Wednesday, July 8, 2015

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q3) - Phẩm CA DIẾP BỒ TÁT (phần 3)

Ca Diếp Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Tất cả chúng sanh đều có noãn pháp. Vì đức Phật nói ba pháp hòa hiệp gọi là chúng sanh: một là thọ, hai là noãn, ba là thức. Nếu theo nghĩa này thời tất cả chúng sanh lẽ ra trước đã có noãn. Tại sao đức Như Lai nói rằng noãn pháp do bạn lành mà có?"
Phật nói: "Này thiện nam tử! Như noãn pháp của ông hỏi thời tất cả chúng sanh đến nhất-xiển-đề đều có. Noãn pháp của ta nói hôm nay phải do phương tiện rồi sau mới được, chẳng phải tất cả chúng sanh đều có trước.
Nay ông chẳng nên gạn rằng tất cả chúng sanh đều có noãn pháp.
Này thiện nam tử! Noãn pháp này thuộc về cõi sắc, chẳng phải cõi dục có được. Vì cõi dục không có, nên biết rằng tất cả chúng sanh bất tất đều có.
Này thiện nam tử! Cõi sắc dầu có noãn pháp nhưng chẳng phải tất cả đều có, vì đệ tử của ta thời có, còn ngoại đạo thời không.
Này thiện nam tử! Tất cả ngoại đạo chỉ quán được sáu hạnh. Đệ tử của ta thời quán đủ cả mười sáu hạnh. Mười sáu hạnh này tất cả chúng sanh bất tất đều có."
- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là noãn? Là tánh nó tự noãn hay vì pháp khác mà noãn?
- Này thiện nam tử! Noãn pháp này tánh nó là noãn chẳng phải do pháp khác mà noãn.
- Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai trước kia nói rằng Mã Sư mà Mãn Tú không có noãn pháp, vì hai người này không có tín tâm đối với Tam Bảo. Do đây nên biết rằng tín tâm chính là noãn pháp.
- Này thiện nam tử! Tín tâm chẳng phải là noãn pháp, vì do tín tâm mà chứng noãn pháp.
Này thiện nam tử! Luận về noãn pháp chính là trí huệ, vì quán tứ đế nên gọi là mười sáu hạnh. Hạnh đây chính là trí.
Này thiện nam tử! Như lời ông hỏi duyên cớ gì gọi là noãn?
Này thiện nam tử! Luận về noãn pháp chính là tướng lửa của tám thánh đạo.
Như cọ lửa: Trước có hơi nóng, kế có lửa, rồi sau có khói, đạo, vô lậu này cũng như vậy. Hơi nóng là mười sáu hạnh, lửa là quả Tu Đà Hoàn, khói là trong vị tu đạo dứt kiết sử.
- Bạch Thế Tôn! Noãn pháp này cũng là pháp có, cũng là hữu vi. Noãn pháp này được quả báo thân ngũ ấm cõi sắc nên gọi là có. Vì là nhân duyên nên lại gọi là hữu vi. Nếu là hữu vi tại sao có thể làm tướng đạo vô lậu? 
 - Này thiện nam tử! Đúng như vậy! Noãn pháp này dầu là pháp hữu vi hữu lậu, nhưng trở lại có thể phá hoại pháp hữu vi hữu lậu, nên có thể làm tướng đạo vô lậu. Như người cỡi ngựa cũng thương ngựa nhưng cũng đánh ngựa. Noãn pháp cũng vậy: Vì ái mà thọ sanh, vì nhàm mà tu quán hạnh, do đây nên dầu là hữu lậu hữu vi mà có thể làm tướng cho chánh đạo kia.
Có bảy mươi ba hạng người được noãn pháp: cõi dục mười hạng người. Mười hạng người này đầy  đủ tất cả phiền não: từ dứt một phần đến chín phần. Như cõi dục, Sơ thiền nhẫn đến Vô Sở Hữu Xứ cũng như vậy. Đây gọi là bảy mươi ba. Những người này được noãn pháp rồi thời chẳng còn lại có thể dứt căn lành tạo tội ngũ nghịch phạm bốn tội trọng. Những người này có hai hạng: một là gặp bạn lành, hai là gặp bạn ác.
Người gặp bạn ác tạm thời nổi lên rồi chìm trở lại.
Người gặp bạn lành thời quan sát khắp bốn phương. Quan sát bốn phương chính là đảnh pháp, đảnh pháp này dầu cũng là tánh ngũ ấm, nhưng vẫn duyên nơi bốn đế lý, nên được gọi là quan sát khắp bốn phương. Được đảnh pháp rồi kế được nhẫn pháp. Nhẫn pháp này tánh nó cũng là ngũ ấm, cũng duyên bốn đế lý. Người này kế được thế đệ nhất pháp, pháp này dầu tánh là ngũ ấm nhưng cũng duyên bốn đế lý. Người này kế được khổ pháp nhẫn, tánh của nhẫn là huệ duyên nơi một đế lý. Pháp nhẫn này duyên một đế lý rồi nhẫn đến kiến đạo dứt phiền não đặng quả Tu Đà Hoàn. Đây gọi là quan sát khắp bốn phương, bốn phương chính là bốn đế lý.
- Bạch Thế Tôn! Trước kia đức Phật nói rằng những phiền não của bậc Tu Đà Hoàn dứt, dường như dòng nước rộng bốn mươi dặm, những phiền não còn lại như giọt nước đầu sợi lông.
Nơi đây sao lại nói dứt ba món kiết sử gọi là bậc Tu Đà Hoàn: Một là ngã kiến, hai là chẳng phải nhân thấy là nhân, ba là lưới nghi.
Bạch Thế Tôn! Nhân duyên gì gọi là Tu Đà Hoàn xem khắp bốn phương? Lại do duyên gì mà gọi là Tu Đà Hoàn? Duyên cớ gì đem cá Tích để dụ bậc Tu Đà Hoàn?
- Này thiện nam tử! Bậc Tu Đà Hoàn dầu có thể dứt vô lượng phiền não, nhưng ba món kiết này nặng nhất và cũng nhiếp tất cả những kiết sử của bậc Tu Đà Hoàn dứt, nên nói là dứt ba món kiết sử.
Như Quốc Vương lúc đi tuần du, dầu có các quan và bốn đạo binh, nhưng người đời chỉ nói rằng nhà vua đến, nhà vua đi. Trong đây nói dứt ba món phiền não này cũng như vậy. Duyên cớ gì ba món kiết này là nặng? Vì tất cả chúng sanh thường khởi phiền não này và vì vi tế khó biết, nên gọi là nặng. Vì ba món kiết này khó dứt được, vì nó có thể làm nhân cho tất cả phiền não, là oán địch bị đối trị của giới, định, huệ.
Này thiện nam tử! Có những chúng sanh nghe bậc Tu Đà Hoàn có thể dứt vô lượng phiền não như vậy, thời chúng nó sanh lòng thối chuyển mà nói rằng: chúng ta thế nào có thể dứt vô lượng phiền não như vậy. Do đây nên đức Như Lai phương tiện nói dứt ba kiết sử.
Này thiện nam tử! Bậc Tu Đà Hoàn quán tứ đế được bốn điều: một là kiên cố trụ chánh đạo, hai là có thể khắp quan sát, ba là có thể thấy đúng như thật, bốn là có thể phá hoại oán địch lớn. Bậc Tu Đà Hoàn thành tựu tín v.v… Ngũ căn không ai có thể lay động, nên gọi là kiên cố trụ nơi chánh đạo. Bậc này đều có thể quở trách những phiền não trong và ngoài, nên gọi là khắp quan sát. Thấy đúng như thật chính là nhẫn trí. Oán địch lớn là nói bốn thứ điên đảo.
Này thiện nam tử! Chữ Tu là vô lậu, chữ Đà Hoàn là tu tập, vì tu tập vô lậu nên gọi là Tu Đà Hoàn. Lại có nghĩa chữ Tu là dòng, vì ngược dòng nên gọi là Tu Đà Hoàn.
- Bạch Thế Tôn! Nếu theo nghĩa này, duyên cớ gì những bậc Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán chẳng được gọi là Tu Đà Hoàn?
- Này thiện nam tử! Từ bậc Tu Đà Hoàn nhẫn đến chư Phật cũng đều được gọi là Tu Đà Hoàn cả. Nếu bậc Tư Đà Hàm đến chư Phật mà không có danh nghĩa Tu Đà Hoàn, thời đâu được gọi là Tư Đà Hàm nhẫn đến Phật.
Tất cả chúng sanh về danh tự có hai thứ: một là tên cũ, hai là tên mới. Lúc còn phàm phu có danh tự thế tục, lúc đã đắc đạo lại đặt tên gọi là Tu Đà Hoàn. Trước gọi là Tu Đà Hoàn, vì lúc sau đắc quả nên gọi là Tư Đà Hàm. Người này cũng gọi là Tu Đà Hoàn, cũng gọi là Tư Đà Hàm, nhẫn đến chư Phật cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Có hai thứ dòng: một là giải thoát, hai là Niết Bàn. Tất cả thánh nhân đều có hai dòng này, nên cũng được gọi là Tu Đà Hoàn cũng gọi là Tư Đà Hàm, nhẫn đến Phật cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Bậc Tu Đà Hoàn cũng gọi là Bồ Tát. Vì Bồ Tát chính là tận trí và vô sanh trí. Bậc Tu Đà Hoàn cũng mong cầu hai trí này, nên được gọi là Bồ Tát.
Bậc Tu Đà Hoàn cũng được gọi là giác. Vì chánh giác kiến đạo dứt phiền não, vì chánh giác nhân quả, vì chánh giác cộng đạo và bất cộng đạo. Bậc Tư Đà Hàm nhẫn đến bậc A La Hán cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Có hai hạng Tu Đà Hoàn: Lợi căn và độn căn. Bậc độn căn bảy lần sanh cõi người cõi trời, hoặc sáu lần, năm lần, bốn lần, ba lần, hai lần sanh cõi người cõi trời mới chứng quả A La Hán. Bậc lợi căn hiện đời chứng quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán.
Này thiện nam tử! Cá Tích có bốn điều: Một là xương nhỏ nên nhẹ, hai là có cánh nên nhẹ, ba là thích thấy ánh sáng, bốn là ngậm được vật thời giữ chặt.
Bậc Tu Đà Hoàn cũng có bốn điều: Một là phiền não nhỏ nhẹ như cá Tích nhỏ xương, hai là có chỉ có quán như cá Tích có cánh, ba là kiến đạo như cá Tích thích thấy ánh sáng, bốn là nghe thấy đức Phật nói nghĩa vô thường khổ vô ngã bất tịnh thời kiên trì chẳng bỏ như cá Tích ngậm được vật thời giữ chặt.
Như trước kia ma vương hóa làm thân Phật, Thủ La trưởng giả xem thấy trong lòng kính sợ. Ma thấy tâm trưởng giả động bèn bảo trưởng giả rằng: Trước kia ta nói bốn chân đế, thuyết đó không chân thật. Nay ta vì ông mà nói năm đế, sáu ấm, mười ba nhập, mười chín giới. Thủ La trưởng giả nghe lời này liền quan sát pháp tướng đều không có lý đó, nên kiên trì nghĩa cũ, tâm ông chẳng lay động.
- Bạch Thế Tôn! Bậc Tu Đà Hoàn này vì đắc đạo trước mà gọi là Tu Đà Hoàn hay là vì chứng sơ quả mà gọi là Tu Đà Hoàn? Nếu vì đắc đạo trước, thời lúc được khổ pháp nhẫn cớ sao chẳng gọi là Tu Đà Hoàn mà gọi là Hướng? Nếu vì được sơ quả, thời người ngoại đạo trước dứt phiền não đến vô sở hữu xứ tu đạo vô lậu được quả A Na Hàm, cớ sao chẳng gọi là Tu Đà Hoàn?
- Này thiện nam tử! Vì được sơ quả mà gọi là Tu Đà Hoàn, lúc đó người này đủ tám trí và mười sáu hạnh.
- Bạch Thế Tôn! Người được A Na Hàm cũng đầy đủ tám trí và mười sáu hạnh, cớ sao chẳng được gọi là Tu Đà Hoàn?
- Này thiện nam tử! Mười sáu hạnh hữu lậu có hai thứ: Cộng và Bất cộng. Mười sáu hạnh vô lậu cũng có hai: hướng quả và đắc quả. Tám trí cũng có hai: hướng quả và đắc quả. Bậc Tu Đà Hoàn rời bỏ mười sáu hạnh cộng, chứng được mười sáu hạnh bất cộng, rời bỏ tám trí hướng quả chứng được tám trí đắc quả. Bậc A Na Hàm thời chẳng như vậy. Do đây nên sơ quả gọi là Tu Đà Hoàn.
Này thiện nam tử! Bậc Tu Đà Hoàn duyên nơi tứ đế, bậc A Na Hàm chỉ duyên nhất đế, nên sơ quả gọi là Tu Đà Hoàn.
Do nhân duyên trên đây nên dùng cá Tích để ví dụ, ngó khắp bốn phương rồi bèn đi. Nói đi là chỉ cho bậc Tư Đà Hàm nhiếp tâm tu hành để dứt trừ tham, sân, si, mạn.
Như cá Tích kia nhìn xem khắp bốn phương rồi vì kiếm ăn nên đi, đi rồi lại đứng lại, đây là dụ bậc A Na Hàm được món ăn rồi thời dừng lại. Có hai hạng A Na Hàm: một là hiện tại được quả A Na Hàm rồi tiến tu được quả A La Hán, hai là hạng tham trước tam muội tịch tịnh trong cõi sắc và cõi vô sắc, bậc này chẳng thọ thân cõi dục nên gọi là A Na Hàm. Bậc A Na Hàm này lại có năm hạng: một là trung bát Niết Bàn, hai là thọ thân bát Niết Bàn, ba là hành bát Niết Bàn, bốn là vô hành bát Niết Bàn, năm là thượng lưu bát Niết Bàn. Lại có sáu hạng là thân hiện tại bát Niết Bàn. Lại có bảy hạng là thân vô sắc giới bát Niết Bàn.
Hạng hành bát Niết Bàn có hai: hoặc thọ hai thân, hoặc thọ bốn thân. Nếu thọ hai thân thời gọi là lợi căn, nếu thọ bốn thân thời gọi là độn căn. Lại có hai hạng, một là tinh tấn ma không chánh định tự tại, hai là giải đãi mà có chánh định tự tại. Lại có hai hạng: một là có đủ tin tấn và chánh định tự tại, hai là chẳng có cả hai.
Này thiện nam tử! Chúng sanh trong cõi dục, cõi sắc có hai thứ nghiệp: Tác nghiệp và thọ sanh nghiệp. Bậc A Na Hàm trung bát Niết Bàn chỉ có tác nghiệp mà không thọ sanh nghiệp, nên bỏ thân cõi dục lúc chưa đến cõi sắc, vì lợi căn mà bát Niết Bàn. Bậc A Na Hàm trung bát Niết Bàn này có bốn tâm: một là phi học, phi vô học; hai là học; ba là vô học; bốn là phi học, phi vô học nhập Niết Bàn. Thế nào lại gọi là trung bát Niết Bàn?
Này thiện nam tử! Trong bốn thứ tâm của bậc A Na Hàm này hai tâm là Niết Bàn, hai tâm là chẳng phải Niết Bàn, do đây nên gọi là trung bát Niết Bàn.
Bậc A Na Hàm thọ thân bát Niết Bàn có hai thứ: một là tác nghiệp, hai là sanh nghiệp. Bậc này bỏ thân dục giới thọ thân sắc giới, tinh tấn tu hành mãn thọ mạng thời nhập Niết Bàn.
Bạch Thế Tôn! Nếu là thọ mạng hết nhập Niết Bàn, tại sao gọi rằng thọ thân Niết Bàn?
- Này thiện nam tử! Bậc này thọ thân rồi sau mới dứt hết phiền não trong tam giới, nên gọi là thọ thân Niết Bàn.
Bậc A Na Hàm thường tu hành do sức tam muội hữu vi có thể dứt phiền não nhập Niết Bàn, do đây nên gọi là hành bát Niết Bàn.
Bậc A Na Hàm rõ biết quyết định sẽ chứng được Niết Bàn nên giãi đãi, cũng do sức tam muội hữu vi mãn thọ mạng thời được nhập Niết Bàn, do đây gọi là vô hành bát Niết Bàn.
Nếu bậc A Na Hàm được đệ tứ thiền rồi lại sanh lòng mến sơ thiền do đây sanh xuống trời sơ thiền. Nơi đây có hai dòng: Dòng phiền não và dòng đạo mà mến nhị thiền, nên sanh lên trời nhị thiền, lần đến trời tứ thiền cũng như vậy.
Bậc này trong trời tứ thiền lại có hai hạng: một là vào cõi vô sắc, hai là vào trời Ngũ Tịnh Cư. Hai bậc này, bậc thích tam muội thời vào cõi vô sắc. Bậc thích trí huệ thời vào trời Ngũ Tịnh Cư. Hai bậc trên đây, một hạng tu đệ tứ thiền có năm từng cấp, một hạng chẳng tu.
Thế nào là năm từng cấp? Là hạ, trung, thượng, thượng trung, thượng thượng. Bậc tu thượng thượng thời ở trời Sắc Cứu Cánh, bậc tu trung thượng thời ở trời Thiện Hiện, bậc tu thượng phẩm thời ở trời Thiện Kiến, bậc tu trung phẩm thời ở trời Vô Nhiệt, bậc tu hạ phẩm thời ở trời Vô Phiền.
Hai bậc này, một thời ưa luận nghị ở trời Ngũ Tịnh Cư, một thời ưa tịch tịnh vào cõi Vô Sắc.
Lại có hai hạng: một thời tu huân thiền vào trời Ngũ Tịnh Cư, một thời chẳng tu huân thiền Sanh cõi Vô Sắc mãn thọ mạng mà nhập Niết Bàn, do đây gọi là thượng lưu bát Niết Bàn. Nếu muốn vào cõi Vô Sắc thời không thể tu năm từng cấp tứ thiền. Nếu tu năm từng cấp này thời có thể quở trách định vô sắc.
- Bạch Thế Tôn! Bậc trung bát Niết Bàn là lợi căn. Nếu là lợi căn cớ sao chẳng hiện tại nhập Niết Bàn? Cớ sao dục giới có hạng trung bát Niết Bàn mà sắc giới thời không.
- Này thiện nam tử! Người này thân tứ đại hiện tại yếu kém không thể hành đạo. Dầu có Tỳ Kheo thân thể tráng kiện nhưng những duyên nhà cửa y phục uống ăn thuốc men v.v… chẳng đủ, nên chẳng được hiện tại bát Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Ngày trước có một lúc ta ở nước Xá Vệ tại Tinh Xá A Nan Phân Chỉ, có một Tỳ Kheo đến bạch với ta rằng ông luôn tu hành mà chẳng thể được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán. Lúc đó ta liền nảo A Nan rằng: nay ông nên lo đủ đồ cùng cho Tỳ Kheo này.
A Nan liền dắt Tỳ Kheo đó đến rừng Kỳ Đà cho ở phòng nhà tốt. Tỳ Kheo đó nói với A Nan rằng: Trông mong đại đức vì tôi mà trần thiết phòng nhà, dọn dẹp thật sạch sẽ, dùng thất bảo trang nghiêm, treo phan lọng bằng lụa.
A Nan nói: Người nghèo trong thế gian mới gọi là Sa Môn, tôi làm sao sắm được những đồ như vậy?
Tỳ Kheo nói: Nếu đại đức có thể sắm sửa được cho tôi thời tốt lắm, bằng không thời tôi sẽ trở về ra mắt Phật.
A Nan liền trở về đem việc ấy bạch với Phật. Đức Phật liền bảo A Nan sắm sửa tất cả đồ dùng theo ý của Tỳ Kheo đó.
Tỳ Kheo đó được những đồ cần dùng theo ý mình muốn, liền nhiếp niệm tu hành, không bao lâu chứng được quả Tu Đà Hoàn lần đến quả A La Hán.
Này thiện nam tử! Vô lượng chúng sanh đáng được nhập Niết Bàn, nhưng vì thiếu thốn chướng ngại loạn động tâm niệm của họ, nên chẳng chứng được.
Này thiện nam tử! Lại có chúng sanh thích giáo quá nhiều, tâm họ bực bội nhiều việc chẳng thể được chánh định nên hiện tại không được bát Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Như lời ông hỏi: Duyên cớ gì bỏ thân dục giới có hạng trung bát Niết Bàn, còn sắc giới thời không?
Này thiện nam tử! Người này quán phiền não cõi dục có hai nhân duyên: nội và ngoại, mà trong cõi sắc thời không ngoại nhân duyên. Cõi dục lại có hai thứ ái tâm: dục ái và sắc ái, quán hai ái tâm này rồi hết lòng quở trách, do quở trách này mà được nhập Niết Bàn. Trong cõi dục có thể quở trách được những phiền não thô: Xan tham, sân hận, tật đố, vô tàm, vô quý, do đây nên được nhập Niết Bàn. Lại người trong cõi dục tánh chất dũng kiện, vì được hướng quả, nên trong cõi dục có trung bát Niết Bàn, trong cõi sắc thời không.
Này thiện nam tử! Trung bát Niết Bàn có ba hạng: thượng, trung và hạ. Hạng thượng lúc bỏ thân chưa rời cõi dục bèn được Niết Bàn. Hạng trung mới rời cõi dục chưa đến cõi sắc bèn được Niết Bàn. Hạng hạ rời khỏi cõi dục đến ranh cõi sắc bèn được Niết Bàn.
Như cá Tích khi đi kiếm được đồ ăn thời dừng lại, hạng này cũng vậy, ở nơi cõi sắc và cõi vô sắc mà được thọ thân nên gọi là dừng lại. Và cũng do chẳng còn thọ thân nhân, thiên, địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ trong cõi dục nên gọi là dừng lại. Vì đã dứt vô lượng phiền não kiết sử còn thừa lại chút ít nên gọi là dừng lại. Lại vì vĩnh viễn chẳng gây tạo nghiệp phàm phu nên gọi là dừng lại. Lại vì tự chẳng còn sợ sệt, cũng làm cho người khác sợ sệt nên gọi là dừng lại. Vì xa lìa hai ác tâm: xan tham, sân hận nên gọi là dừng lại.
Này thiện nam tử! Bậc đến bờ kia là A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư Phật Thế Tôn, dụ như thần quy trên bờ dưới nước đều đi tự tại.
Duyên cớ gì dùng thần quy để ví dụ? Vì thần quy khéo giấu năm chi.
Bậc A La Hán nhẫn đến chư Phật cũng khéo giấu che năm căn. Dưới nước là dụ thế gian, trên bờ là dụ xuất thế. Các bậc thánh này có thể quán sát tất cả ái phiền não lên đến bờ kia, nên dụ như thần quy dưới nước trên bờ đều đi tự tại.
Này thiện nam tử! Như bảy hạng chúng sanh trong sông Hằng, dầu có tên cá rùa nhưng chẳng rời khỏi nước, kinh Đại Niết Bàn này từ nhất-xiển-đề lên đến chư Phật, dầu có tên khác nhau nhưng cũng chẳng rời khỏi Phật tánh.
Này thiện nam tử! Bảy hạng chúng sanh đây, hoặc pháp lành hoặc pháp ác, hoặc đạo phương tiện, hoặc đạo giải thoát, hoặc đạo thứ đệ, hoặc nhân, hoặc quả, tất cả đều là Phật tánh. Đây gọi là từ ngữ tùy tự ý của Như Lai.
- Bạch Thế Tôn! Nếu có nhân thời có quả, không nhân thời không quả. Niết Bàn gọi là quả, là thường trụ nên không nhân. Nếu đã không nhân tại sao gọi là quả? Niết Bàn đây cũng gọi là Sa Môn, cũng gọi là Sa Môn quả. Thế nào là Sa Môn? Thế nào là Sa Môn quả?
- Này thiện nam tử! Trong thế gian có bảy thứ quả: một là phương tiện quả, hai là báo ân quả, ba là thân cận quả, bốn là dư tàn quả, năm là bình đẳng quả, sáu là quả báo quả, bảy là viễn ly quả.
Như người đời, mùa thu thâu gặt được nhiều lúa, bảo nhau rằng được phương tiện quả. Phương tiện quả gọi là nghiệp hành quả. Quả này có hai nhân: cận nhân và viễn nhân. Cận nhân là một giống, viễn nhân là nước phân nhân công. Đây gọi là phương tiện quả.
Như người đời phụng dưỡng cha mẹ. Cha mẹ nói rằng nay chúng tôi đã được quả báo ơn phụng dưỡng. Người con có thể báo ơn gọi đó là quả. Quả này có hai nhân: cận nhân và viễn nhân, cận nhân là nghiệp thuần thiện đời quá khứ của cha mẹ, viễn nhân là sanh ra người con có hiếu. Đây gọi là báo ân quả.
Như có người gần gũi bạn lành, hoặc được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán. Người này nói rằng nay tôi được quả báo thân cận. Quả này có hai nhân: cận nhân và viễn nhân. Cận là tín tâm, viễn là bạn lành. Đây gọi là thân cận quả.
Như do chẳng sát sanh mà được thân thứ ba sống lâu, đây gọi là dư tàn quả. Quả này cũng có hai nhân: cận nhân và viễn nhân. Cận là thân, khẩu, ý thanh tịnh, viễn là sống lâu. Đây gọi là dư tàn quả.
Bình đẳng quả là nói khí thế giới, quả này cũng có hai nhân: một là cận nhân, hai là viễn nhân. Cận nhân là chúng sanh tu mười nghiệp lành. Viễn nhân là đại tam tai.
Quả báo quả là như người chứng đặng thân thanh tịnh rồi tu ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, người này bèn nói tôi được quả báo. Quả này có hai nhân: cận nhân và viễn nhân. Cận nhân là hiện tại thân, khẩu, ý thanh tịnh. Viễn nhân là quá khứ thân, khẩu, ý thanh tịnh.
Viễn ly quả tức là Niết Bàn lìa các phiền não. Tất cả nghiệp lành là nhân Niết Bàn. Nhân Niết Bàn này có hai: cận nhân và viễn nhân. Cận nhân là ba môn giải thoát, viễn nhân tức là pháp lành đã tu từ vô lượng đời.
Này thiện nam tử! Như pháp thế gian hoặc nói sanh nhân, hoặc nói liễu nhân. Pháp xuất thế cũng như vậy, cũng nói sanh nhân cũng nói liễu nhân. Ba môn giải thoát, ba mươi bảy phẩm trợ đạo có thể làm cho sanh nhân của tất cả phiền não chẳng sanh được, mà cũng làm liễu nhân cho Niết Bàn. Xa lìa phiền não thời đặng thấy rõ Niết Bàn, nên Niết Bàn chỉ có liễu nhân mà không có sanh nhân.
Này thiện nam tử! Như lời ông hỏi: Thế nào là Sa Môn? Thế nào là Sa Môn quả?
Này thiện nam tử! Sa Môn Na tức là bát chánh đạo. Sa Môn Quả là từ nơi đạo rốt ráo xa lìa tất cả tham, sân, si v.v… đây gọi là Sa Môn Na và Sa Môn Quả.
- Bạch Thế Tôn! Duyên cớ gì bát chánh đạo gọi là Sa Môn Na.
- Này thiện nam tử! Trong đời nói Sa Môn gọi đó là thiếu thốn. Na gọi là đạo. Đạo này dứt tất cả thiếu thốn, và dứt tất cả đạo, do nghĩa này gọi bát chánh đạo là Sa Môn Na. Từ trong đạo này chứng được thánh quả nên gọi là Sa Môn Quả.
Lại Sa Môn Na, như người đời có ai thích tịch tịnh cũng gọi là Sa Môn, đạo này cũng như vậy, có thể làm cho người tu hành xa lìa những sự ác tà mạng v.v… của thân, khẩu, ý đặng vui tịch tịnh, nên gọi đó là Sa Môn Na.
Như trong đời người dưới có thể làm người trên, đây gọi là Sa Môn. Đạo này cũng như vậy, có thể làm cho người dưới thành người trên nên được gọi là Sa Môn Na.
Bậc A La Hán tu đạo này được quả Sa Môn, được gọi là đến nơi bờ kia. Quả A La Hán chính là năm phần pháp thân vô học: giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Do năm phần này được đến bờ kia, nên gọi là đến bờ kia. Do đến bờ kia nên tự nói rằng tôi đã hết sanh tử, phạm hạnh đã trọn, chỗ làm đã xong, chẳng thọ thân đời sau.
Này thiện nam tử! Bậc A La Hán dứt hẳn nhân duyên sanh tử ba đời, nên tự nói tôi đã hết sanh tử. Bậc này cũng dứt thân ngũ ấm trong ba cõi nên lại nói rằng tôi đã hết sanh tử. Chỗ tu phạm hạnh đã rốt ráo nên xướng rằng phạm hạnh đã trọn, lại vì xả học đạo nên cũng gọi là đã trọn. Như chỗ mong cầu lúc trước ngày nay đã được, nên lại xướng rằng chỗ làm đã xong. Vì được tận trí và vô sanh trí nên nói rằng tôi đã hết sanh tử, dứt hết kiết sử hữu lậu. Do nghĩa này nên gọi bậc A La Hán đặng đến bờ kia.
Như A La Hán, bậc Bích Chi Phật cũng lại như vậy.
Bồ Tát và Phật thành tựu đầy đủ sáu môn ba-la-mật gọi là đến bờ kia. Phật và Bồ Tát được vô thượng chánh giác rồi gọi là đầy đủ sáu môn ba-la-mật, vì được quả của sáu môn ba-la-mật như vậy. Do được quả nên gọi là đầy đủ.
Này thiện nam tử! Bảy chúng sanh đây vì chẳng thể tu tập bốn điều: thân, giới, tâm và huệ, nên hay gây tạo tội ngũ nghịch, dứt căn lành, phạm bốn tội trọng, huỷ báng Phật, Pháp, Tăng, do đây nên gọi là thường chìm đắm.
Này thiện nam tử! Trong bảy hạng chúng sanh này ai có thể gần gũi thiện tri thức chí tâm nghe và nhận lấy chánh pháp của Như Lai, trong tâm khéo tư duy ở đúng pháp, siêng năng tu tập thân, giới, tâm, huệ, do đây nên được gọi là qua khỏi sông sanh tử đến nơi bờ kia.
Nếu có người nói rằng: nhất-xiển-đề được vô thượng chánh giác, lời này gọi là nhiễm trước. Nếu nói rằng chẳng được, thời gọi là lời hư vọng.
Này thiện nam tử! Bảy hạng này, hoặc có một người đủ cả bảy, hoặc mỗi người mỗi hạng.
Nếu có người nào tâm tưởng khác, miêng nói khác, cho rằng nhất-xiển-đề đặng vô thượng chánh giác, phải biết người này hủy báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu nói không được thời cũng gọi là hủy báng Phật, Pháp, Tăng.
Nếu nói rằng bát thánh đạo là của phàm phu được, hoặc nói chẳng phải phàm phu được, đều gọi là hủy báng Phật, Pháp, Tăng. 
Nếu nói rằng tất cả chúng sanh quyết định có Phật tánh, hoặc nói quyết định không Phật tánh đều gọi là hủy báng Phật, Pháp, Tăng: Này thiện nam tử! Do đây nên trong khế kinh ta nói rằng có hai hạng người huỷ báng Phật, Pháp, Tăng: một là người chẳng tin, vì họ giận hờn, hai là người dầu tin nhưng vì chẳng hiểu nghĩa.
Nếu người tin mà không có trí huệ thời hay thêm lớn vô minh. Nếu người có trí huệ mà không có tín tâm thời hai tăng trưởng tà kiến.
Người này chẳng tin vì tâm họ giận hờn nên nói rằng không có Phật, Pháp, Tăng. Người tin mà không trí huệ giải nghĩa điên đảo làm cho người nghe pháp hủy báng Phật, Pháp, Tăng. Do đây nên ta nói người chẳng tin vì lòng hờn giận, người tin lại không trí huệ, những người này hủy báng Phật, Pháp, Tăng.
Này thiện nam tử! Nếu nói rằng nhất-xiển-đề chưa sanh pháp lành bèn được vô thượng chánh giác, người nào cũng gọi là hủy báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu nói nhất-xiển-đề rời bỏ nhất-xiển-đề ở trong thân khác được vô thượng chánh giác, người này cũng gọi là hủy báng Phật, Pháp, Tăng.
Nếu nói rằng nhất-xiển-đề có thể sanh căn lành, sanh căn lành rồi nối luôn chẳng dứt chứng được vô thượng chánh giác, nên gọi rằng nhất-xiển-đề được vô thượng Bồ Đề, phải biết rằng người này chẳng hủy báng Tam Bảo.
Nếu có người nói rằng tất cả chúng sanh quyết định có Phật tánh thường, lạc, ngã, tịnh, bất tác, bất sanh, do vì phiền não nên chẳng thấy được, người này là hủy báng Phật, Pháp, Tăng.
Nếu nói rằng tất cả chúng sanh đều không có Phật tánh cũng như sừng thỏ, do từ phương tiện mà sanh, trước kia không nay mới có, có rồi trở lại không, người này là hủy báng Phật, Pháp, Tăng.
Nếu nói rằng Phật tánh của chúng sanh chẳng phải có như hư không, chẳng phải không như sừng thỏ. Vì hư không là thường, sừng thỏ là không, nên được nói là cũng có cũng không. Vì có nên phá sừng thỏ. Vì không nên phá hư không. Thuyết trên đây chẳng hủy báng Tam Bảo.
Này thiện nam tử! Luận về Phật tánh chẳng gọi là một pháp, chẳng gọi là mười pháp, chẳng gọi là trăm pháp, chẳng gọi là ngàn pháp, chẳng gọi là muôn pháp.
Lúc chưa được vô thượng chánh giác, tất cả thiện, bất thiện, vô ký đều gọi là Phật tánh. Có lúc đức Như Lai trong nhân nói quả, trong quả nói nhân, đây gọi là từ ngữ tùy tự ý của Như Lai. Vì tùy tự ý mà nói nên gọi là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác.
- Bạch Thế Tôn! Như lời của Phật nói: Phật tánh của chúng sanh dường như hư không. Thế nào là như hư không?
- Này thiện nam tử! Tánh hư không chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại.
Phật tánh cũng như vậy.
Hư không chẳng phải quá khứ, vì không phải hiện tại. Nếu pháp là hiện tại mới có thể nói là quá khứ, vì không hiện tại nên không quá khứ. Hiện tại cũng không, vì không vị lai. Nếu pháp là vị lai mới có thể nói là hiện tại. Vì không vị lai nên không hiện tại. Vị lai cũng không vì không hiện tại và quá khứ. Nếu pháp có hiện tại và quá khứ thời có vị lai, vì không quá khứ hiện tại nên không vị lai.
Do nghĩa trên đây nên tánh của hư không chẳng phải nhiếp trong ba đời.
Này thiện nam tử! Vì hư không là không nên không có ba đời, chẳng phải vì có mà không có ba đời. Như hoa đốm hư không vì chẳng phải là có nên không có ba đời. Hư không cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Không có vật chính đó là hư không, Phật tánh cũng như vậy. Vì hư không là không nên chẳng nhiếp trong ba đời. Vì Phật tánh là thường nên chẳng nhiếp trong ba đời.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai đã được vô thượng Bồ Đề, đức Như Lai chỗ được Phật tánh và tất cả Phật pháp là thường trụ không biến đổi. Do nghĩa này nên không có ba đời dường như hư không.
Này thiện nam tử! Vì hư không là không nên chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Vì Phật tánh là thường trụ nên chẳng phải trong chẳng phải ngoài, do đây nên nói rằng Phật tánh dường như hư không.
Này thiện nam tử! Như trong đời chỗ không chướng ngại thời gọi là hư không.
Đức Như Lai được vô thượng Bồ Đề rồi, nói tất cả Phật pháp đều không có chướng ngại, nên nói rằng Phật tánh dường như hư không.
- Bạch Thế Tôn! Phật tánh và Niết Bàn của Như Lai chẳng nhiếp trong ba đời mà gọi là có, hư không cũng chẳng nhiếp trong ba đời cớ sao chẳng được gọi là có ư?
- Này thiện nam tử! Vì chẳng phải Niết Bàn gọi là Niết Bàn, vì chẳng phải Như Lai gọi là Như Lai, vì chẳng phải Phật tánh gọi là Phật tánh.
Thế nào gọi là chẳng phải Niết Bàn? Nghĩa là tất cả phiền não những pháp hữu vi. Vì phá những phiền não hữu vi này mà gọi là Niết Bàn.
Thế nào là chẳng phải Như Lai? Chính là nhất-xiển-đề nhẫn đến bậc Bích Chi Phật. Vì phá nhất-xiển-đề nhẫn đến Bích Chi Phật này mà gọi là Như Lai.
Thế nào là chẳng phải Phật tánh? Chính là tất cả vật vô tình như tường, vách, ngói, đá v.v… lìa những vật vô tình này gọi là Phật tánh.
Này thiện nam tử! Tất cả thế gian không gì chẳng phải hư không đối với hư không.
- Bạch Thế Tôn! Thế gian cũng không gì chẳng phải là đối với tứ đại, mà còn được gọi tứ đại là có, hư không chẳng có đối cớ sao chẳng được gọi đó là có?
- Này thiện nam tử! Nếu cho rằng Niết Bàn chẳng nhiếp trong ba đời, hư không cũng như vậy. Lời nói này chẳng đúng nghĩa. Vì Niết Bàn là có thấy được chứng được, là dấu vết của sắc của sắc pháp, là có chương cú, là tướng, là duyên, là chỗ quy y, là bờ kia, tịch tịnh sáng suốt an ổn, do đây nên được gọi là nhiếp trong ba đời. Tánh hư không chẳng có những pháp như vậy, nên gọi là không. Nếu có cái gì lìa những pháp như vậy mà lại là có thời nhiếp trong ba đời. Hư không nếu đồng là pháp có thời chẳng được chẳng nhiếp trong ba đời.
Này thiện nam tử! Như người đời cho rằng hư không là không sắc, không đối, không thể xem thấy. Nếu là không sắc không đối không thể thấy thời chính là tâm sở pháp. Hư không nếu đồng tâm sở pháp, thời chẳng được chẳng nhiếp trong ba đời. Nếu nhiếp trong ba đời tức là bốn ấm. Do đây nên rời bốn ấm thời không có hư không.
Này thiện nam tử! Những nhà ngoại đạo nói rằng: hư không chính là quang minh. Nếu là quang minh thời là sắc pháp. Hư không nếu là sắc pháp như vậy bèn là vô thường. Vì là vô thường nên nhiếp trong ba đời. Sao ngoại đạo lại nói là chẳng phải ba đời. Nếu đã nhiếp trong ba đời thời chẳng phải là hư không. Sao lại nói rằng hư không là thường.
Này thiện nam tử! Lại có người cho rằng: Hư không là chỗ an trụ. Nếu có chỗ an trụ thời là sắc pháp. Tất cả chỗ đều là vô thường nhiếp trong ba đời, hư không là thường chẳng phải nhiếp trong ba đời. Nếu nói là chỗ thời biết rằng không phải hư không.
Lại có người nói rằng hư không là thứ đệ. Nếu là thứ đệ thời là pháp số. Nếu đã là có thể tính đếm được thời nhiếp trong ba đời. Nếu nhiếp trong ba đời sao lại gọi rằng thường?
Này thiện nam tử! Lại có người nói rằng luận về hư không thời lìa ba pháp: một là không, hai là thật, ba là không thật. Nếu nói là không thời nên biết rằng hư không là pháp vô thường, vì không có trong phạm vi thật. Nếu nói là thật thời nên biết hư không cũng là vô thường, vì không có trong phạm vi không. Nếu nói là không thật thời nên biết rằng hư không cũng là vô thường, vì không có trong phạm vi không. Do những nghĩa này nên trong phạm vi không là không có.
Này thiện nam tử! Có người nói hư không là pháp bị làm ra, như nói bỏ cây bỏ nhà mà làm hư không, san bằng cho trống không, che hư không, lên hư không, cùng tận hư không như nước biển cả, do đây nên hư không là pháp bị làm ra. Tất cả pháp làm ra đều là vô thường, dường như ngói bình v.v… Hư không nếu như vậy thời phải là vô thường.
Này thiện nam tử! Người đời nói trong tất cả pháp chỗ không chướng ngại gọi đó là hư không. Chỗ không chướng ngại này nơi tất cả pháp là có tất cả hay là có từng phần? Nếu là có tất cả thời những chỗ khác không có hư không. Nếu có từng phần thời là pháp kia và pháp đây có thể tính đếm. Nếu đã là tính đếm được thời là vô thường.
Có người cho rằng hư không gồm hiệp không chướng ngại cùng có chướng ngại. Và lại nói rằng hư không ở nơi sự vật như trái đựng trong bình chậu. Hai thuyết trên đều chẳng đúng. Nếu nói gồm cả hai thời có ba thứ: một là nghiệp khác nhau mà cùng hiệp, như chim bay đậu trên cây. Hai là cộng nghiệp cùng hiệp, như hai con dê đụng nhau. Ba là đã hiệp rồi lại cùng hiệp như hai đôi ngón tay hiệp ở một chỗ.
Nếu nói nghiệp khác nhau cùng hiệp, khác nhau đây có hai: Một là nghiệp sự vật, hai là nghiệp hư không. Nếu nghiệp hư không hiệp với vật thời hư không là vô thường. Nếu nghiệp sự vật hiệp với hư không, sự vật thời chẳng cùng khắp, đã chẳng cùng khắp thời chẳng là vô thường. Nếu nói hư không là thường, tánh của nó chẳng lay động mà cùng với động vật hiệp, thời không đúng nghĩa. Vì nếu hư không là thường thời vật lẽ ra cũng là thường. Nếu vật là vô thường thời hư không cũng là vô thường. Không thể nói rằng hư không cũng là thường cũng là vô thường.
Thuyết cộng nghiệp hiệp nhau cũng không đúng nghĩa. Vì hư không gọi là cùng khắp, nếu hiệp với nghiệp thời lẽ ra nghiệp cũng cùng khắp, nếu là cùng khắp thời phải khắp tất cả, nếu khắp tất cả thời lẽ ra hiệp với tất cả, chẳng nên nói rằng có hiệp cùng chẳng hiệp.
Thuyết đã hiệp rồi lại hiệp như hai đôi ngón tay hiệp nhau cũng không đúng nghĩa. Vì trước không có hiệp về sau mới hiệp, trước không sau có là pháp vô thường. Nên chẳng nói được rằng hư không đã hiệp rồi lại cùng hiệp. Như các pháp trong đời trước không sau có là vô thường, nếu hư không như vậy thời cũng phải là vô thường.
Thuyết hư không ở nơi sự vật như trái đựng trong bình chậu cũng không đúng nghĩa. Vì lúc chưa có bình chậu hư không kia ở chỗ nào? Nếu có chỗ ở thời có nhiều hư không. Đã là nhiều sao lại nói là thường, là duy nhất, là cùng khắp. Giả sử hư không rời hư không có chỗ ở, thời sự vật lẽ ra cũng rời hư không có chỗ ở, do đây nên biết rằng không có hư không.
Này thiện nam tử! Nếu cho rằng chỗ ngón tay ở gọi là hư không, theo thuyết này thời hư không là pháp vô thường, vì ngón tay có bốn phương hướng, hư không cũng phải có bốn phương, tất cả pháp thường trụ đều không có phương sở. Nếu có phương sở thời hư không là vô thường. Nếu là vô thường thời chẳng rời năm ấm. Nếu muốn rời năm ấm thời thành ra không chỗ có.
Này thiện nam tử! Nếu có pháp nào do nhân duyên mà tồn tại thời pháp đó là vô thường. Như tất cả chúng sanh cùng cây cối do nơi đất mà tồn tại. Vì đất là vô thường nên những vật trên đây cũng là vô thường. Như đất nhân nơi nước, vì nước vô thường nên đất cũng vô thường. Như nước nhân nơi gió vì gió vô thường nên nước cũng vô thường. Gió nương nơi hư không, vì hư không vô thường nên gió cũng vô thường. Sao lại nói rằng hư không là thường khắp tất cả chỗ?
Vì hư không là không chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, cũng như sừng thỏ là vật không có nên chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại. Do đây nên ta nói Phật tánh thường trụ chẳng nhiếp trong ba đời. Vì hư không là không nên chẳng nhiếp trong ba đời.
Này thiện nam tử! Ta trọn chẳng trái cãi với thế gian. Vì người trí nói có thời ta cũng nói có, vì người trí nói không thời ta cũng nói không.
- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát có đủ mấy pháp thời chẳng trái cãi với thế gian, chẳng bị pháp thế gian làm ô nhiễm?
- Này thiện nam tử! Bồ Tát có đủ mười pháp thời được hai điều trên: một là tín tâm, hai là có giới, ba là gần gũi bạn lành, bốn là trong tâm khéo tư duy, năm là có tinh tấn, sáu là có chánh niệm, bảy là có trí huệ, tám là có chánh ngữ, chín là thích chánh pháp, mười là thương xót chúng sanh. Bồ Tát có đủ mười pháp này thời chẳng trái cãi với thế gian, chẳng bị pháp thế gian làm ô nhiễm như hoa Ưu Bát La.
- Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói: người trí trong đời nói có Phật cũng nói có, người trí trong đời nói không Phật cũng nói không. Những gì là có với không?
- Này thiện nam tử! Người trí trong đời nói sắc là vô thường khổ không vô ngã, nhẫn đến thức cũng như vậy. Đây là người trí trong đời nói có, ta cũng nói có. Người trí nói sắc chẳng có thường lạc ngã tịnh, thọ tưởng hành thức cũng như vậy. Đây là người trí trong đời nói không ta cũng nói không.
- Bạch Thế Tôn! Người trí trong đời chính là Phật và Bồ Tát tất cả thánh nhân. Nếu sắc ấm của các thánh nhân là vô thường khổ không vô ngã, tại sao đức Như Lai nói sắc thân của Phật là thường hằng không biến đổi. Người trí trong đời nói chẳng có thường, lạc, ngã, tịnh, tại sao đức Như Lai nói là có. Đức Thế Tôn nói những lời như vậy lại sao nói rằng chẳng tranh cãi với thế gian, chẳng bị pháp thế gian làm nhiễm ô. Đức Như Lai đã lìa ba thứ điên đảo: tưởng đảo, tâm đảo vả kiến đảo. Lẽ ra nên nói rằng sắc thân của Phật thiệt là vô thường. Nay lại nói là thường, thế nào đặng gọi là xa lìa điên đảo chẳng tranh cãi với thế gian?
- Này thiện nam tử! Sắc thân của phàm phu từ phiền não mà sanh, nên người trí nói sắc thân là vô thường khổ không vô ngã. Sắc thân của Như lai xa lìa phiền não nên nói là thường hằng không biến đổi.
(Hán bộ quyển thứ 37)
- Bạch Thế Tôn! Sắc ấm do phiền não sanh ra như thế nào?
- Này thiện nam tử! Phiền não có ba thứ: dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Người trí phải quán sát tội lỗi của ba thứ lậu này. Vì có biết tội thời có thể xa lìa. Như y sư coi mạch biết bệnh rồi mới cho thuốc.
Như dắt người mù đến trong rừng gai rồi bỏ đó mà trở về, người mù này rất khó ra khỏi rừng, dầu được ra khỏi nhưng thân thể phải bị trầy trụa.
Phàm phu trong đời cũng như vậy, vì không biết tội lỗi của ba món lậu nên đi theo nó. Nếu người nào thấy được tội lỗi của ba món lậu thời có thể xa lìa. Người đã biết tội lỗi dầu có thọ quả báo nhưng quả báo cũng nhẹ nhàng.
Này thiện nam tử! Có bốn hạng người: một là lúc tạo nghiệp thời nặng lúc thọ báo thời nhẹ, hai là lúc tạo nghiệp thời nhẹ lúc thọ báo thời nặng, ba là lúc tạo nghiệp thời nặng, lúc thọ báo cũng nặng, bốn là lúc tạo nghiệp thời nhẹ lúc thọ báo cũng nhẹ.
Này thiện nam tử! Nếu người có thể quán sát tội lỗi của phiền não thời tạo nghiệp cùng thọ báo đều nhẹ.
Này thiện nam tử! Người có trí nghĩ rằng: ta nên xa lìa ba thứ lậu như vậy, chẳng nên gây tạo những nghiệp xấu xa như vậy, vì ngày nay ta chưa được giải thoát lục đạo. Nếu ta tu hành phải nương sức này để phá hoại các sự khổ. Suy nghĩ như vậy rồi thời tham, sân, si của người này kém yếu. Người này thấy phiền não của mình nhẹ nên lòng họ vui mừng, lại nghĩ rằng ta được như vầy đều do công đức tu hành, làm cho ta lìa đặng pháp ác, gần gũi pháp lành, nên hiện tại ta được thấy thánh đạo, vậy ta phải nên siêng năng tu tập thêm. Do công đức siêng năng tu hành, người này xa lìa vô lượng phiền não và thoát khỏi đạo lục luân hồi.
Do đây nên trong khế kinh Phật nói phải quan sát tất cả phiền não hữu lậu và nhân của hữu lậu. Vì người trí nếu chỉ quán hữu lậu mà chẳng quán nhân của hữu lậu thời không thể dứt các phiền não. Vì người trí quán sát hữu lậu do nhân này mà sanh, nay ta dứt nhân này thời lậu chẳng còn sanh. Như y sư trước trừ nhân của bệnh thời bệnh chẳng còn. Do đây nên người trí phải trước quán sát nhân, kế đó quán sát quả báo, biết rằng từ nhân lành sanh ra quả lành, từ nhân ác sanh quả ác. Khi rõ biết quả báo rồi thời xa lìa nhân ác. Lại phải quán phiền não nhẹ hay nặng, trước lìa phiền não nặng thời phiền não nhẹ tự mất.
Này thiện nam tử! Người trí nếu biết phiền não, biết nhân của phiền não, biết quả báo của phiền não, biết phiền não nhẹ hay nặng, bấy giờ người này siêng năng tu hành chẳng ngừng nghỉ chẳng hối tiếc, thường gần gũi bạn lành chí tâm nghe pháp để dứt trừ những phiền não như vậy.
Như người bệnh tự biết bệnh nhẹ có thể trị lành, nên dầu uống thuốc đắng vẫn không ăn năn. Người trí siêng tu thánh đạo thường vui mừng chẳng sầu, chẳng nghĩ, chẳng ăn năn.
Này thiện nam tử! Nếu người biết được phiền não, nhân của phiền não, quả báo của phiền não, biết phiền não nhẹ nặng, vì trừ phiền não mà tu thánh đạo, người này chằng do phiền não sanh sắc thân, cũng chẳng do phiền não sanh thọ, tưởng, hành, thức. Nếu chẳng biết được phiền não v.v…, chẳng siêng tu tập, người này từ phiền não sanh thân ngũ ấm.
Này thiện nam tử! Người rõ biết phiền não v.v… vì dứt trừ phiền não mà tu hành thánh đạo, đây chính là đức Như Lai do nhân duyên này nên sắc thân của Như Lai cùng thọ, tưởng, hành, thức, đều là thường trụ.
Kẻ chẳng biết phiền não v.v…, chẳng tu hành thánh đạo, đây là phàm phu. Do nhân duyên này nên sắc, thọ, tưởng, hành, thức của phàm phu đều là vô thường.
Này thiện nam tử! Người trí trong đời: tất cả thánh nhân, Bồ Tát, chư Phật đều nói hai nghĩa trên đây, ta cũng nói hai nghĩa như vậy, do đây nên ta nói rằng chẳng tranh cãi với người trí trong đời, chẳng bị thế pháp làm nhiễm ô.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu?
- Này thiện nam tử! Do trong tâm có giác quán chẳng lành, nhân nơi duyên ngoài mà sanh ra dục lậu.
Ngày trước lúc ở thành Vương Xá, ta bảo A Nan rằng: Nay ông thọ lấy bài kệ tụng của cô gái này nói. Bài kệ đây là lời của chư Phật quá khứ. Do đây nên tất cả giác quán chẳng lành trong tâm cùng những nhân duyên ngoài gọi đó là dục, đây là dục lậu.
Trừ dục lậu ở cõi dục, những ác pháp nơi trong cùng các nhân duyên nơi ngoài của cõi sắc và vô sắc gọi là hữu lậu.
Chẳng thể rõ biết ngã cùng ngã sở, chẳng biện biệt được trong cùng ngoài, đây gọi là vô minh lậu.
Này thiện nam tử! Vô minh là cội gốc của tất cả các lậu, vì tất cả chúng sanh do vô minh nên ức tưởng chấp trước nơi ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới, đây gọi là chúng sanh, cũng gọi là tưởng đảo, tâm đảo, kiến đảo. Do nhân duyên này sanh ra tất cả các lậu. Vì thế nên trong mười hai bộ kinh, ta nói vô minh là nhân của tham, sân, si.
- Bạch Thế Tôn! Trước kia đức Như Lai nói rằng do chẳng khéo tư duy mà có tham, sân, si. Nay duyên cớ gì mà nói do vô minh?
- Này thiện nam tử! Hai pháp đây làm nhân quả lẫn nhau, tăng trưởng lẫn nhau: chẳng khéo tư duy sanh vô minh, do vô minh nên chẳng khéo tư duy.
Này thiện nam tử! Những gì có thể sanh trưởng các phiền não thời đều gọi là nhân duyên của phiền não. Gần gũi những nhân duyên của phiền não như vậy thời gọi là vô minh. Chẳng khéo tư duy dụ như hột giống lên mộng: hột giống là cận nhân, nước đất là viễn nhân. Phiền não cũng như vậy.
- Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói vô minh tức là lậu, sao lại nói rằng nhân nơi vô minh mà sanh các lậu.
- Này thiện nam tử! Vô minh lậu là nội vô minh. Nhân nơi vô minh sanh ra các lậu là nội ngoại nhân. Nếu nói vô minh lậu thời gọi là nội đảo: chẳng biết vô thường, khổ, không và vô ngã. Nếu nói nhân duyên của tất cả phiền não, đây gọi là chẳng rõ biết ngoại ngã và ngã sở. Nếu nói vô minh lậu, đây gọi là vô thỉ vô chung: từ nơi vô minh sanh ra ấm nhập giới v.v…
- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là biết nhân của các lậu?
- Này thiện nam tử! Người trí nên quan sát rằng: nhân duyên gì sanh ra phiền não này? - Làm hạnh nghiệp gì sanh ra phiền não này? - Trong thời kỳ nào sanh ra phiền não này? - Lúc ở chung với ai sanh ra phiền não này? - Ở chỗ nào sanh ra phiền não này? - Quan sát việc gì sanh ra phiền não này? - Thọ lãnh đồ ăn đồ dùng của ai sanh ra phiền não này? - Duyên cớ gì chuyển hạ làm trung, chuyển trung làm thượng? - Hạ nghiệp làm trung, trung nghiệp làm thượng?

Bồ Tát lúc quán sát như vậy thời xa lìa được nhân duyên sanh ra các lậu. lúc quán sát như vậy những phiền não chưa sanh ngăn ngừa làm cho chẳng sanh, những phiền não đã sanh thời trừ diệt được. Do đây nên trong khế kinh ta nói rằng người trí phải quán sát nhân duyên sanh ra phiền não.

No comments:

Post a Comment