệnh hoạn.
Trưởng giả mừng lắm nhận lấy thuốc của lục sư cho vợ uống. Uống xong vợ trưởng giả trúng độc mà chết.
Lục sư vui mừng chia nhau đi khắp trong thành truyền rao rằng: Sa Môn Cù Đàm tự khoe là nhất thiết trí, nói vợ trưởng giả sẽ sanh con trai phước đức không ai sánh bằng, nay con chưa sanh mà mẹ đã chết.
Trưởng giả lại đối với Phật mất cả lòng tin. Ông liền theo nghi lễ thế gian tẩm liệm thây vợ, rồi đưa ra ngoài thành chất củi để thiêu.
Do đạo nhãn thấy rõ việc này, đức Phật bảo A Nan đem y đến cho Phật đắp và bảo rằng: Ta muốn đến chỗ hỏa táng để trừ dứt tà kiến cho chúng sanh.
Lúc đó Tỳ Sa Môn Thiên Vương bảo Thiên tướng là Na Ni Bạt Đà rằng: Nay đức Như Lai muốn đến khu gò mả, khanh phải mau đến đó sửa sang quét tước trải tòa sư tử, rải những hoa đẹp hương thơm, trần thiết trang nghiêm chỗ ấy.
Lục sư thấy Phật đằng xa đi đến họ bảo nhau rằng: Sa Môn Cù Đàm đến trong gò mả này hoặc giả muốn ăn thịt ư!
Lúc bấy giờ nơi ấy có nhón Ưu Bà Tắc chưa chứng được pháp nhãn, nghe lời nói của lục sư thời đều hổ thẹn cùng nhau đón Phật bạch rằng: vợ của trưởng giả đã chết, xin Thế Tôn chớ đến đó.
A Nan liền nói với các vị Ưu Bà Tắc: "Các ông chờ giây lát, đức Như Lai sẽ hiển bày cảnh giới của chư Phật."
Phật đến gò mả lên ngồi tòa sư tử.
Trưởng giả đến trước Phật trách rằng: "Bậc nhất thiết trí lời nói ra đúng sự thật không sai mới đáng gọi là Thế Tôn! Nay mẹ thời đã chết mất làm sao sanh được con trai phước đức?"
Phật bảo trưởng giả: "Hôm trước ông chẳng hỏi tôi về sự chết sống của bà mẹ. Chỉ hỏi có thai là trai hai gái."
Chư Phật Như Lai phàm lời nói ra đúng thật không sai, do đây nên phải biết rằng ông quyết định sẽ được con trai phước đức.
Lúc đó lửa thiêu tử thi bụng nứt ra, có đứa trẻ trai từ trong bụng lọt ra ngồi ngay thẳng trong lửa như chim Oan Ươn đậu trên gương sen.
Lục sư ngó thấy lại to tiếng la lên rằng: "Sa Môn Cù Đàm là yêu quái khéo làm ảo thuật."
Trưởng giả vui mừng quở trách lục sư: "Nếu cho là ảo thuật tại sao các ông chẳng làm." Phật liền nảo Kỳ Bà: "Ông vào trong lửa bồng đứa trẻ lại đây."
Kỳ Bà đi đến gần đống lửa, lục sư lật đật đi đến kéo lại nói rằng: "Sa Môn Cù Đàm làm ảo thuật chưa ắt là luôn được hoàn toàn, nếu ông vào trong lửa e không khỏi bị hại, sao ông lại quá tin lời của Cù Đàm."
Kỳ Bà đáp rằng: "Giả sử đức Như Lai ra vào địa ngục A Tỳ, lửa dữ trong địa ngục còn không đốt cháy được huống là lửa trong thế gian."
Lúc đó Kỳ Bà đi thẳng vào trong đống lửa như vào trong nước mát mẻ, bồng đứa trẻ trở ra đến chỗ Phật, hai tay trao đứa trẻ cho Phật.
Đức Phật tiếp lấy đứa trẻ mà bảo trưởng giả rằng: "Tất cả chúng sanh thọ mạng chẳng quyết định như bóng nước nổi trên mặt nước. Nếu chúng sanh có nghiệp quả sâu nặng thời lửa chẳng cháy được, độc chẳng hại được. Phước đức của đứa trẻ này chẳng phải là ta làm ra."
Trưởng giả bạch rằng: "Lành thay! Bạch Thế Tôn! Ngưỡng mong đức Như Lai đặt tên cho nó." Đức Phật nói: "Này trưởng giả! Trẻ này sanh ở trong đống lửa lớn, lửa gọi là thọ đề, nên đặt tên cho nói là Thọ Đề."
Lúc đó quần chúng hiện diện nghe và thấy việc này vô lượng người phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Sau đó sáu nhà ngoại đạo kéo nhau đi khắp sáu nước lớn không chỗ nào ở yên được, họ lại đến nơi thành Câu Thi Na, họ chia nhau đi truyền rao rằng: Mọi người nên biết rằng Sa Môn Cù Đàm là nhà đại ảo thuật, phỉnh gạt trong thiên hạ khắp hết sáu nước lớn. Như nhà ảo thuật hóa làm bốn đạo binh chiến xa, chiến mã, voi trận, bộ binh. Lại biến hóa làm các thứ châu báu, cung điện thành trì, sông ngòi, cây cối. Sa Môn Cù Đàm cũng như vậy, huyễn hóa làm ra thân vua để thuyết pháp, hoặc biến làm Sa Môn, Bà La Môn, biến làm thân nam người nữ, thân nhỏ thân lớn. hoặc biến làm thân súc sanh, quỷ thần, hoặc nói vô thường, hoặc nói thường trụ, có lúc nói là khổ, có lúc nói là vui, hoặc nói có ngã, hoặc nói không ngã, có tịnh, không tịnh, lúc thời nói có lúc lại nói không, đó là những lời hư vọng nên gọi là ảo thuật.
Như nhân hột giống mà có trái, Sa Môn Cù Đàm cũng như vậy, do bà Ma Da sanh ra, mẹ đã là huyễn ảo thời con không thể chẳng phải là huyễn ảo. Sa Môn Cù Đàm không có tri kiến chân thật. Các vị Bà La Môn trải qua nhiều năm tu tập khổ hạnh giữ gìn cấm giới còn tự nói rằng chưa có tri kiến chân thật. Huống là Cù Đàm tuổi còn trẻ, học lực cạn cợt, chẳng tu khổ hạnh, làm sao có được tri kiến chân thật, nếu có thể khổ hạnh đủ bảy năm còn chẳng phải là nhiều, huống là Cù Đàm tu tập khổ hạnh chẳng đầy sáu năm. Có người ngu vô trí mới tin học theo giáo pháp của Cù Đàm. Như nhà huyễn thuật phỉnh gạt người ngu, Sa Môn Cù Đàm cũng như vậy. Sáu nhà ngoại đạo ở trong thành Câu Thi Na này làm cho chúng sanh thêm nhiều tà kiến.
Phật bảo Sư Tử Hống Bồ Tát: "Ta thấy việc như vậy sanh lòng xót thương, nên dùng thần lực triệu thỉnh các vị Bồ Tát ở mười phương vân tập trong rừng này chật cả bốn mươi do diên. Nay ở nơi đây ta hiện đại sư tử hống. 
Ở nơi chỗ trống trải vắng vẻ dầu có thuyết pháp nhiều cũng chẳng được gọi là sư tử hống. Ở trong đại chúng toàn bậc trí huệ như đây mà thuyết pháp mới được gọi là chân thật đại sư tử hống.
Sư tử hống là thuyết minh tất cả pháp đều vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh. Chỉ nói Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh.
Lục sư lại nói rằng: "Nếu Cù Đàm có ngã ta cũng có ngã. Chỗ nói là ngã đó: Cái thấy gọi là ngã.
Này Cù Đàm! Ví như có người hướng trong đây thấy đồ vật, ngã cũng như vậy. Hướng là dụ cho con mắt, người thấy dụ cho ngã."
Phật bảo lục sư: "Nếu nói cái thấy gọi là ngã, thời không đúng nghĩa. Vì điều dụ của các ông vừa dẫn ra nhân hướng mà thấy, người ở một hướng, sáu căn đều có tác dụng. Nếu quyết định có ngã nhân nơi con mắt mà thấy, sao lại chẳng như trong một nhãn căn kia đều nhân biết các trần cảnh? Nếu trong một căn chẳng thể đồng thời nghe cả sáu trần, phải biết rằng đó là không có ngã. Điều dụ hướng thấy vật, dầu trải qua trăm năm, người thấy nhân nơi đó chỗ thấy vẫn không khác. Nhãn căn nếu như vậy, đến lúc tuổi già mắt kém lẽ ra không khác. Người cùng hướng khác nhau, thấy trong thấy ngoài đồng một thời đều thấy. Nếu là chẳng thấy, sao lại có ngã."
Lục sư lại nói rằng: "Này Cù Đàm! Nếu không có ngã, thời ai có thể thấy?" Phật nói có sắc, có ánh sáng, có tâm, có nhãn căn, bốn duyên này hòa hiệp nên gọi là có thấy. Trong đây thiệt không có người thấy người thọ. Vì điên đảo nên chúng sanh cho là có người thấy có kẻ thọ. Do nghĩa này nên tất cả chúng sanh chỗ thấy biết đều điên đảo, chỗ thấy biết của chư Phật và Bồ Tát là chân thật.
- Này lục sư! Nếu nói rằng sắc là ngã thời cũng chẳng phải. Vì sắc thiệt cũng chẳng phải là ngã. Sắc nếu là ngã lẽ ra chẳng nên có hình dạng xấu xa. Cớ sao lại có bốn tánh sai khác, chẳng đồng một dòng Bà La Môn ư? Sao lại có kẻ nô lệ chẳng tự do? Có người tàn tật, lúc sanh ra căn thân chẳng đầy đủ? Cớ sao chẳng làm thân chư thiên, mà lại thọ thân địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ? Nếu chẳng có thể tùy ý để làm ra thân, nên biết rằng quyết định là không có ngã. Do vì không ngã nên gọi là vô thường. Vì vô thường nên phải khổ. Vì khổ nên là rỗng không. Vì rỗng không nên điên đảo. Vì điên đảo nên tất cả chúng sanh lưu chuyển trong dòng sanh tử.
Như sắc, thọ tưởng hành và thức cũng vậy.
Này lục sư, đức Như Lai Thế Tôn dứt hẳn sự ràng buộc của sắc cũng như dứt hẳn sự ràng buộc của thức v.v…, vì thế nên Như Lai gọi là thường, lạc, ngã, tịnh.
Lại sắc chính là nhân duyên. Nếu đã là nhân duyên thời gọi là vô ngã. Nếu là vô ngã thời gọi là khổ không. 
Thân của Như Lai chẳng phải nhân duyên. Vì chẳng phải nhân duyên nên gọi là có ngã. Nếu có ngã thời chính là thường, lạc, ngã, tịnh.
Lục sư lại nói: "Này Cù Đàm! Sắc chẳng phải ngã nhẫn đến thức cũng chẳng phải ngã, thế thì ngã khắp tất cả chỗ như hư không."
Phật nói: "Nếu khắp mọi chỗ đều có ngã, thời lẽ ra chẳng nên nói rằng: trước kia tôi chẳng thấy. Nếu trước kia chẳng thấy, thời biết rằng sự thấy này trước không nay có, nên gọi là vô thường. Nếu gọi là vô thường sao lại nói là khắp được.
Nếu ngã là khắp tất cả chỗ đều có, lẽ ra phải có đủ tất cả thân trong năm loài. Nếu có đủ thân, thời lẽ ra đều thọ báo. Nếu đã đều thọ báo, sao lại nói rằng trở lại thọ thân trời…?
Các ông nói ngã là khắp đó, thời ngã là một hay là nhiều?
Ngã nếu là một thời lẽ ra không có cha con, kẻ thù người thân. Ngã nếu là nhiều, căn thân của tất cả chúng sanh lẽ ra đều đồng như nhau, bao nhiêu những việc làm và trí huệ lẽ ra cũng đồng như vậy, nếu đồng như nhau sao lại nói rằng có người thân căn đầy đủ, có người thiếu kém tàn tật, nghiệp lành nghiệp ác, kẻ ngu người trí khác nhau?"
- Này Cù Đàm! Ngã của chúng sanh không có ngằn mé, pháp cùng phi pháp thời có chừng ngằn. Chúng sanh thực hành đúng pháp thời được thân tốt đẹp. Nếu chúng sanh thực hành phi pháp thời mang thân xấu xa. Do nghĩa này nên nghiệp quả của chúng sanh chẳng được không sai khác.
- Này lục sư! Nếu pháp cùng phi pháp là như vậy thời ngã chẳng cùng khắp. Nếu ngã là cùng khắp thời lẽ ra đều đến tất cả. Nếu ngã đều đến tất cả thời người thực hành pháp lành lẽ ra cũng có ác, người thực hành điều ác lẽ ra cũng có lành. Nếu không như vậy sao lại nói rằng ngã là cùng khắp.
- Này Cù Đàm! Như trong một nhà thắp trăm ngàn ngọn đèn, mỗi ngọn đèn tự chiếu sáng chẳng trở ngại nhau. Ngã của chúng sanh cũng như vậy, thực hành điều lành điều ác chẳng xen lộn nhau.
- Này lục sư! Nếu các ông nói rằng ngã như ngọn đèn thời không đúng nghĩa. Vì ánh sáng ngọn đèn kia theo duyên mà có, ngọn đèn thêm lớn thời ánh sáng cũng thêm nhiều. Ngã của chúng sang chẳng phải như vậy. Ánh sáng từ ngọn đèn chiếu ra, chỗ của ánh sáng khác chỗ với ngọn đèn. Ngã của chúng sanh chẳng được từ nơi thân mà ra ở nơi chỗ khác. Ánh sáng của ngọn đèn kia ở chung chỗ với bóng tối, vì như trong căn nhà tối, lúc thắp một ngọn đèn chiếu chẳng sáng tỏ, thắp nhiều ngọn đèn thời được tỏ sáng. Nếu ngọn đèn ban đầu phá hết bóng tối thời lẽ ra chẳng cần đến ngọn đèn sau. Nếu cần phải nhờ ngọn đèn sau mới hết bóng tối, thời nên biết rằng ánh sáng của ngọn đèn ban đầu cùng ở chung chỗ với bóng tối.
- Này Cù Đàm! Nếu là không có ngã thời ai làm lành làm ác?
- Nếu là ngã tạo tác thời sao lại gọi là thường? Nếu ngã là thường, tại sao có lúc làm lành, có lúc lại làm ác? Nếu cho rằng có lúc làm lành, có lúc làm ác, tại sao lại nói rằng ngã không ngằn mé. Nếu là ngã tạo tác, cớ chi lại tập làm điều ác. Nếu như ngã là tác giả, là tri giả, cớ chi lại sanh nghi rằng chúng sanh không có ngã.
Do nghĩa trên đây nên biết rằng trong pháp của ngoại đạo quyết định không có ngã. Nếu nói là ngã, thời nên biết rằng chính là đức Như Lai, vì thân Như Lai không ngằn mé, không ngờ vực, chẳng làm chẳng thọ, nên gọi là thường trụ, Như Lai bất sanh bất diệt nên gọi là lạc, vì Như Lai không có phiền não nên gọi là tịnh, không có mười tướng nên gọi là không. Do đây nên Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh, rỗng rang không có các tướng.
Các nhà ngoại đạo nói rằng: "Nếu nói Như Lai là thường, lạc, ngã, tịnh, vì không có tướng nên là không, phải biết rằng giáo pháp của Cù Đàm nói ra thời chẳng phải là không vậy. Vì thế nên nay chúng ta phải cung kính thọ trì."
Lúc đó trong hàng ngoại đạo có vô lượng người sanh lòng kính xin xuất gia theo Phật pháp.
Phật bảo Sư Tử Hống Bồ Tát: "Này thiện nam tử! Do nhân duyên nên ta ở nơi rừng Ta La Song Thọ này hiển bày đại sư tử hống. Sư tử hống gọi là Đại Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Cặp cây bên hướng đông tiêu biểu rằng phá vô thường mà được thường trụ. Cặp cây bên hướng nam tiêu biểu rằng phá khổ mà được lạc. Cặp cây bên hướng tây tiêu biểu rằng phá vô ngã mà được chân ngã. Cặp cây bên hướng bắc tiêu biểu rằng phá bất tịnh mà được chân tịnh.
Này thiện nam tử! Chúng sanh trong đây vì bốn cặp cây Song Thọ nên bảo hộ rừng Ta La, chẳng cho người ngoài đến bẻ nhánh hái lá đốt chặt phá hoại. Ta cũng như vậy, vì bốn pháp thường, lạc, ngã, tịnh, nên khiến hàng đệ tử hộ trì Phật pháp.
Bốn cặp Song Thọ này bốn Đại Vương quản trị săn sóc. Ta vì bốn Đại Vương hộ trì chánh pháp của ta, nên ta ở trong đây mà nhập Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Bốn cặp cây Ta La này bông trái thường sum suê, thường có thể lợi ích cho vô lượng chúng sanh. Ta cũng như vậy, thường có thể lợi ích cho vô lượng Thanh Văn Duyên Giác. Bông dụ cho ngã, trái dụ cho lạc. Do nghĩa này nên ta ở trong rừng cây Ta La Song Thọ nhập đại tịch diệt. Đại tịch diệt đây gọi là Đại Niết Bàn."
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Cớ gì đức Như Lai nhập Niết Bàn trong tháng hai?"
- Này thiện nam tử! Tháng hai gọi là mùa xuân, tháng mùa xuân muôn vật đều sanh trưởng, gieo trồng cây cối, bông trái tươi tắn xinh đẹp, sông rạch đầy nước, trăm thú sanh sản, do đây nên chúng sanh phần nhiều có quan niệm là thường là vui.
Vì phá quan niệm cho là thường như vậy, nên ta nói tất cả pháp đều là vô thường, chỉ nói đức Như Lai là thường trụ hẳn biến đổi.
Này thiện nam tử! Ở trong ba mùa sáu tiết, mạnh đông cây cối khô héo, mọi người chẳng ưa thích. Mạnh xuân hòa ấm mọi người tham ưa. Vì phá sự tham ưa thế gian của chúng sanh nên ta diễn nói thường, lạc, ngã, tịnh. Đức Như Lai vì phá thế ngã, thế tịnh, nên nói Như Lai là chân thiệt ngã tịnh.
Nói tháng hai là dụ cho hai thứ pháp thân của Như Lai.
Mùa đông chẳng ưa thích, là người trí chẳng thích Như Lai vô thường nhập Niết Bàn. Tháng hai mùa xuân vui thích, là dụ cho người trí ưa thích Như Lai: thường, lạc, ngã, tịnh. Gieo trồng dụ cho chúng sanh nghe pháp vui mừng phát tâm vô thượng Bồ Đề, vun trồng các căn lành. Sông rạch là dụ cho các đại Bồ Tát ở mười phương đến chỗ Ta nghe học kinh Đại Niết Bàn.
Trăm thú sanh sản là dụ cho hàng đệ tử của ta sanh các căn lành.
Bông là dụ cho bảy giác chi. Trái là dụ cho bốn đạo quả.
Do những nghĩa này, nên Ta nhập Niết Bàn trong tháng hai.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Đức Như Lai lúc sơ sanh, xuất gia, thành đạo chuyển pháp luân đều ở vào ngày mùng tám, cớ chi riêng nhập Niết Bàn ở đêm rằm?"
Phật bảo: "Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Như mặt trăng rằm tròn đầy không khuyết, chư Phật Như Lai cũng như vậy, nhập Đại Niết Bàn không có kém khuyết. Vì thế nên Như Lai nhập Đại Niết Bàn vào đêm rằm.
Này thiện nam tử! Như đêm rằm, lúc mặt trăng tròn có mười một điều: một là phá tối tăm; hai là khiến chúng sanh thấy rõ đường sá; ba là khiến chúng sanh thấy đường ngay đường cong; bốn là trừ nóng nực được mát mẻ; năm là phá lòng cao ngạo của lửa đom đóm; sáu là dứt tất cả tưởng niệm trộm cướp; bảy là trừ lòng sợ ác thú của chúng sanh; tám là có thể làm cho hoa sen xanh nở; chín là làm cho hoa sen búp lại; mười là dẫn phát lòng tiến lên của kẻ đi đường; mười một là làm cho chúng sanh thích ngũ dục được nhiều khoái lạc.
Như Lai cũng như vậy: một là phá hoại vô minh; hai là diễn thuyết chánh pháp, tà pháp; ba là chỉ bày sanh tử là tà hiểm, Niết Bàn là bằng thẳng; bốn là làm cho người xa lìa phiền não tham, sân, si; năm là phá hoại ánh sáng của ngoại đạo; sáu là phá hoại giặc kiết sử; bảy là trừ tâm lo sợ ngũ cái; tám là làm nảy nở lòng vun trồng căn lành của chúng sanh; chín là che trùm tâm ngũ dục của chúng sanh; mười là phát khởi hạnh tiến tu công hạnh Đại Niết Bàn cho chúng sanh; mười một là làm cho chúng sanh thích tu hạnh giải thoát.
Do đây nên ta nhập Đại Niết Bàn vào ngày rằm. Dầu vậy, nhưng thật ra ta chẳng có nhập Đại Niết Bàn. Trong hàng đệ tử của ta, những kẻ ngu si, kẻ ác cho rằng Như Lai quyết định nhập Niết Bàn.
Như bà mẹ kia có đông con. Một hôm bà mẹ bỏ đi đến nước khác, trong thời gian chưa trở về, các con đều nói rằng mẹ đã chết mất, nhưng thật ra bà mẹ này không chết."
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Hạng Tỳ Kheo nào có thể trang nghiêm rừng Ta La Song Thọ này?"
- Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ Kheo nào thọ trì đọc tụng mười hai bộ kinh, văn nghĩa đúng, thông đạt thâm nghĩa, giải thuyết cho mọi người, chỗ thuyết pháp trước sau giữa đều lành hay, vì muốn lợi ích cho vô lượng chúng sanh mà diễn thuyết phạm hạnh. Tỳ Kheo này có thể trang nghiêm rừng Ta La Song Thọ.
- Bạch Thế Tôn! Như chỗ tôi hiểu nghĩa của đức Phật vừa dạy, thời Tỳ Kheo A Nan chính là người trang nghiêm vậy. Vì A Nan thọ trì đọc tụng mười hai bộ kinh, vì đại chúng mà khai thị diễn thuyết, lời cùng nghĩa đều chân chánh.
Như đem nước rót vào bình, A Nan cũng như vậy, đúng như chỗ đã nghe nơi đức Phật đem diễn thuyết lại cho mọi người.
- Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ Kheo đặng thiên nhãn thanh tịnh, thấy đại thiên thế giới ở mười phương như thấy trái am-ma-lặc trong bàn tay, Tỳ Kheo này cũng có thể trang nghiêm rừng Ta La Song Thọ.
- Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thời Tỳ Kheo A Nâu Lâu Đà chính là người trang nghiêm, vì A Nâu Lâu Đà có thiên nhãn thấy rõ đại thiên thế giới, tất cả những loài những vật cho đến thân trung ấm đều thấy rõ ràng không chướng ngại.
- Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ Kheo thiểu dục tri túc, tâm thích tịch tịnh, siêng tu tinh tấn, chánh niệm chánh định, chánh huệ, giải thoát, Tỳ Kheo này có thể trang nghiêm rừng Ta La Song Thọ.
- Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thời Tỳ Kheo Đại Ca Diếp chính là người trang nghiêm, vì Đại Ca Diếp khéo tu những công hạnh thiểu dục tri túc v.v…
- Này thiện nam tử! Nếu Tỳ Kheo vì lợi ích chúng sanh chẳng vì lợi dưỡng mà tu tập thông đạt vô tránh tam muội, thánh hạnh, không hạnh, Tỳ Kheo này thời có thể trang nghiêm rừng Ta La Song Thọ.
- Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thời Tỳ Kheo Tu Bồ Đề chính là người trang nghiêm. Vì Tu Bồ Đề khéo tu tập hạnh vô tránh, thánh hạnh, không hạnh.
- Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ Kheo khéo tu tập thần thông, trong khoảng một niệm có thể hiện các thứ thần thông biến hóa, một tâm một định có thể hiện làm hai thứ là nước với lửa, Tỳ Kheo này thời có thể trang nghiệm rừng Ta La Song Thọ.
- Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thời Tỳ Kheo Đại Mục Kiền Liên chính là người trang nghiêm. Vì Đại Mục Kiền Liên khéo tu thần thông biến hóa vô lượng.
- Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ Kheo tu tập đại trí, lợi trí, tập trí, giải thoát trí, thậm thâm trí, quảng trí, vô biên trí, vô thắng trí, thật trí, thành tựu đầy đủ trí huệ như vậy, tâm bình đẳng đối với người thân kẻ thù nghe đức Như Lai nhập Niết Bàn chẳng lo buồn, nếu nghe Như Lai thường trụ chẳng nhập Niết Bàn cũng chẳng mừng rỡ, Tỳ Kheo này thời có thể trang nghiêm rừng Ta La Song Thọ.
- Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thời Tỳ Kheo Xá Lợi Phất chính là người trang nghiêm. Vì Xá Lợi Phất khéo thành tựu đầy đủ đại trí huệ như vậy.
- Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ Kheo có thể nói chúng sanh đều có Phật tánh, được thân kim cang không có ngằn mé, thường, lạc, ngã, tịnh, thân tâm vô ngại được tám môn tự tại, Tỳ Kheo này thời có thể trang nghiêm rừng Ta La Song Thọ.
- Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thời chỉ có đức Như Lai mới là người trang nghiêm. Vì thân Như Lai là thân kim cang không ngằn mé, là thường, lạc, ngã, tịnh, thân tâm vô ngại đủ tám môn tự tại.
Bạch Thế Tôn! Chỉ có đức Như Lai mới có thể trang nghiêm rừng Ta La Song Thọ, nếu không đức Như Lai thời chẳng trang nghiêm. Ngưỡng mong đấng đại từ bi vì trang nghiêm mà thường ở trong rừng Ta La này.
- Này thiện nam tử! Tất cả các pháp tánh vốn trụ nơi vô trụ, sao ông lại cầu mong đức Như Lai trụ.
Này thiện nam tử! Phàm nói rằng trụ đó thời gọi là sắc pháp từ nơi nhân duyên mà sanh, nên gọi là trụ. Nhân duyên không nơi chỗ nên gọi là vô trụ.
Đức Như Lai đã dứt tất cả sự ràng buộc của sắc, sao lại nói rằng Như Lai trụ? Như sắc pháp, thọ tưởng hành thức cũng vậy.
Này thiện nam tử! Trụ gọi là kiêu mạn, vì kiêu mạn nên chẳng được giải thoát, vì chẳng được giải thoát nên gọi là trụ. Ai có kiêu mạn? Từ chỗ nào mà đến? Do đây nên được gọi là trụ nơi vô trụ.
Đức Như Lai đã dứt tất cả kiêu mạn, sao lại nói rằng ngưỡng mong đức Như Lai trụ?
Trụ đó gọi là pháp hữu vi, đức Như Lai đã dứt pháp hữu vi nên chẳng trụ.
Trụ đó gọi là pháp không. Đức Như Lai đã dứt pháp không như vậy nên được thường, lạc, ngã, tịnh. Tại sao nói rằng ngưỡng mong đức Như Lai trụ?
Trụ đó gọi là hai mươi lăm cõi. Đức Như Lai đã dứt hai mươi lăm cõi. Sao lại nói rằng ngưỡng mong đức Như Lai trụ?
Trụ đó chính là tất cả phàm phu. Các bậc thánh nhân thời không khứ, không lai, không trụ. Đức Như Lai đã dứt những tướng khứ, lai, trụ. Sao lại nói rằng ngưỡng mong đức Như Lai trụ?
Luận về vô trụ gọi là vô biên thân. Vì thân vô biên nên chớ nói rằng ngưỡng mong đức Như Lai trụ nơi rừng Ta La. Nếu trụ nơi rừng này thời là hữu biên. Nếu là thân hữu biên thời là vô thường. Đức Như Lai là thường, sao lại nói rằng trụ?
Luận về vô trụ gọi là hư không, tánh của Như Lai đồng với hư không, sao lại nói rằng trụ?
Lại vô trụ gọi là kim cang tam muội. Kim cang tam muội phá hoại tất cả trụ. Kim cang tam muội chính là Như Lai, sao lại nói rằng trụ?
Lại vô trụ gọi là huyễn, Như Lai đồng huyễn, sao lại nói rằng trụ?
Lại vô trụ gọi là vô chung vô thỉ, tánh Như Lai không có thỉ chung, sao lại gọi rằng trụ?
Lại vô trụ gọi là pháp giới vô biên, pháp giới vô biên chính là Như Lai, sao lại nói rằng trụ?
Lại vô trụ gọi là thủ-lăng-nghiêm tam muội. Tam muội này biết tất cả pháp mà không chấp trước, vì không chấp trước nên gọi là thủ-lăng-nghiêm. Đức Như Lai đầy đủ chánh định thủ-lăng-nghiêm, sao lại gọi rằng trụ?
Lại vô trụ gọi là xứ-phi-xứ trí lực. Đức Như Lai thành tựu trí lực này, sao lại gọi rằng trụ?
Lại vô trụ gọi là đàn-ba-la-mật. Nếu đàn ba-la-mật mà có trụ thời chẳng đến được thi-la ba-la-mật nhẫn đến bát-nhã ba-la-mật, do nghĩa này nên đàn ba-la-mật gọi là vô trụ. Đức Như Lai chẳng trụ đàn ba-la-mật nhẫn đến chẳng trụ bát-nhã ba-la-mật, sao lại nguyện rằng đức Như Lai thường trụ nơi rừng Ta La.
Lại vô trụ gọi là tu pháp tứ niệm xứ. Nếu đức Như Lai trụ nơi pháp tứ niệm xứ, thời không thể được vô thượng Bồ Đề, đây gọi là trụ nơi chẳng trụ.
Lại vô trụ gọi là chúng sanh giới vô biên. Đức Như Lai đã đến tột ngằn mé vô biên của tất cả chúng sanh giới mà không chỗ trụ.
Lại vô trụ gọi là không nhà cửa, không nhà cửa gọi là không chỗ có, không chỗ có gọi là vô sanh, vô sanh gọi là vô diệt, vô diệt gọi là vô tướng, vô tướng gọi là không hệ phược, không hệ phược gọi là không chấp trước, không chấp trước gọi là vô lậu, vô lậu chính là thiện, thiện chính là vô vi, vô vi chính là Đại Niết Bàn, Đại Niết Bàn chính là thường, thường chính là ngã, ngã chính là tịnh, tịnh chính là lạc. Thường, lạc, ngã, tịnh chính là Như Lai.
Này thiện nam tử! Như hư không chẳng trụ mười phương, đức Như Lai cũng như vậy chẳng trụ mười phương.
Này thiện nam tử! Nếu có ai nói rằng thân, khẩu, ý ác mà được quả lành thời là không đúng. Thân, khẩu, ý lành mà được quả ác cũng là không đúng.
Nếu nói phàm phu đặng thấy Phật tánh, còn thập trụ Bồ Tát chẳng được thấy, lời nói này không đúng.
Nếu nói hạng nhất-xiển-đề phạm tội ngũ nghịch, hủy báng kinh đại thừa phá bốn giới trọng mà được vô thượng Bồ Đề, lời nói này cũng không đúng.
Nếu nói lục trụ Bồ tát do phiền não mà đọa ba ác đạo, lời nói này cũng không đúng.
Nếu nói đại Bồ Tát dùng thân người nữ thật mà được vô thượng Bồ Đề, lời nói này cũng không đúng.
Nếu nói nhất-xiển-đề là thường còn, Tam Bảo là vô thường, lời nói này cũng không đúng.
Nếu nói đức Như Lai trụ nơi thành Câu Thi Na, lời nói này cũng không đúng như vậy.
Này thiện nam tử! Nay đức Như Lai ở nơi thành Câu Thi Na này nhập đại tam muội, vào trong hang thiền định thậm thâm. Vì chúng sanh chẳng thấy Như Lai nên gọi là Đại Niết Bàn.
- Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai cớ chi vào nơi hang thiền định?
- Này thiện nam tử! Vì muốn độ thoát chúng sanh: Người chưa gieo trồng căn lành làm cho được gieo trồng. Người đã gieo trồng căn lành nay được tăng trưởng. Người quả lành chưa thành thục làm cho được thành thục. Đức Như Lai vì người căn lành đã thành thục mà nói thu hướng vô thượng Bồ Đề. Làm cho người khinh tiện pháp lành sanh lòng tôn trọng. Làm cho những kẻ phóng dật rời bỏ sự phóng dật. Vì cùng Văn Thù Sư Lợi các vị Đại Bồ Tát luận bàn diệu nghĩa. Vì muốn giáo hóa người thích đọc tụng làm cho ưa thích thiền định. Vì đem thánh hạnh, phạm hạnh, thiên hạnh giáo hóa chúng sanh. Vì quan sát pháp tạng bất cộng thậm thâm. Vì muốn quở trách hàng đệ tử phóng dật. Đức Như Lai thường tịch tịnh mà còn ưa chuộng thiền định, huống là các ông chưa dứt hết phiền não mà sanh lòng phóng dật. Vì muốn quở trách các Tỳ Kheo ác nhận tám thứ vật bất tịnh, và chẳng biết thiểu dục, chẳng biết tri túc. Vì khiến chúng sanh tôn trọng pháp thiền định đã nghe. Do những nhân duyên trên đây nên đức Như lai vào hang thiền định.
(Hán bộ quyển thứ 31)
- Bạch Thế Tôn! Chánh định vô tướng gọi là Đại Niết Bàn, nên Đại Niết Bàn gọi là vô tướng. Do nhân duyên gì gọi là vô tướng?
- Này thiện nam tử! Vì không có người tướng sắc, thanh, hương, vị, xúc, sanh, trụ, hoại, nam, nữ, đây gọi là mười tướng. Vì không mười tướng như vậy nên gọi là vô tướng.
Này thiện nam tử! Luận về người chấp tướng thời hay sanh ra si, vì si mà sanh ái, vì ái nên ràng buộc, vì ràng buộc nên thọ sanh, vì sanh nên có tử, vì tử nên là vô thường. Người chẳng chấp tướng thời chẳng sanh si, vì không si nên không ái, vì không ái nên không ràng buộc, vì không ràng buộc nên chẳng thọ sanh, vì chẳng thọ sanh nên không có tử, vì không có tử nên gọi là thường. Do nghĩa này nên Niết Bàn gọi là thường.
- Bạch Thế Tôn! Tỳ Kheo nào có thể dứt được mười tướng?
- Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ Kheo luôn luôn tu tập ba tướng này thời dứt được mười tướng: luôn luôn tu tập tướng tam muội chánh định, luôn luôn tu tập tướng trí huệ, luôn luôn tu tập tướng xả.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là tướng chánh định, tướng trí huệ và tướng xả?
Chánh định là tam muội, tất cả chúng sanh đều có tam muội, tại sao nay mới nói rằng tu tập tam muội?
Nếu tâm duyên ở một cảnh thời gọi là tam muội, nếu lại duyên cảnh khác thời chẳng gọi là tam muội. Nếu như chẳng định thời chẳng phải là nhất-thiết-trí, chẳng phải là nhất-thiết-trí sao lại gọi là định? Nếu do một hạnh mà được tam muội, những hạnh khác thời chẳng phải là tam muội, nếu chẳng phải là tam muội, thời chẳng phải là nhất-thiết-trí, nếu chẳng phải nhất-thiết-trí sao lại gọi rằng tam muội? Tướng trí huệ và tướng xả cũng như vậy.
- Này thiện nam tử! Như lời ông nói duyên nơi một cảnh được gọi là tam muội, nếu duyên các cảnh khác chẳng gọi là tam muội, lời nói này không đúng nghĩa. Vì duyên những cảnh khác như vậy cũng vẫn là một cảnh. Do một hạnh cùng những hạnh khác cũng như vậy.
Ông lại nói chúng sanh trước đã có tam muội chẳng cần tu tập, lời này cũng chẳng phải. Vì nói tam muội đây, là nói thiện tam muội, thật ra tất cả chúng sanh chưa có sao lại nói rằng chẳng cần tu tập? Do trụ trong thiện tam muội như vậy mà quan sát tất cả pháp thời gọi là tướng thiện trí huệ. Chẳng thấy tướng tam muội cùng tướng trí huệ sai khác nhau thời gọi là tướng xả.
Lại này thiện nam tử! Nếu chấp tướng sắc, không thể quan sát tướng thường tướng vô thường của sắc thời gọi là tam muội. Nếu có thể quan sát tướng thường và tướng vô thường của sắc thời gọi là tướng trí huệ. Tam muội cùng trí huệ đồng quan sát tất cả pháp thời gọi là tướng xả.
Này thiện nam tử! Như người đánh xe bốn ngựa giỏi, điều khiển chậm mau phải lúc. Bồ Tát cũng như vậy, nếu tam muội nhiều thời tu tập trí huệ, nếu trí huệ nhiều thời tu tập tam muội. Tam muội cùng trí huệ đồng nhau thời gọi là xả.
Này thiện nam tử! Thanh Văn và Duyên Giác sức tam muội nhiều sức trí huệ ít, do đây nên chẳng thấy Phật tánh. Thập trụ Bồ tát sức trí huệ nhiều sức tam muội ít, nên thấy Phật tánh chẳng rõ ràng. Chư Phật Thế Tôn vì tam muội cùng trí huệ đồng, nên thấy Phật tánh rõ ràng không chướng ngại như xem trái am-ma-lặc trong bàn tay. Thấy Phật tánh gọi đó là tướng xả.
Này thiện nam tử! Xa-ma-tha (chánh định tam muội) gọi là hay dứt trừ, vì hay dứt trừ tất cả phiền não. Lại xa-ma-tha gọi là hay điều phục, vì hay điều phục những căn ác chẳng lành. Lại xa-ma-tha gọi là tịch tịnh, vì có thể làm cho thân, khẩu, ý đều tịch tịnh. Lại xa-ma-tha gọi là viễn ly, vì có thể làm cho chúng sanh xa lìa ngũ dục. Lại xa-ma-tha gọi là hay lóng trong, vì hay lóng trong ba pháp nhơ dục, tham dục, sân khuể, ngu si. Do những nghĩa này nên gọi là tướng chánh định.
Tỳ-bà-xá-na (trí huệ) gọi là chánh kiến, cũng gọi là liễu kiến, năng kiến, biến kiến, thứ đệ kiến, biệt tướng kiến, đây gọi là trí huệ.
Ưu-tất-xoa (xả) gọi là bình đẳng, cũng gọi là vô tránh, vô quán, vô hành, đây gọi là xả.
Này thiện nam tử! Có hai thứ xa-ma-tha: thế gian và xuất thế gian.
Lại có hai thứ: chẳng thành tựu và thành tựu. Chẳng thành tựu là nói Thanh Văn cùng Bích Chi Phật. Thành tựu là nói chư Phật và Bồ Tát.
Lại có ba thứ: hạ, trung và thượng. Hạ là nói hạng phàm phu, trung là nói Thanh Văn và Duyên Giác, thượng là nói chư Phật và Bồ Tát.
Lại có bốn thứ: một là thối, hai là trụ, ba là tấn, bốn là có thể lợi ích lớn.
Lại có năm thứ chính là năm trí tam muội: Một là vô thực tam muội; hai là vô quá tam muội; ba là thân ý thanh tịnh nhất tâm tam muội; bốn là nhân quả câu-lạc tam muội; năm là thường-niệm tam muội.
Lại có sáu thứ: một là quán cốt tam muội, hai là từ tam muội, ba là quán thập nhị nhân duyên tam muội, bốn là xuất-tức nhập-tức tam muội, năm là chánh niệm giác quán tam muội, sáu là quán sanh trụ dị diệt tam muội.
Lại có bảy thứ chính là bảy giác chi: một là niệm-xứ giác-chi, hai là trạch-pháp giác-chi, ba là tinh tấn giác-chi, bốn là hỷ giác-chi, năm là trừ giác-chi, sáu là định giác-chi, bảy là xả giác-chi.
Lại có bảy thứ: một là Tu Đà Hoàn tam muội, hai là Tư Đà Hàm tam muội, ba là A Na Hàm tam muội, bốn là A La Hán tam muội, năm là Bích Chi Phật tam muội, sáu là Bồ Tát tam muội, bảy là Như Lai giác-tri tam muội.
Lại có tám thứ: chính là tám môn giải thoát tam muội: một là trong có sắc tướng, ngoài quán sắc giải thoát tam muội, hai là trong không sắc tướng, ngoài quán sắc giải thoát tam muội, ba là tịnh giải thoát thân chứng tam muội, bốn là không-xứ giải thoát tam muội, năm là thức xứ giải thoát tam muội, sáu là vô-sở-hữu-xứ giải thoát tam muội, bảy là phi-hữu-tưởng phi vô-tưởng xứ giải thoát tam muội, tám là diệt tận định xứ giải thoát tam muội.
Lại có chín thứ chính là cửu thứ đệ định: tứ thiền, tứ không và diệt tận định tam muội.
Lại có mười thứ chính là mười nhất-thiết-xứ tam muội: một là địa nhất-thiết-xứ tam muội, hai là thủy nhất-thiết-xứ tam muội, ba là phong nhất-thiết-xứ tam muội, bốn là thanh nhất-thiết-xứ tam muội, năm là huỳnh nhất-thiết-xứ tam muội, sáu là xích nhất-thiết-xứ tam muội, bảy là bạch nhất-thiết-xứ tam muội, tám là không nhất-thiết-xứ tam muội, chín là thức nhất-thiết-xứ tam muội, mười là vô sở hữu nhất-thiết-xứ tam muội. Lại có vô số thứ chính là chư Phật và Bồ Tát. Đây gọi là tướng tam muội.
Này thiện nam tử! Huệ có hai thứ: thế gian và xuất thế gian. Lại có ba thứ: bát nhã, tỳ-bà-xá-na và xà-na. Bát-nhã gọi là tất cả chúng sanh. Tỳ-bà-xá-na là tất cả thánh nhân. Xà-na là chư Phật và Bồ Tát. Lại bát-nhã gọi là biệt tướng, tỳ-bà-xá-na gọi là tổng tướng, xà-na gọi là phá tướng.
Lại có bốn thứ huệ, chính là quán tứ chân đế.
Này thiện nam tử! Vì ba việc mà tu xa-ma-tha: một là vì chẳng phóng dật, hai là vì trang nghiêm đại trí, ba là vì được tự tại.
Lại vì ba việc mà tu tỳ-bà-xá-na: một là vì quán quả báo ác của sanh tử, hai là vì muốn tăng trưởng các căn lành, ba là vì phá tất cả phiền não.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Như trong kinh nói nếu tỳ-bà-xá-na có thể phá phiền não cớ gì lại tu tập xa-ma-tha?"
Phật nói: "Này thiện nam tử! Ông nói tỳ-bà-xá-na phá phiền não, lời này không đúng. Vì lúc có trí huệ thời không phiền não, lúc có phiền não thời không trí huệ. Sao lại nói rằng tỳ-bà-xá-na có thể phá phiền não?
Ví như lúc sáng thời không tối, lúc tối thời không sáng. Nếu nói rằng sáng có thể phá tối, thời không đúng.
Này thiện nam tử! Ai có trí huệ? Ai có phiền não? Sao lại nói rằng trí huệ có thể phá phiền não? Nếu phiền não là không thời không chỗ phá.
Này thiện nam tử! Nếu nói trí huệ có thể phá phiền não, là đến mà phá, hay chẳng đến mà phá? Nếu chẳng đến mà phá thời lẽ ra phàm phu cũng phá được. Nếu đến mà phá thời niệm ban đầu lẽ ra đã phá. Nếu niệm ban đầu chẳng phá thời niệm sau cũng chẳng phá. Nếu niệm ban đầu đến bèn đã phá đây thời là chẳng đến. Sao lại nói rằng trí huệ hay phá phiền não? Nếu nói rằng đến cùng chẳng đến mà có thể phá đó thời không đúng nghĩa.
Lại tỳ-bà-xá-na phá phiền não đó, là đơn độc có thể phá hay là có bạn mới phá? Nếu đơn độc có thể phá cớ gì Bồ Tát tu bát chánh đạo? Nếu có bạn mới phá thời nên biết rằng đơn độc chẳng phá được. Nếu đơn độc chẳng phá được thời bạn cũng chẳng phá được. Như một người mù chẳng thấy được màu sắc, dầu dắt cả lũ bạn mù cũng chẳng thấy được. Tỳ-bà-xá-na cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Như địa đại thời tánh chất là cứng, hỏa đại tánh chất là nóng, thủy đại tánh chất là ướt, phong đại tánh chất là động. Tánh chất cứng của địa đại nhẫn đến tánh chất động của phong đại, chẳng phải nhân duyên làm ra, tánh của nó tự như vậy. Như tánh chất của tứ đại, phiền não cũng vậy, tánh của nó là tự phải dứt mất. Nếu là tự dứt mất sao lại nói rằng trí huệ hay dứt. Do nghĩa này nên biết rằng tỳ-bà-xá-na quyết định chẳng thể phá các phiền não.
Này thiện nam tử! Như chất muối là mặn làm cho vật khác mặn. Chất mật là ngọt làm cho vật khác ngọt, chất nước là ướt làm cho vật khác ướt. Tánh của trí huệ là diệt làm cho các pháp diệt, nghĩa này chẳng đúng. Vì nếu pháp không diệt thời trí huệ làm thế nào điệt được. Nếu nói muối mặn làm cho vật khác mặn, tánh trí huệ là diệt cũng làm cho pháp khác diệt, lời này cũng chẳng đúng. Vì tánh của trí huệ niệm niệm diệt. Nếu niệm niệm diệt thời đâu có thể diệt pháp khác. Do nghĩa này nên biết rằng tánh trí huệ chẳng phá phiền não.
Này thiện nam tử! Tất cả các pháp có hai thứ diệt: một là tánh diệt, hai là rốt ráo diệt. Nếu là tánh diệt sao lại nói rằng trí huệ có thể diệt.
Nếu nói trí huệ có thể diệt phiền não như lửa đốt cháy đồ vật, nghĩa này chẳng đúng. Vì như lửa đốt cháy đồ vật thời có tro tàn, trí huệ nếu như vậy thời lẽ ra cũng còn có tàn dư. Như búa chặt cây, chỗ bị chặt có thể thấy được, trí huệ nếu như vậy thời có gì là có thể thấy được?
Trí huệ nếu có thể làm cho phiền não rời lìa đó, thời phiền não kia lẽ ra hiện ra chỗ khác. Như các ngoại đạo rời sáu thành lớn mà hiện đến ở nơi thành Câu Thi Na. Nếu phiền não này chẳng hiện ra nơi khác, thời biết rằng trí huệ chẳng có thể làm cho phiền não rời lìa.
Này thiện nam tử! Tất cả các pháp nếu tánh nó tự không, thời ai có thể làm cho nó sanh? Ai có thể làm cho nó diệt? Sanh khác diệt khác, không ai tạo tác. Nếu người tu tập chánh định thời được biết được thấy chân chánh như vậy. Do nghĩa này nên trong kinh ta nói: Nếu có Tỳ Kheo tu tập chánh định, thời có thể thấy tướng sanh diệt của ngũ ấm.
Này thiện nam tử! Nếu chẳng tu tập chánh định, thời việc thế gian còn không thể rõ biết huống là ở nơi đạo xuất thế. Nếu người không có chánh định, thời té ngã nơi đất bằng, tâm duyên pháp khác, miệng nói lời khác, tai nghe tiếng khác, ý hiểu nghĩa khác, muốn đọc chữ khác, tay biên văn khác, muốn đi đường khác, thân bước nẻo khác. Nếu người có tu tập tam muội chánh định thời được lợi ích lớn nhẫn đến được vô thượng Bồ Đề.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát đầy đủ hai pháp thời có lợi ích lớn: một là định, hai là trí.
Này thiện nam tử! Như cắt cỏ ống nếu kéo mạnh quá thời đứt. Đại Bồ Tát tu tập hai pháp này cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Như nhổ cây cứng, trước dùng tay lay động, lúc sau nhổ lên dễ. Bồ Tát cũng như vậy, trước dùng định để động, rồi sau dùng trí để nhổ.
Này thiện nam tử! Như giặc y dơ, trước dùng nước tro, sau dùng nước trong, thời y được sạch sẽ. Định huệ của Bồ Tát cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Như trước đọc tụng rồi sau hiểu nghĩa. Định huệ của Bồ Tát cũng như vậy.
Như người dũng kiện trước dùng khôi giáp đao trượng để tự võ trang, rồi sau ra trận có thể phá tan quân địch. Định huệ của đại Bồ Tát cũng như vậy.
Như người thợ dùng kềm cùng khuôn để gắp và đựng vàng tự tại theo ý muốn: khuấy trộn đốt cháy. Định huệ của Bồ Tát cũng như vậy.
Ví như gương sáng chói rõ mặt mắt. Định huệ của Bồ Tát cũng như vậy.
Như trước dọn đất rồi sau mới gieo giống, trước theo thầy học rồi sau mới suy nghĩ nghĩa lý. Định huệ của Bồ Tát cũng như vậy.
Do những nghĩa trên đây, nên Đại Bồ Tát tu tập hai pháp này thời được lợi ích rất lớn.
Đại Bồ Tát tu tập hai pháp định huệ này, điều nhiếp năm căn, kham nhẫn các sự khổ: đói, khát, lạnh, nóng, đánh đập, mắng nhục, thú dữ cắn, muỗi mòng chích, thường nhiếp tâm mình chẳng cho phóng dật, chẳng vì lợi dưỡng mà làm việc phi pháp, khách-trần phiền não chẳng nhiễm ô được, chẳng bị những thuyết tà ngoại làm mê lầm, thường có thể xa lìa những ác giác-quán, chẳng bao lâu sẽ thành tựu vô thượng Bồ Đề, vì muốn thành tựu lợi ích tất cả chúng sanh.
Đại Bồ Tát tu hai pháp định huệ này thời bốn luồng gió dữ tứ đảo chẳng thể thổi động như núi Tu Di. Các tà ma dị thuật chẳng thể phỉnh lầm. Thường hưởng thọ sự vui vi diệu đệ nhất. Có thể hiểu nghĩa bí mật rất sâu của Như Lai. Được vui chẳng mừng, gặp khổ chẳng buồn. Chư thiên và người đời cung kính tán thán. Thấy rõ sanh tử và chẳng sanh tử. Có thể rõ biết pháp giới, pháp tánh, pháp thân, thường, lạc, ngã, tịnh, đây thời gọi là Đại Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Định tướng gọi là không tam muội. Huệ tướng gọi là vô nguyện tam muội. Xả tướng gọi là vô tướng tam muội.

Này thiện nam tử! Nếu có Đại Bồ Tát biết rành thời gian định, thời gian huệ, thời gian xả, và biết phi thời, đây gọi là Đại Bồ Tát thực hành đạo Bồ Đề."

No comments:

Post a Comment