KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Phẩm TRÀ TỲ thứ hai mươi tám
(Hán bộ quyển thứ 42)
Lúc đó tất cả nhân dân nam nữ trong thành Câu Thi Na hỏi ngài A Nan pháp tắc trà tỳ đối với đức Như Lai.
Ngài A Nan thuật lại lời Phật nên theo pháp tắc Chuyển Luân Thánh Vương.
Tất cả nhân dân buồn khóc rơi lệ trở vào trong thành làm kim quan dùng thất bảo trang nghiêm, cùng lo sắm ngàn bức bạch điệp vô giá, vô số bông đâu-la-miên mềm nhuyễn, vô số chiên đàn, trầm thủy, hòa hương, hương thủy, hương nê, phan lọng, hoa hương v.v… Sắm sửa xong, cùng nhau đến trước Phật rơi lệ nghẹn ngào mà dâng lên cúng dường.
Lúc đó đại chúng buồn thương cung kính dùng bạch điệp tốt che tay đỡ Như Lai vào trong kim quan đổ đầy dầu thơm, nắp kim quan liền đóng kín lại.
Nhân dân trong thành Câu Thi Na vì tham phước lành, không muốn cho đại chúng trời người khiêng kim quan của Phật, họ sai bốn người đại lực sĩ thỉnh kim quan của Phật vào trong thành để cúng dường. Bốn đại lực sĩ này vận dụng hết sức mình mà vẫn không động được kim quan. Trong thành lại sai tám đại lực sĩ, rồi đến mười sáu đại lực sĩ, nhưng vẫn không khiêng nổi.
Ngài A Nâu Lâu Đà thong thả bảo các lực sĩ rằng: "Dầu cho tất cả nhân dân trong thành cũng không khiêng nổi kim quan, huống là các ông. Các ông phải thỉnh đại chúng cùng chư thiên trợ lực các ông mới khiêng kim quan vào thành được."
Lúc đó Thiên Đế Thích cùng chư thiên cầm lọng thất bảo lớn cùng vô số hoa hương phan lọng các thứ âm nhạc, khóc lóc rơi lệ ở giữa hư không giăng che cúng dường kim quan của Phật. Lục-dục thiên cùng sắc-giới thiên cũng đồng cúng dường kim quan như Đế Thích.
Đức đại bi của Thế Tôn muốn cho thế gian được tâm bình đẳng đồng được phước, kim quan liền từ rừng Ta La tự bay lên hư không cao bằng một cây Đa La.
Nhân dân trong thành Câu Thi Na và tất cả đại chúng trời người, vì không được khiêng kim quan nên tự cảm thương kêu khóc.
Chư thiên đem hoa hương châu ngọc rải trước kim quan, vần vũ quanh kim quan. Đồng than thở xướng to rằng: "Khổ thay! Khổ thay! Chúng ta vô phước chẳng đặng khiêng kim quan."
Lúc đó kim quan của Phật bay lên hư không, từ rừng Ta La bay chậm chậm vào cửa tây thành Câu Thi Na. Tất cả nhân dân đại chúng trời, người, Bồ Tát, Thanh Văn, hoặc đi dưới đất, hoặc đi trên hư không, theo sau kim quan buồn khóc than thở nghẹn ngào rơi lệ.
Thành Câu Thi Na mỗi phía rộng bốn mươi tám do tuần. Kim quan của Phật bay chậm chậm trên hư không vòng ra cửa đông hữu nhiễu vào cửa nam, rồi vẫn bay chậm chậm trên hư không mà ra cửa bắc, lại tả nhiễu vào cửa tây. Bay nhiễu đủ ba vòng như vậy, kim quan bay chậm chậm trên hư không vào cửa tây rồi ra cửa đông, tả nhiễu vào cửa bắc lại ra cửa nam, hữu nhiễu trở lại vào cửa tây, bay như vậy đủ bốn vòng.
Lúc kim quan của Phật bay vào thành, vô số đại chúng mang vô số gỗ thơm, chiên đàn, trầm thủy, tất cả hương báu cùng vô số phan lọng hương hoa chuỗi ngọc đến chỗ trà tỳ.
Tứ Thiên Vương cùng chư thiên cũng đem những thứ hương thượng diệu cõi trời đến chỗ trà tỳ.
Chư thiên cõi trời Đao Lợi nhẫn đến chư thiên cõi trời Tha Hóa cũng đều đem vô số thứ hương thượng diệu cõi trời và phan lọng hoa hương chuỗi ngọc gấp bội trời Tứ Thiên Vương đến chỗ trà tỳ.
Chư thiên cõi sắc, cõi vô sắc chỉ đem hương hoa đến chỗ trà tỳ.
Ngài A Nâu Lâu Đà, lệ đầy mắt chẳng xiết buồn thương, khất gỗ thơm chiên đàn trầm thủy cõi trời đủ sáu ngàn cây đem đến chỗ trà tỳ.
Lúc đức Thế Tôn mới thành đạo, bờ phía bắc sông Hằng mọc lên một cây chiên đàn, lớn như bánh xe, cao bằng bảy cây Đa La, hơi thơm bay tỏa khắp nơi. Thọ thần của cây chiên đàn này sanh đồng thời với cây, thường đem hương của cây này đến cúng dường Phật. Giờ Phật nhập Niết Bàn, cây chiên đàn này liền chết, nhánh lá khô rụng, thọ thần này cũng chết theo cây. Các vị thần khác đem cả cây chiên đàn đã chết khô này đến chỗ trà tỳ để cúng dường.
Nơi đây là chỗ trà tỳ của tam thế chư Phật. Nơi đây có vô lượng tháp báu của chư Phật quá khứ. Nơi đây là chỗ đất Kim Cang cứng chắc.
Lúc đó kim quan của Phật bay chầm chậm trên không hữu nhiễu tả nhiễu bay quanh thành Câu Thi Na đủ bảy vòng, rồi từ từ hạ xuống trên giường thất bảo, trong thời gian đó trải qua bảy ngày.
Nhân dân đại chúng trời, người, Thanh Văn, Bồ Tát cầm phan lọng hoa hương buồn khóc rơi lệ theo sau kim quan trọn bảy ngày.
Do thần lực của Phật, tất cả đại chúng đều không biết đói khát, không một ai nghĩ đến ăn uống, chỉ thành tâm cung kính mến luyến đức Như Lai.
Vì đã đủ bảy ngày sắp đem Như Lai ra khỏi kim quan, đại chúng kêu khóc chấn động thế giới, dùng bạch điệp mịn nhuyễn che tay cung kính phò thân Kim Cang bất hoại đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Như Lai an lành ra khỏi kim quan để trên giường thất bảo.
Đại chúng càng thêm buồn thương than khóc, đem hoa hương, trổi âm nhạc cúng dường Như Lai.
Mọi người mắt đầy lệ, miệng nghẹn ngào, dùng vô số hương thủy, cung kính tắm rửa thân Như Lai từ đầu tới chân. Cũng rửa kim quan trong ngoài sạch sẽ.
Tắm rửa thân Như Lai xong, đại chúng lại đem vô số hoa hương phan lọng buồn thương khóc lóc, cúng dường Như Lai. Dùng vô số bông đâu-la-miên mịn màng bao bọc thân kim cang của Như Lai từ đầu đến chân. Rồi lấy bạch điệp vô giá tuần tự quấn ngoài bông đâu-la-miên đủ một ngàn bức.
Đại chúng lại khóc than cúng dường rồi lấy bạch điệp che tay cung kính phò thân Như Lai vào trong kim quan, đổ đầy dầu thơm nắp kim quan liền đóng kín lại.
Đại chúng lại buồn than khóc lóc trổi âm nhạc dâng hương hoa cúng dường kim quan.
Sau đó đại chúng chất gỗ thơm chiên đàn trầm thủy thành lầu hương lớn, bốn phía treo giăng những lọng báu phan đèn, chuỗi ngọc, dây vàng. Mùi gỗ thơm bay tỏa khắp thành.
Sau khi dâng hoa hương, trổi âm nhạc thương khóc cúng dường, đại chúng trời người dùng bạch điệp che tay cung kính khiêng kim quan để lên lầu hương.
Đại chúng lại than khóc, nhiều người ngất xỉu. Khi tỉnh lại đồng kêu rằng khổ thay khổ thay nào ngờ cuối cùng không chỗ nương cậy! Than xong nghẹn ngào rơi lệ lại rải hương hoa, treo phan lọng, trổi âm nhạc cúng dường Như Lai.
Lúc đó sắp sửa nổi lửa trà tỳ, đại chúng lại kêu gào than khóc chấn động cõi đại thiên trần thiết cúng dường kim quan của Phật.
Mọi người vừa khóc lóc lệ đầy mắt, đều cầm đuốc hương lớn cả âm, cháy sáng cả vùng, đem đến châm vào lầu gỗ thơm. Khi đến gần lầu gỗ thơm, tất cả ngọn đuốc đều tự nhiên tắt. Đại chúng lại thay vô số đuốc khác ném vào dưới lầu hương, tất cả ngọn đuốc cũng đều tắt.
Trăm ngàn Hải thần đem đuốc lớn thất bảo đến châm vào lầu hương, những đuốc này cũng đều tắt.
Đại chúng chẳng biết cớ gì trà tỳ chẳng được, đây có lẽ là đức Như Lai còn có nhân duyên gì chưa xong.
Lúc đó ngài Ma Ha Ca Diếp cùng năm trăm Tỳ Kheo ở tại núi Kỳ Xà Quật cách thành Câu Thi Na năm mươi do tuần, đương nhập tam muội, bỗng nhiên tim nhảy thân rung, liền xuất định thấy núi cây đều chấn động, biết rằng đức Như Lai đã nhập Niết Bàn. Ngài bảo các Tỳ Kheo: "Đức Đại Sư Thế Tôn của chúng ta đã nhập Niết Bàn bảy ngày rồi, hiện đã vào trong kim quan.
Khổ thay! Khổ thay! Chúng ta phải mau đến chỗ đức Như Lai, sợ rằng đã trà tỳ rồi chẳng còn được thấy sắc thân chân tịnh ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của đức Phật."
Ngài Ma Ha Ca Diếp vì lòng kính trọng Phật nên chẳng dám dùng thần thông bay đi, bèn dắt các thầy Tỳ Kheo đi bộ bảy ngày mới tới thành Câu Thi Na.
Trên đầu đường cửa đông, ngài Ma Ha Ca Diếp thấy một Bà La Môn tay cầm một nhánh thiên hoa đi ngược chiều, liền hỏi: "Ông từ đâu mà đến đây?"
Bà La Môn đáp: "Đức Phật đã nhập Niết Bàn, tôi vừa ở chỗ trà tỳ về."
- Ông đương cầm đó là hoa gì?
- Tôi ở chỗ trà tỳ được cành hoa trời này.
Ngài Ma Ha Ca Diếp ngỏ ý xin hoa ấy.
Bà La Môn nói: "Không được! Tôi muốn đem hoa này về cho thân tộc tôi cúng dường trong nhà."
Ngài Ma Ha Ca Diếp bèn mượn cành hoa, hai tay cung kính để lên đầu mình, liền ngất xỉu té xuống đất. Giây lâu tỉnh lại suy nghĩ rằng: "Ở đây than khóc, chẳng thấy được sắc thân huỳnh kim của Như Lai cũng không ích gì."
Nghĩ xong, liền cùng các Tỳ Kheo đi gấp vào cửa bắc thành Câu Thi Na, ghé vào một tăng phường thấy các Tỳ Kheo đang hội họp.
Các Tỳ Kheo này bảo ngài rằng: "Xem các ông dường như từ xa mới đến, có lẽ nhọc nhẳn đói khát, nên ngồi nghĩ chờ đến giờ ăn."
Ngài Ma Ha Ca Diếp nói: "Đấng Đại Sư đã nhập Niết Bàn, chúng tôi còn lòng nào ở yên đây chờ ăn."
- Đại Sư là ai?
- Khổ thay! Đau đớn thay! Các thầy chẳng biết ư? Đấng Đại Giác Thế Tôn nay đã nhập Niết Bàn.
Các Tỳ Kheo này nghe rồi vui mừng lắm, nói rằng: "Sướng lắm! Sướng lắm! Đức Như Lai còn tại thế cấm răn chúng ta, đặt ra giới luật nghiêm tuấn, chúng ta chẳng chịu nổi. Nay đã nhập diệt, những giới luật nghiêm tuấn ấy cũng phải bỏ. Các ông thong thả chờ ăn đống, có gì phải vội gấp."
Đức Phật dùng thần lực bít tai chư thiên và các Tỳ Kheo theo ngài Ca Diếp. Những Tỳ Kheo này cùng chư thiên đều chẳng nghe những lời ác của các Tỳ Kheo vừa nói. Chỉ một mình ngài Ma Ha Ca Diếp nghe thôi.
Lúc đó, ngài Ca Diếp dắt các Tỳ Kheo rời tăng phường vội vã đến chỗ Phật. Vừa đi vừa suy nghĩ chúng tôi làm sao được có những đồ cúng dường, để khi đến chỗ Phật dâng lên cúng dường?
Ngài Ma Ha Ca Diếp lại suy nghĩ: tôi vốn sanh trưởng ở trong thành này, nay xin đồ cúng dường có lẽ cũng được.
Ngài liền dắt các Tỳ Kheo ghé từng nhà để xin, được ngàn bức bạch điệp tốt, vô số bông đâu-la-miên, cùng rất nhiều hương hoa, hương nê, hương thủy, hương du, phan lọng, hàng màu, chuỗi ngọc.
Xin đồ cúng dường xong, các ngài lật đật mang ra cửa tây. Từ xa nghe vẳng tiếng đại chúng than khóc ở chỗ trà tỳ. Nghe đại chúng hỏi Thiên Đế cúng dường đã xong làm sao có lửa để đốt lầu hương? Nghe Thiên Đế đáp rằng đại chúng nên chờ, ngài Ma Ha Ca Diếp sắp đến.
Tất cả đại chúng đương buồn khóc thấy ngài Ma Ha Ca Diếp cùng năm trăm Tỳ Kheo vừa đi vừa khóc mà đến, liền tránh đường nhường chỗ cho ngài Ma Ha Ca Diếp đi thẳng vào lầu hương. Ngài Ma Ha Ca Diếp dắt các Tỳ Kheo vòng lên kim quan mà lễ bái kêu khóc ngất xỉu, giây lâu tỉnh lại nước mắt tuôn rơi, hỏi đại chúng rằng: "Làm sao để được mở kim quan của Phật?"
Đại chúng đáp: "Phật nhập Niết Bàn đã trải qua hai thất, sợ có tổn hại chăng?"
Ngài Ma Ha Ca Diếp nói: "Thân của Như Lai là thân Kim Cang thường, lạc, ngã, tịnh, không thể có sự hư rã, thân Phật thơm tho ngào ngạt như núi Chiên Đàn."
Nói xong các ngài liền đến bên kim quan than thở khóc lóc.
Lúc đó đức Như Lai đại bi bình đẳng vì ngài Ma Ha Ca Diếp nên kim quan tự nhiên mở nắp. Ngàn trương bạch điệp cùng bông đâu-la-miên đều tự tháo tung, lộ bày thân huỳnh kim ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Vừa thấy kim thân của Phật lộ ra, các ngài liền ngất xỉu té xuống, giây lâu tỉnh lại nghẹn ngào than khóc, nước mắt chảy tuôn, đem hoa hương phan lọng hàng màu chuỗi ngọc của mình xin đặng dâng lên cúng dường, rồi lấy hương nê, hương thủy tắm rửa kim thân của Như Lai, đốt hương rải hoa khóc lóc cúng dường. Sau đó các ngài đem bông đâu-la-miên của mình bao trùm kim thân, kế lấy bông đâu-la-miên cũ bao ngoài. Lại lấy ngàn bức bạch điệp của mình tuần tự quấn ngoài bông la-miên, kế đó lấy ngàn bức bạch điệp cũ cũng theo thứ tự quấn ngoài bạch điệp mới. Sau khi quấn bạch điệp xong nắp kim quan liền đóng lại.
Ngài Ma Ha Ca Diếp cùng các Tỳ Kheo khóc lóc rơi lệ đi nhiễu kim quan bảy vòng, quỳ gối chắp tay nói kệ than thở:
Khổ thay khổ thay đấng đại thánh
Nay tôi đau đớn như cắt lòng
Thế Tôn diệt độ sao quá sớm
Đại bi chẳng thể nán chờ tôi.
Trong thiền định ở núi Xà Quật
Tôi khắp tìm Phật đều chẳng thấy
Nhìn lại thấy Phật đã Niết Bàn
Thoạt vậy thân tâm tôi kinh động.
Bỗng thấy mây đen khắp thế gian
Lại thấy núi cây đều chấn động
Liền biết Như Lai đã Niết Bàn
Chúng tôi vội đến chẳng được thấy.
Thế Tôn đại bi chẳng đến tôi
Khiến tôi chẳng thấy Phật nhập diệt
Chẳng được nghe một lời dạy bảo
Tôi nay côi cùng biết nương đâu!
Thế Tôn ôi! Tôi quá đau đớn
Rối loạn tinh thần tâm mê muội
Nay tôi cúi lạy đầu Thế Tôn
Và cũng kính lạy ngực Thế Tôn
Kính lễ hai tay của Đại Thánh
Và cũng kính lễ lưng Thế Tôn
Cung kính đảnh lễ rún Thế Tôn
Thâm tâm kính lễ chân của Phật.
Khổ thay chẳng thấy Phật Niết Bàn
Xin hiện bày chỗ tôi kính lễ.
Như Lai ở đời chúng an vui
Nay nhập Niết Bàn đều rất khổ.
Buồn thay buồn thay quá đớn đau
Đại bi hiện chỗ tôi lễ.
Lúc ngài Ma Ha Ca Diếp khóc than nói kệ rồi, đấng đại bi Thế Tôn liền hiện hai bàn chân thiên bức luân tướng ra ngoài kim quan. Từ thiên bức luân phóng ngàn tia sáng chiếu khắp tất cả thế giới ở mười phương.
Ngài Ma Ha Ca Diếp cùng các Tỳ Kheo thấy chân Phật, đồng thời cúi lạy tướng thiên bức luân. Vì quá cảm động, các ngài mê muội ngất xỉu, giây lâu tỉnh lại nghẹn ngào kêu khóc đi nhiễu bảy vòng rồi lại đảnh lễ chân Phật buồn khóc nói kệ rằng:
Như Lai tâm đại bi trọn vẹn
Từ quang bình đẳng không phân biệt
Chúng sanh có cảm đều ứng hiện
Cho tôi được thấy tước túc luân.
Nay tôi thâm tâm quy mạng lễ
Đấng hai chân thiên bức luân tướng
Trong thiên luân phóng ngàn tia sáng
Chiếu khắp cõi Phật ở mười phương.
Nay tôi quy y cúi đầu lạy
Thiên bức luân tướng phóng ánh sáng
Chúng sanh đước chiếu đều giải thoát
Tam đồ bát nạn đều lìa khổ.
Tôi lại quy y cúi đầu lạy
Ánh sáng khắp cứu các ác thú.
Thuở xưa Thế Tôn từ nhiều kiếp
Vì chúng tôi siêng tu khổ hạnh
Ngày nay chứng được thân kim cang
Do đây dưới chân ngàn tia sáng.
Buồn thương cúi đầu quy mạng lễ
Thiên luân an lạc các chúng sanh.
Phật tu công đức vì tất cả
Dưới cội đạo thọ hàng bốn ma
Bốn ma hàng rồi dẹp ngoại đạo
Nhân đây chúng sanh được chánh kiến
Cung kính quy y cúi đầu lạy
Chân sáng khiến chúng được chánh kiến
Phật là cha lành của tất cả
Chân sáng bình đẳng độ chúng sanh.
Tôi lại quy y cúi đầu lạy
Chân sáng bình đẳng cứu thoát khổ
Tôi gặp chân sáng thiên bức luân
Buồn mừng xen lộn đau đớn lòng.
Tôi lại khóc than cúi đầu lạy
Tướng sáng thiên luân có cảm ứng
Quy y cúi lạy ánh sáng chân
Nương thừa rốt ráo ra ba cõi.
Kỉnh lệ chân trời người quy y
Ánh sáng khắp soi ba cõi khổ
Chúng sanh chưa được giải thoát khổ
Thảy đều quy mạng chân thiên quang
Chúng tôi luân hồi chưa ra khỏi
Cớ sao chân Phật lại bỏ rơi!
Thương thay thương thay cho chúng sanh
Tia sáng thiên luân mãi chẳng thấy.
Sám hối với đấng đại từ bi
Đảnh lễ chân vàng ngàn tia sáng
Buốn thay nay gặp tướng thiên luân
Từ đây lúc nào được thấy lại!
Ngài Ma Ha Ca Diếp cùng các Tỳ Kheo nói kệ trên đầy rồi, lại ngất xỉu mê muội, giây lâu tỉnh lại nghẹn ngào buồn thương không dằn được.
Hai chân Kim Cang thiên bức luân tướng của đấng Đại Giác Thế Tôn tự rút vào kim quan đóng kín như cũ.
Tất cả nhân dân đại chúng trời người ngó thấy ngài Ma Ha Ca Diếp càng thêm sầu khổ đấm ngực kêu gào tiếng khóc than vang động cả thế giới, đem lễ vật nghẹn ngào dâng cúng.
Lúc đó trong thành Câu Thi Na sai bốn lực sĩ đeo chuỗi ngọc trang nghiêm nơi thân, tay cầm đuốc lớn như bánh xe, ngọn lửa chói sáng, đến đốt lầu hương để trà tỳ Như Lai. Vừa đến lầu hương lửa đuốc liền tắt. Trong thành lại sai tám lực sĩ, lần lượt sai đến ba mươi sáu đại lực sĩ, mỗi lực sĩ vác đuốc lớn đến châm vào lầu hương để đốt. Tất cả lửa đuốc đều tắt.
Ngài Ma Ha Ca Diếp bảo các lực sĩ cùng mọi người rằng kim quan của Phật, lửa trong tam giới không thể đốt cháy được. Đại chúng nên biết rằng giả sử tất cả những lửa trên trời cùng nhân gian đều không thể trà tỳ kim quan của Như Lai. Mọi người chớ gắng gượng luống đốt nhọc nhằn.
Đại chúng nghe lời trên đây càng thêm buồn khổ đồng nhau đảnh lễ cúng dường đi nhiễu kim quan bảy vòng, tiếng khóc than vang động cả mười phương.
Lúc đấy giờ đức Như Lai dùng sức đại bi, từ nơi ngực phóng ngọn lửa ra ngoài kim quan, lần lần đốt cháy lầu hương trải qua bảy ngày mới cháy hết.
Tất cả đại chúng trời người cùng nhân dân nam nữ trong thành cũng buồn than khóc lóc trọn bảy ngày không dứt tiếng, đồng thời chẳng ngớt cúng dường đảnh lễ.
Lúc đó Tứ Thiên Vương đều nghĩ rằng: tôi dùng nước thơm rưới tắt lửa, gấp lượm lấy xá lợi đem về cõi trời cúng dường. Nghĩ xong, Tứ Thiên Vương liền mang bình vàng đựng đầy nước thơm, lại đem bốn cây cam nhũ, bốn cây này mọc ở trên bốn triền núi Tu Di, mỗi cây cao trăm do tuần, lớn một ngàn ôm, đồng đến chỗ trà tỳ. Thiên Vương trút nước thơm trong bình, bốn cây tuôn nước cam nhũ tưới lên ngọn lửa. Tưới, xong thấy lửa càng mạnh không tắt.
Lúc đó Hải Thần cùng Ta Già La Long Vương và Giang Thần, Hà Thần thấy Tứ Thiên Vương tưới nước thơm chẳng tắt lửa, đều nghĩ rằng: chúng ta đem nước thơm tưới tắt lửa thâu gấp xá lợi đem về cúng dường tại chỗ của chúng ta. Nghĩ xong, mỗi thần cầm bình báu đựng vô lượng nước thơm mang đến chỗ trà tỳ đồng thời tưới trên lửa, thấy lửa như cũ không tắt chút nào.
Ngài A Nâu Lâu Đà hỏi Tứ Thiên Vương cùng các thần: "Các ông tưới nước thơm, có phải muốn lửa tắt để lấy xá lợi về cúng dường tại chỗ ở của các ông chăng?"
- Thưa ngài A Nâu Lâu Đà! Đúng như vậy.
Ngài A Nâu Lâu Đà bảo Tứ Thiên Vương: "Các ông lòng quá tham! Nếu tất cả xá lợi đều theo các ông về thiên cung, người ở địa cầu làm sao lên trời được để cúng dường?"
Ngài lại bảo các thần: "Các ông ở trong biển lớn dưới sông sâu, nếu các ông đem xá lợi của đức Như Lai về chỗ ở của các ông, thời người trên mặt đất này làm sao đến đó để cúng dường?"
Tứ Thiên Vương cùng chư thần đều sám hối.
No comments:
Post a Comment