Wednesday, July 8, 2015

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q3) - Phẩm CA DIẾP BỒ TÁT (phần 1)

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Phẩm CA DIẾP BỒ TÁT thứ hai mươi bốn
Ca Diếp Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Đức Như Lai thương xót tất cả chúng sanh. Có thể điều phục kẻ chẳng điều phục, có thể thanh tịnh kẻ chẳng thanh tịnh, có thể quy y kẻ chẳng quy y, có thể giải thoát kẻ chưa giải thoát, được tám môn tự tại, là bậc đại Y Sư, đại Dược Vương.
Bạch Thế Tôn! Thiện Tinh Tỳ Kheo là con trai của đức Phật lúc chưa xuất gia, sau khi làm Tỳ Kheo, Thiện Tinh thọ trì đọc tụng giải thuyết mười hai bộ kinh, phá kiết sử cõi dục, chứng được tứ thiền. Tại sao đức Như Lai nói Thiện Tinh là hạng nhất-xiển-đề, là người hạ tiện, người không thể trị được phải ở nơi địa ngục cả kiếp. Cớ gì đức Như Lai chẳng trước diễn nói chánh pháp cho Thiện Tinh, để được làm Bồ Tát. Nếu đức Thế Tôn chẳng cứu được Thiện Tinh Tỳ Kheo, thời đâu được gọi là có đại từ bi, có đại phương tiện?"
Phật nói: "Này thiện nam tử! Ví như cha mẹ chỉ có ba người con trai: Người con trai thứ nhất cung kính cha mẹ có lòng tin thuận, thông minh trí huệ có thể làm xong được sự nghiệp trong đời; người trai thứ hai không cung kính tin thuận cha mẹ, thông minh trí huệ có thể làm xong sự nghiệp trong đời; người trai thứ ba không cung kính tin thuận cha mẹ, ngu si vô trí.
Này thiện nam tử! Nếu lúc cha mẹ muốn dạy bảo điều gì, thời nên dạy đứa con nào trước, thân ái đứa con nào trước, nên bảo đứa nào làm sự nghiệp trước?"
- Bạch Thế Tôn! Cha mẹ đó nên trước dạy bảo đứa con có lòng cung kính tin thuận thông minh trí huệ hiểu biết sự nghiệp trong đời, kế đến dạy bảo đứa thứ hai, rồi sau mới đến đứa con thứ ba. Hai đứa sau dầu không lòng cung kính tin thuận, nhưng vì xót thương nên cũng lần lượt dạy bảo.
- Này thiện nam tử! Đức Như Lai cũng như vậy. Đứa con thứ nhất dụ cho Bồ tát, đứa giữa dụ cho hành Thanh Văn, đứa thứ ba dụ cho hạng nhất-xiển-đề.
Như trong khế kinh, những nghĩa lý vi tế ta đã trước giảng nói cho các vị Bồ Tát. Những nghĩa cạn cợt thời giảng nói cho hàng Thanh Văn. Những nghĩa thế gian thời giảng nói cho hạng nhất-xiển-đề phạm tội ngũ nghịch, dầu trong đời hiện tại họ không được lợi ích, nhưng cũng làm chủng tử lành cho đời sau.
Này thiện nam tử! Ví như ba hạng ruộng: Hạng thứ nhất nước chảy lưu thông, không có ngói đá gai góc, trồng một thâu được trăm. Hạng thứ hai dầu không ngói đá gai góc, nhưng đường nước không được lưu thông nên hoa màu kém ruộng trên phân nửa. Hạng thứ ba đường nước khó khăn lại nhiều ngói đá gai góc cỏ mọc lan tràn trồng một thâu chỉ được một.
Này thiện nam tử! Đến mùa gieo trồng thời nông phu nên gieo trồng ruộng nào trước?
- Bạch Thế Tôn! Nông phu kia nên gieo trồng ruộng thứ nhất trước, kế đến ruộng thứ hai, sau rốt đến ruộng thứ ba.
- Này thiện nam tử! Ruộng thứ nhất dụ cho Bồ Tát, ruộng thứ hai dụ cho Thanh Văn, ruộng thứ ba dụ cho hạng nhất-xiển-đề.
Này thiện nam tử! Ví như ba cái chậu: Cái thứ nhất nguyên vẹn, cái thứ hai rịn chảy, cái thứ ba bể. Nếu muốn đựng sữa, lạt, nước, tô, thời trước nên dùng chậu nào?
- Bạch Thế Tôn! Nên trước dùng chậu lành, kế dùng chậu nứt, sau rốt mới đến chậu bể.
- Này thiện nam tử! Chậu lành dụ cho Bồ Tát, chậu nứt dụ hàng Thanh Văn, chậu bể dụ hạng nhất-xiển-đề.
Này thiện nam tử! Như có ba người bệnh đồng đến y sĩ: người thứ nhất dễ trị, người thứ hai khó trị, người thứ ba không thể trị. Y sĩ nên trước trị cho người nào?
- Bạch Thế Tôn! Nên trị cho người dễ trước, kế đến người thứ hai, sau rốt đến người thứ ba, vì là hàng thân thuộc.
- Này thiện nam tử! Người bệnh dễ trị dụ cho Bồ Tát, người bệnh khó trị dụ cho Thanh Văn, người bệnh không thể trị dụ cho hạng nhất-xiển-đề. Dầu hạng sau rốt này đối với chánh pháp không được quả lành trong đời hiện tại, nhưng vì xót thương nên đức Như Lai cũng gieo trồng chủng tử lành cho họ ở đời sau.
Này thiện nam tử! Ví như nhà vua có ba hạng ngựa: Hạng thứ nhất điều thuận mạnh mẽ, hạng thứ hai không điều thuận nhưng mạnh mẽ, hạng thứ ba không điều thuận lại già yếu. Lúc muốn cỡi, nhà vua nên cỡi hạng nào trước?
- Bạch Thế Tôn! Nhà vua nên trước cỡi hạng ngựa điều thuận mạnh mẽ, kế đến hạng thứ hai, sau cùng đến hạng thứ ba.
- Này thiện nam tử! Hạng điều thuận mạnh mẽ dụ cho Bồ Tát, hạng thứ hai dụ cho Thanh Văn, hạng thứ ba dụ cho nhất-xiển-đề. Dầu hạng sau rốt này không được lợi ích trong đời hiện tại, nhưng vì xót thương nên đức Như Lai vun trồng chủng tử lành thời sau cho họ.
Này thiện nam tử! Như lúc bố thí lớn có ba hạng người đến xin: hạng thứ nhất dòng sang thông minh giữ giới hiền lành, hạng thứ hai dòng trung lưu ngu tối nhưng cũng giữ giới hiền lành, hạng thứ ba dòng hạ tiện ngu tối phá giới hung ác.
Này thiện nam tử! Thí chủ kia nên bố thí cho hạng nào trước?
- Bạch Thế Tôn! Nên trước bố thí cho hạng thứ nhất, kế đến hạng thứ hai, sau rốt đến hạng thứ ba.
- Này thiện nam tử! Hạng thứ nhất dụ cho Bồ Tát, hạng thứ hai dụ cho Thanh Văn, hạng thứ ba dụ cho nhất-xiển-đề.
Này thiện nam tử! Như đại sư tử lúc giết hương tượng thời dùng hết sức lực, lúc giết thỏ cũng cùng hết sức lực chẳng khinh thường. Chư Phật cũng như vậy, lúc thuyết pháp cho chư vị Bồ Tát dụng công cũng như lúc thuyết pháp cho hạng nhất-xiển-đề.
Này thiện nam tử! Trước kia lúc ta ở thành Vương Xá, Thiện Tinh Tỳ Kheo làm thị giả. Đầu hôm ta nói pháp cho Thiên Đế Thích. Theo phép của thị giả, phải đi nằm sau thầy.
Lúc đó vì ta ngồi lâu nên Thiện Tinh sanh niệm ác bạch với ta rằng mau đi vào thiền thất quỷ Bạt Câu La đến kia kìa. Ta bảo Thiện Tinh, ngươi là kẻ ngu si, ngươi chẳng biết rằng đức Như Lai là bậc vô sở úy ư!
Đế Thích hỏi ta rằng bạch Thế Tôn! Hạng người như vậy mà cũng được vào trong Phật pháp ư?
Ta nói với Thiên Đế: Hạng người ấy cũng đặng vào trong Phật pháp, họ cũng có Phật tánh sẽ chứng được vô thượng Bồ Đề.
Dầu ta vì Thiện Tinh mà thuyết pháp, nhưng Thiện Tinh vẫn không có lòng tin.
Này thiện nam tử! Lại có một lúc ta ở nước Ca Thi, thành Thi Bà Phú La, ta muốn vào thành khất thực. Vô lượng chúng sanh khao khát muốn thấy dấu chân của ta. Thiện Tinh Tỳ Kheo theo hầu phía sau chà bỏ dấu chân của ta, nhưng không chà mất được, lại làm cho chúng sanh có quan niệm chẳng lành.
Khi vào thành rồi, thấy trong nhà cất rượu có một Ni Kiền Tử ngồi xổm khum lưng ăn bã rượu.
Thiện Tinh bạch với ta rằng: Nếu trong đời có bậc A La Hán thời người đó là hơn tất cả, vì người đó tuyên bố rằng không nhân không quả. Ta bảo Thiện Tinh: ngươi là người ngu si. Ngươi chẳng nghe rằng bậc A La Hán chẳng uống rượu, chẳng hại người, chẳng khi dối, chẳng trộm cướp, chẳng dâm dật ư! Ni Kiền Tử đó giết hại cha mẹ, ăn bã rượu sao người nói là bậc A La Hán. Người đó sau khi chết quyết định đọa địa ngục A Tỳ. Bậc A La Hán dứt hẳn ba đường ác, sao ngươi gọi người đó là A La Hán.
Thiện Tinh liền nói: tánh của tứ đại còn có thể chuyển đổi, quyết không có lẽ người đó đọa địa ngục A Tỳ.
Ta nói: Ngươi là người ngu si. Ngươi chẳng thường nghe rằng chư Phật luôn luôn nói lời thành thật ư?
Dầu ta khuyên dạy Thiện Tinh, nhưng Thiện Tinh tuyệt không có lòng tin.
Này thiện nam tử! Có một lúc kia ta cùng Thiện Tinh ở thành Vương Xá, trong thành có một Ni Kiền Tử tên là Khổ Đắc. Người này thường tuyên bố rằng: chúng sanh phiền não không nhân không duyên, chúng sanh giải thoát cũng không nhân không duyên.
Thiện Tinh bạch với ta rằng: Nếu trong đời có bậc A La Hán thời ông Khổ Đắc là trên hết.
Ta nói ngươi là kẻ ngu si. Ni Kiền Tử Khổ Đắc thiệt chẳng phải A La Hán chẳng hiểu được đạo A La Hán.
Thiện Tinh nói rằng tại sao bậc A La Hán lại tật đố với A La Hán.
Ta nói ngươi là người ngu. Ta chẳng sanh tật đố với A La Hán chính là người tự sanh quan niệm ác tà. Nếu người nói Khổ Đắc là A La Hán, thời ông nên nghe đây, bảy ngày sau Khổ Đắc sẽ bị trúng thực đau bụng mà chết, chết rồi sẽ sanh trong loài quỷ ăn đồ ói mửa khạc nhổ của người. Bạn đồng học sẽ mang thây của Khổ Đắc bỏ trong rừng tha-ma.
Thiện Tinh liền đem lời này thuật lại với Khổ Đắc rồi bảo Khổ Đắc rằng: Trưởng lão nên khéo tư duy, tu tập phương tiện, làm cho lời ông Cù Đàm thành vọng ngữ.
Sau khi nghe Thiện Tinh nói, Khổ Đắc liền đoạn thực, từ một ngày đến ngày thứ sáu, nhịn đói đủ bày ngày, Khổ Đắc bèn ăn đường đen, rồi uống nước lã, đau bụng mà chết. Bạn của Khổ Đắc liền mang thi hài bỏ trong rừng tha-ma, Khổ Đắc sanh làm quỷ đói ăn đồ ói mửa, quanh quẩn bên tử thi.
Thiện Tinh hay được việc này liền đến trong rừng tha-ma, thấy Khổ Đắc thọ thân quỷ đói, ở bên tử thi ngồi xổm khum lưng. Thiện Tinh hỏi quỷ đói: đại đức đã chết rồi ư?
Khổ Đắc đáp: Tôi đã chết.
- Tại sao mà chết?
- Vì đau bụng mà chết.
- Ai mang thây đại đức ra đây?
- Bạn học của tôi.
- Mang thây bỏ chỗ nào?
- Ông là người ngu! Ông há chẳng biết rằng đây là rừng tha-ma ư!
- Đại đức thọ thân gì?
- Tôi mang lấy thân quỷ ăn đồ ói mửa. Ông nên nghe kỹ! Lời nói của đức Như Lai là lời lành, lời chân thật, lời phải thời, lời đúng nghĩa, lời đúng pháp. Sao ông lại chẳng tin lời chân thật của Như Lai. Nếu có kẻ nào chẳng tin lời nói chân thật của Như Lai thời kẻ đó cũng sẽ phải thọ lấy thân như tôi.
Thiện Tinh trở về bạch với ta rằng: "Thế Tôn! Ni Kiền Tử Khổ Đắc sau khi chết được sanh lên cõi trời Đao Lợi."
Ta nói: "Này người ngu! Bậc A La Hán là bậc vô sanh, sao ngươi lại nói là Khổ Đắc được sanh lên cõi trời Đao Lợi?"
Thiện Tinh bạch rằng: "Thế Tôn! Ni Kiền Tử Khổ Đắc thiệt chẳng sanh lên cõi trời, hiện nay đương thọ sanh quỷ đói."
Ta nói: "Này người ngu! Lời của chư Phật là lời thành thật, không bao giờ nói sai."
Thiện Tinh liền bạch rằng: "Dầu lúc đó đức Như Lai nói như vậy, nhưng tôi trọn không có lòng tin."
Này thiện nam tử! Ta cũng thường thuyết pháp cho Thiện Tinh Tỳ Kheo, mà Thiện Tinh tuyệt không có lòng tin thuận.
Này thiện nam tử! Dầu Thiện Tinh đọc tụng mười hai bộ kinh, chứng được tứ thiền, nhưng chẳng hiểu nghĩa một kệ một câu nhẫn đến một chữ. Vì gần gũi bạn ác nên mất tứ thiền, sanh kiến chấp tà ác mà nói rằng không Phật, không Pháp, không có Niết Bàn. Sa Môn Cù Đàm giỏi tướng số nên có thể biết được tâm niệm của người.
Ta bảo Thiện Tinh: "Những pháp của ta giảng nói: ban đầu, chặn giữa, rốt sau đều lành, lời khéo, nghĩa chánh, không xen tạp, thành tựu đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh."
Thiện Tinh lại nói rằng dầu đức Như Lai vì tôi mà thuyết pháp, nhưng tôi vẫn nói quyết rằng không nhân không quả.
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Này thiện nam tử! Nếu ông chẳng tin những việc như vậy, nay Thiện Tinh ở gần sông Ni Liên Thiền, ta cùng ông có thể đến đó để hỏi."
Liền đó đức Như Lai cùng Ca Diếp Bồ Tát đến chỗ Thiện Tinh Tỳ Kheo.
Thiện Tinh thấy Phật từ xa đi đến liền sanh tâm tà ác. Do tâm ác này, hiện thân đọa địa ngục A Tỳ.
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Này thiện nam tử! Thiện Tinh dầu vào trong Phật pháp vô lượng công đức, nhưng trọn không đặng mảy mún lợi ích, đó là vì phóng dật, vì gần bạn ác.
Ví như có người dù vào biển lớn thấy nhiều châu báu, nhưng vì phóng dật nên không được của báu.
Lại như người vào biển thấy châu báu, hoặc tự giết mình chết, hoặc bị ác quỷ giết chết. Cũng vậy, Thiện Tinh dầu vào trong Phật pháp nhưng bị bạn ác giết hại.
Này thiện nam tử! Do đây nên đức Như Lai xót thương thường bảo rằng Thiện Tinh phóng dật quá nhiều.
Này thiện nam tử! Nếu là người trước kia nghèo cùng, với người này dầu có xót thương nhưng lòng thương không nhiều lắm. Nếu là người trước kia giàu lớn, về sau suy sụp nghèo cùng với người này, lòng xót thương sâu đậm hơn.
Thiện Tinh Tỳ Kheo như vậy, đã thọ trì đọc tụng mười hai bộ kinh, chứng đặng tứ thiền, rồi để thối thất rất đáng xót thương. Do đây nên ta nói Thiện Tinh phóng dật quá nhiều nên dứt mất những căn lành. Hàng đệ tử của ta người nào nghe thấy việc này đều sanh lòng xót thương sâu đậm đối với Thiện Tinh Tỳ Kheo.
Từ nhiều năm ta thường cùng Thiện Tinh Tỳ Kheo gần gũi nhau, mà Thiện Tinh tự sanh lòng tà ác, chẳng bỏ ác kiến.
Này thiện nam tử! Từ xưa ta thấy Thiện Tinh có chút ít căn lành như lông tóc, trọn chẳng huyền ký Thiện Tinh là dứt tuyệt căn lành, là hạng hạ tiện nhất-xiển-đề để phải đọa địa ngục. Bởi Thiện Tinh tuyên bố rằng không nhân không quả, không có tạo nghiệp, do đây nên ta huyền ký Thiện Tinh là hạng nhất-xiển-đề hạ tiện dứt hẳn căn lành phải đọa địa ngục cả kiếp.
Này thiện nam tử! Như có người té chìm trong hầm phẩn, có bạn lành đưa tay mò đó, nếu nắm đặng đầu tóc, bèn muốn kéo lên, mò lâu chẳng được mới có tâm niệm thôi vớt. Cũng vậy, ta tìm chút ít căn lành nơi Thiện Tinh để cứu vớt, nhưng trọn ngày tìm cầu mà chẳng được mảy lông tóc căn lành, do đây nên chẳng cứu được tội đọa địa ngục của Thiện Tinh." 
Ca Diếp Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Đức Như Lai cớ gì huyền ký Thiện Tinh sẽ đọa địa ngục A Tỳ."
- Này thiện nam tử! Thiện Tinh Tỳ Kheo có quyến thuộc đông, đều cho rằng Thiện Tinh đã chứng được đạo quả A La Hán. Vì ta muốn phá tâm niệm tà ác của họ nên huyền ký Thiện Tinh do phóng dật phải đọa địa ngục.
Này thiện nam tử! Ông nên biết rằng lời nói của Như Lai là lời chân thật không sai. Nếu Phật huyền ký sẽ đọa địa ngục, thời chẳng bao giờ không đọa.
Hàng Thanh Văn Duyên Giác huyền ký thời có hai thứ hoặc đúng, hoặc chẳng đúng. Như Mục Kiền Liên bảo người nước Ma Già Đà sau bảy ngày trời sẽ mưa, đến kỳ thời trọn chẳng mưa. Có lúc ông dự ký bò cái sẽ đẻ bò con trắng, đến lúc sanh sản lại đẻ bò con vá. Ông ấy dự ký sanh trai, về sau lại sanh con gái.
Này thiện nam tử! Thiện Tinh thường tuyên bố với vô lượng chúng sanh rằng tất cả đều không có quả lành quả dữ, do đó dứt hẳn tất cả căn lành không còn mảy múng như lông tóc.
Từ lâu ta biết rõ Thiện Tinh sẽ dứt mất căn lành, ta vẫn cố ý cùng Thiện Tinh ở chung cả hai mươi năm. Vì nếu ta không ở gần Thiện Tinh, thời Thiện Tinh sẽ khuyên bảo vô lượng chúng sanh tạo những nghiệp ác. Đây gọi là trí lực thứ năm của đức Như Lai.
- Bạch Thế Tôn! Hạng nhất-xiển-đề do nhân duyên gì mà không có pháp lành?
- Này thiện nam tử! Vì hạng nhất-xiển-đề dứt căn lành. Chúng sanh đều có năm căn: tín, tấn, niệm, định và huệ mà hạng nhất-xiển-đề dứt hẳn căn lành này. Do nghĩa đây nên giết hại con kiến còn mắt phải tội sát sanh, nhưng giết hại hạng nhất-xiển-đề không mắc tội sát sanh.
- Bạch Thế Tôn! Vì nhất-xiển-đề trọn không pháp lành nên gọi là nhất-xiển-đề ư?
- Đúng như vậy!
- Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sanh có ba thứ pháp lành: quá khứ, vị lai và hiện tại. Hạng nhất-xiển-đề không thể dứt được pháp lành đời vị lai, sao lại nói rằng dứt hết pháp lành gọi là nhất-xiển-đề.
- Này thiện nam tử! Luận về sự dứt có hai thứ: một là hiện tại dứt, hai là hiện tại chướng ngại vị lai. Hạng nhất-xiển-đề đủ cả hai thứ này nên ta nói rằng nhất-xiển-đề dứt hết căn lành.
Này thiện nam tử! Ví như có người té chìm trong hầm phẩn, dầu còn một sợi tóc chưa chìm, nhưng một sợi tóc không thể kéo nổi toàn thân. Hạng nhất-xiển-đề cũng như vậy, dầu đời vị lai sẽ có căn lành nhưng không thể cứu được khổ địa ngục. Đời vị lai dầu có thể cứu khỏi, nhưng đời hiện tại không thể làm sao được. Do đây nên gọi là kẻ không thể cứu vớt.
Do Phật tánh làm nhân duyên thời cứu vớt được, vì Phật tánh chẳng phải quá khứ chẳng phải vị lai chẳng phải hiện tại, nên Phật tánh không bị dứt mất.
Như hột mục hư thời không thể mọc mộng, hạng nhất-xiển-đề cũng như vậy.
- Bạch Thế Tôn! Hạng nhất-xiển-đề chẳng dứt Phật tánh, Phật tánh là pháp lành, tại sao nói rằng dứt tất cả pháp lành?
- Này thiện nam tử! Nếu chúng sanh nào trong đời hiện tại có Phật tánh thời chẳng được gọi là nhất-xiển-đề. Như ngã tánh trong thế gian. Phật tánh là thường chẳng thuộc về ba đời. Nếu thuộc về ba đời thời gọi là vô thường. Vì đời vị lai sẽ thấy Phật tánh, nên nói rằng chúng sanh đều có Phật tánh. Do nghĩa này nên bậc thập trụ Bồ Tát trang nghiêm đầy đủ công hạnh mới thấy được phần ít.
- Bạch Thế Tôn! Phật tánh là thường dường như hư không, tại sao đức Như Lai nói rằng vị lai?
Nếu đức Như Lai nói rằng hạng nhất-xiển-đề không có pháp lành, lẽ đâu hạng này không có lòng thương tưởng đối với bạn bè cha mẹ vợ con thân quyến. Nếu họ có lòng thương tưởng thời lòng thương này chẳng phải là lành ư?
- Lành thay! Lành thay! Lời ông hỏi rất hay Phật tánh dường như hư không, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại. Tất cả chúng sanh có ba thứ thân: thân quá khứ, thân vị lai, thân hiện tại. Đời vị lai chúng sanh trang nghiêm đầy đủ thân thanh tịnh thấy được Phật tánh, nên ta nói rằng Phật tánh đời vị lai.
Này thiện nam tử! Ta vì chúng sanh có lúc hoặc nói nhân là quả, có lúc hoặc nói quả là nhân, do đây nên trong kinh nói rằng mạng căn là ăn uống, thấy sắc là chạm xúc. Vì thân đời vị lai thanh tịnh nên nói Phật tánh.
- Bạch Thế Tôn! Như ý nghĩa của đức Phật nói như vậy, sao lại nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh?
- Này thiện nam tử! Dầu Phật tánh hiện tại không, nhưng chẳng được nói rằng chúng sanh không Phật tánh. Như tánh hư không kia, dầu không hiện tại mà chẳng được nói là không. Dầu tất cả chúng sanh là vô thường, còn Phật tánh là thường trụ không biến đổi, do đây nên trong kinh ta nói rằng Phật tánh của chúng sanh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, dường như hư không. Nếu có trong có ngoài thời chẳng được gọi là duy nhất, là thường trụ, cũng chẳng được gọi là tất cả chỗ đều có. Dầu hư không chẳng phải trong chẳng phải ngoài nhưng tất cả chúng sanh đều có. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy.
Ông nói rằng hạng nhất-xiển-đề có pháp lành đó, lời này không đúng nghĩa. Vì hạng nhất-xiển-đề tất cả hành động nói năng đều là tà nghiệp, vì họ chẳng tin chẳng cầu nhân quả. Như gốc, cây, nhánh, lá, bông, hột, trái a-lê-lặc đều đắng, tất cả hành nghiệp của nhất-xiển-đề cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai thành tựu đầy đủ tri-chư-căn trí lực, do đây nên biết rõ căn tánh thượng trung hạ của tất cả chúng sanh: biết rõ rằng người này từ bậc hạ lên bậc trung, biết rõ rằng người này từ bậc trung lên bậc thượng, biết rõ rằng người này từ bậc thượng thành bậc trung hạ, biết rõ rằng người này từ bậc trung thành bậc hạ. Do đây nên biết rằng căn tánh của chúng sanh không quyết định. Vì không quyết định nên hoặc đã dứt căn lành rồi trở lại sanh căn lành. Nếu căn tánh của chúng sanh là quyết định thời trọn không có đã dứt mà lại sanh, cũng chẳng nên nói rằng hạng nhất-xiển-đề đọa địa ngục một kiếp.
Này thiện nam tử! Do đây nên đức Như Lai nói rằng tất cả pháp không có tướng quyết định.
- Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai đầy đủ tri-chư-căn trí lực, biết chắc rằng Thiện Tinh sẽ dứt mất căn lành, tại sao lại cho Thiện Tinh xuất gia?
- Này thiện nam tử! Thuở ta mới xuất gia, em ta là Nan Đà, em họ là A Nan và Đề Bà Đạt Đa, con trai ta là La Hầu La, những người đó đều theo ta xuất gia tu hành. Nếu ta chẳng cho Thiện Tinh xuất gia, thời Thiện Tinh sẽ nối ngôi vua có quyền thế sẽ phá hoại Phật Pháp, do đó nên ta cho Thiện Tinh xuất gia.
Này thiện nam tử! Nếu Thiện Tinh chẳng xuất gia cũng dứt mất căn lành trong vô lượng đời đều không lợi ích. Nay đã xuất gia dầu mất căn lành, nhưng có thể trì giới cung kính cúng dường bậc đức hạnh, tu tập sơ thiền nhẫn đến tứ thiền, những điều này gọi là nhân lành, nhân lành này có thể sanh pháp lành, pháp lành đã sanh thời có thể tu tập đạo hạnh, đã có thể tu tập đạo hạnh thời có thể được vô thượng Bồ Đề, do đây nên ta cho Thiện Tinh xuất gia.
Nếu ta chẳng cho Thiện Tinh xuất gia thọ giới, thời ta chẳng được gọi là Như Lai Thế Tôn đầy đủ mười trí lực.
Này thiện nam tử! Đức Phật quan sát chúng sanh đủ cả pháp lành và pháp chẳng lành. Người này dầu đủ hai pháp như vậy, nhưng chẳng bao lâu sẽ dứt mất tất cả căn lành mà đủ cả pháp chẳng lành. Vì những chúng sanh này chẳng gần gũi bạn lành, chẳng nghe chánh pháp, chẳng khéo tư duy, chẳng thực hành đúng pháp, do đây nên sẽ dứt mất căn lành.
Đức Như Lai lại biết người này hiện đời hoặc đời vị lai, lúc trẻ hoặc lúc già, sẽ gần gũi bạn lành được nghe chánh pháp, thời có thể sanh căn lành trở lại.
Ví như có khe suối gần xóm làng, nước suối ngọt ngon đủ tám công đức. Có người nóng nảy khát nước muốn đến khe suối, người trí quyết định biết rằng người khát này sẽ đến bên nước, vì không còn con đường nào khác. Đức Như Lai quan sát chúng sanh cũng như vậy. Do đây nên Như Lai gọi là có đủ tri-chư căn trí lực.
Đức Thế Tôn lấy chút đất để trên móng tay rồi bảo Ca Diếp Bồ Tát rằng: "Đất này nhiều hay đất nơi mười phương thế giới nhiều?"
- Bạch Thế Tôn! Đất đính trên móng tay đâu có thể sánh với đất trong mười phương thế giới!
- Này thiện nam tử! Có người đã chết trở lại được thân người, bỏ thân trong ba đường ác mà được thân người, căn thân đầy đủ, sanh nơi trung quốc, có đủ chánh tín, có thể tu tập đạo hạnh, có thể tu tập chánh đạo, có thể được giải thoát có thể nhập Đại Niết Bàn. Được những điều trên đây thật ra là hy hữu như số lượng đất trên móng tay.
Bỏ thân người mang thân ba đường ác, bỏ thân ba đường ác trở lại thọ thân ba đường ác, thân căn chẳng đầy đủ, sanh nơi biên địa, tà kiến điên đảo, thực hành đạo tà, chẳng được giải thoát, chẳng được Niết Bàn, những hạng này đông nhiều như số lượng đất trong mười phương thế giới.
Này thiện nam tử! Người hộ trì cấm giới tinh tấn chẳng biếng trễ, chẳng phạm bốn tội trọng, chẳng gây năm tội nghịch, chẳng lạm dụng vật của Tăng, chẳng dứt căn lành, chẳng làm nhất-xiển-đề, tin thọ kinh điển Đại Niết Bàn này, những người đây rất hy hữu như lượng số đất trên móng tay.
Người lười biếng phá giới, phạm bốn tội trọng, gây năm tội nghịch, lạm dùng của Tăng, làm nhất-xiển-đề dứt mất căn lành, chẳng tin kinh Niết Bàn này, số lượng đông nhiều như đất trong mười phương thế giới.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai biết rõ căn tánh thượng trung hạ của chúng sanh như vậy nên gọi là đầy đủ tri-chư-căn-trí-lực.
- Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai có đủ tri-chư-căn-trí-lực như vậy, nên biết rõ căn tánh thượng trung hạ của tất cả chúng sanh, biết rõ căn tánh của chúng sanh đời hiện tại, cũng biết rõ căn tánh của chúng sanh đời vị lai, biết rõ những chúng sanh này sau khi Phật nhập diệt sẽ nói rằng đức Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn, hoặc nói rằng đức Như Lai không rốt ráo nhập Niết Bàn, hoặc nói có ngã, hoặc nói không ngã, hoặc cho rằng có trung ấm, hoặc không trung ấm, hoặc nói có thối thất, hoặc không thối thất, hoặc nói thân Như Lai là hữu vi, hoặc nói là vô vi, hoặc có kẻ nói mười hai nhân duyên là pháp hữu vi, hoặc nói là pháp vô vi, hoặc nói tâm là thường trụ, hoặc nói tâm là vô thường, hoặc có người nói hưởng vui ngũ dục thời hay chướng thánh đạo, hoặc nói chẳng chướng ngại, hoặc có kẻ nói thế-đệ-nhất chỉ thuộc về cõi dục hoặc nói thuộc về cả ba cõi, hoặc nói bố thí chỉ thuộc nơi ý nghiệp, hoặc nói bố thí thuộc nơi ngũ ấm, hoặc nói có ba pháp vô vi, hoặc nói không ba pháp vô vi, hoặc nói có tạo sắc, hoặc nói không tạo sắc, hoặc nói có vô tác sắc, hoặc nói không vô tác sắc, hoặc nói có tâm sở, hoặc nói không tâm sở, hoặc nói có năm đại chủng, hoặc nói có sáu đại chủng; hoặc nói giới Ưu Bà Tắc thọ đầy đủ bát quan trai, hoặc nói chẳng thọ được đầy đủ; hoặc nói Tỳ Kheo đã phạm tội tứ trọng mà giới Tỳ Kheo vẫn còn, hoặc nói chẳng còn; hoặc nói bậc Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, đều được thành Phật, hoặc nói chẳng được thành; hoặc nói chíng nơi chúng sanh có Phật tánh, hoặc nói rời chúng sanh có Phật tánh; hoặc nói hạng nhất-xiển-đề phạm bốn tội trọng năm tội nghịch đều có Phật tánh, hoặc nói không Phật tánh; hoặc nói có chư Phật mười phương, hoặc nói không có chư Phật mười phương.
Đức Như Lai thành tựu đầy đủ tri-chư-căn trí lực như vậy, tại sao hôm nay chẳng nói quyết định?
Này thiện nam tử! Những nghĩa như vậy chẳng phải là nhãn thức biết được nhẫn đến chẳng phải là ý thức biết được, đây là chỗ biết của trí huệ. Nếu với người có trí huệ, thời ta trọn chẳng nói phân hai, người trí này cũng cho rằng Phật chẳng nói phân hai. Với người vô trí thời ta nói bất định, người vô trí này cũng cho rằng Phật nói bất định.
Này thiện nam tử! Tất cả công hạnh lành của Như Lai đều vì điều phục chúng sanh. Như tất cả phương thuốc của lương y đều để chữa những bệnh khổ.
Này thiện nam tử! Vì quốc độ, vì thời tiết, vì ngôn ngữ của người, vì độ người, vì căn tánh sai khác, nên đức Như Lai ở trong một pháp mà nói phân hai, nơi một danh từ nói thành vô lượng danh từ, nơi trong một nghĩa nói thành vô lượng, nơi trong vô lượng nghĩa nói thành vô lượng.
Thế nào là một danh từ nói thành vô lượng danh từ? Như Niết Bàn, cũng gọi là Niết Bàn, là vô sanh, là vô xuất, là vô tác, là vô vi, là quy y, là nhà cửa, là giải thoát, là quang minh, là đèn sáng, là bờ kia, là vô úy, là bất thối, là chỗ an ổn, là tịch tịnh, là vô tướng, là bất nhị, là nhất hạnh, là thanh lương, là không tối tăm, là không chướng ngại, là vô tránh, là vô trược, là quảng đại, là cam lộ, là cát tường.
Thế nào là một nghĩa nói thành vô lượng? Như Đế Thích: Cũng gọi là Đế Thích, cũng gọi là Kiều Thi Ca, là Bà Ta Bà, là Phú Lan Đà La, là Ma Pháp Bà, là Nhân Đà La, là Thiên Nhãn, là Xá Chỉ Thiên, là Kim Cang, là Bửu Đảnh, là Bửu Tràng.
Thế nào là nơi vô lượng nghĩa nói thành vô lượng? Như Phật Như Lai cũng gọi là Như Lai vì nghĩa khác nên tên cũng khác, gọi là A La Hán, cũng gọi là Tam Miệu Tam Phật Đà, cũng gọi là Thuyền Sư, cũng gọi là Đạo Sư, là chánh giác, là Minh Hạnh Túc, là Sư Tử Vương, là Sa Môn, là Bà La Môn, là Tịch Tịnh, là Thí Chủ, là Đáo Bĩ Ngạn, là Đại Y Vương, là Đại Tượng Vương, là Đại Long Vương, là Thí Nhãn, là Đại Lực Sĩ, là Đại Vô Úy, là Bửu Tự, là Thương Chủ, là Đắc Thoát, là Đại Trượng Phu, là Thiên Nhân Sư, là Đại Vân Đà Lợi, là Vô Đẳng Lữ, là Đại Phước Điền, là Trí Huệ Hải, là Vô Tướng, là Bát Trí.
Lại có một nghĩa mà nói thành vô lượng danh từ, như ấm: cũng gọi là ấm cũng gọi là điên đảo, là đế, là tứ niệm xứ, là tứ thực, là chỗ ở của tứ thức, là hữu, là đạo, là thời, là chúng sanh, là thế, là đệ nhất nghĩa, là ba pháp tu: thân, giới và tâm, là nhân quả, là phiền não, là giải thoát, là mười hai nhân duyên, là Thanh Văn, là Bích Chi Phật, là Phật, là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nhân, thiên, là quá khứ, hiện tại, vị lai.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai vì chúng sanh trong rộng mà nói lược, trong lược mà nói rộng, nơi đệ nhất nghĩa đế nói thành thế đế, nơi thế đế nói thành đệ nhất nghĩa.
Thế nào là trong rộng mà nói lược? Như ta bảo các Tỳ Kheo: hôm nay ta giảng nói mười hai nhân duyên. Thế nào gọi là mười hai nhân duyên?
Chính là nhân quả.
Thế nào gọi là trong lược mà nói rộng? Như ta bảo các Tỳ Kheo: hôm nay ta giảng nói khổ tập diệt đạo. Khổ là vô lượng sự khổ, tập là vô lượng phiền não, diệt là vô lượng giải thoát, đạo là vô lượng phương tiện.
Thế nào gọi là nơi đệ nhất nghĩa đế nói là thế đế? Như ta bảo các Tỳ Kheo. Thân của ta đây có già bệnh chết.
Thế nào gọi là nơi thế đế nói là đệ nhất nghĩa đế? Như ta bảo Kiều Trần Như: vì ông đắc pháp nên gọi là A Nhã Kiều Trần Như.
Do vì tùy theo người, tùy theo ý, tùy theo thời như vậy, nên gọi đức Như Lai có đủ tri-chư-căn trí lực.
Này thiện nam tử! Đối với những nghĩa như vậy nếu ta nói quyết định thời ta chẳng được gọi là đức Như Lai có đủ tri-chư-căn trí lực. Người có trí biết rằng chỗ mang chở của hương tượng chẳng phải lừa ngựa mang nổi. Tất cả chúng sanh có vô lượng hành nghiệp, nên đức Như Lai vì họ mà nói vô lượng pháp, đó là do vì chúng sanh có vô lượng phiền não. Nếu đức Như Lai nói một hạnh một pháp thời chẳng gọi là đức Như Lai có đủ tri-chư-căn trí lực. Do đây nên trong các kinh khác ta nói rằng có năm hạng chúng sanh chẳng nên vì họ nói năm thứ pháp: vì người chẳng có lòng tin thời chẳng tán thán chánh tín, vì người phá giới cấm thời chẳng tán thán trì giới, vì người xan-tham thời chẳng tán tán bố thí, vì người giải đãi thời chẳng tán tán đa văn, vì người ngu si thời chẳng tán thán trí huệ. Nếu người trí vì năm hạng này mà nói năm việc trên đây, thời nên biết rằng người thuyết pháp này chẳng có đủ tri-chư-căn trí lực, cũng chẳng được gọi là thương xót chúng sanh. Vì năm hạng này nếu nghe giảng nói năm điều trên đây thời họ sẽ sanh lòng nghi, lòng ác, lòng sân hận, mà phải chịu quả báo khổ trong vô lượng đời. Do đây nên trước kia trong các kinh khác ta bảo Xá Lợi Phất rằng: Ông phải cẩn thận chớ vì người lợi căn mà rộng thuyết pháp, chớ vì người độn căn mà lược thuyết pháp. Xá Lợi Phất bạch rằng tôi chỉ vì thương xót mà thuyết pháp, chẳng phải là có đủ tri-chư-căn trí lực mà thuyết pháp.
Này thiện nam tử! Thuyết pháp hoặc rộng hoặc lược là cảnh giới của Phật, chẳng phải hàng Thanh Văn và Duyên Giác biết được.
Này thiện nam tử! Như ông nói rằng sau khi Phật nhập Niết Bàn hàng đệ tử đều nói khác nhau, những người đó đều vì điên đảo nên chẳng được chánh kiến, chẳng thể lợi mình lợi người.
Này thiện nam tử! Chúng sanh chẳng phải chỉ có một tánh một hạnh, một căn, một quốc độ, một thiện tri thức. Do đây nên đức Như Lai vì chúng sanh mà tuyên nói nhiều pháp yếu. Do nhân duyên này nên chư Phật trong mười phương ba đời vì chúng sanh mà khai thị diễn thuyết mười hai bộ kinh.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai nói mười hai bộ kinh đây chẳng phải để lợi cho mình mà chỉ vì lợi ích cho người, nên trí lực thứ năm của Như Lai gọi là giải lực. Do hai trí lực này nên đức Như Lai biết rõ người này hiện tại có thể dứt căn lành, người này đời sau có thể dứt căn lành, người này hiện tại có thể được giải thoát, người này đời sau có thể được giải thoát, do đây nên đức Như Lai được là vô thượng lực sĩ.
Này thiện nam tử! Nếu nói rằng đức Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn, hoặc nói chẳng rốt ráo nhập Niết Bàn, những người này chẳng hiểu ý của Như Lai nên nói những lời như vậy.
Này thiện nam tử! Trong núi Hương Sơn có năm mươi ba ngàn vị tiên nhân, những vị này đã tu tập công đức nơi đức Phật Ca Diếp thuở quá khứ, họ chưa được chánh đạo, chưa được gần gũi Phật để nghe chánh pháp. Vì muốn độ những vị tiên nhân này nên đức Như Lai bảo A Nan rằng ba tháng sau ta sẽ nhập Niết Bàn. Chư thiên truyền lời này đến núi Hương Sơn. Các vị tiên nhân nghe tin Phật sắp nhập Niết Bàn bèn sanh lòng hối hận mà bảo nhau rằng tại sao chúng ta được sanh trong nhân-đạo mà chẳng được gần gũi Phật. Chư Phật ra đời rất khó gặp như hoa Ưu Đàm. Nay chúng ta nên đến ra mắt đức Thế Tôn để được nghe chánh pháp.
Này thiện nam tử! Lúc đó năm mươi ba ngàn tiên nhân liền ra mắt ta. Ta bèn theo cơ của họ mà thuyết pháp: Này các đại sĩ! Sắc là vô thường, vì nhân duyên của sắc là vô thường. Đã từ nhân vô thường mà sanh thời sắc đâu phải là thường trụ. Như sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
Các tiên nhân sau khi nghe pháp yếu trên đây tất cả đều chứng quà A La Hán.
Này thiện nam tử! Trong thành Câu Thi Na Kiệt có ba mươi muôn lực sĩ tự thị sức mạng của mìng ngạo nghễ không chịu tùng phục ai.
Vì muốn điều phục các lực sĩ này nên ta bảo Mục Kiền Liên đến điều phục các lực sĩ ấy. Lúc đó Mục Kiền Liên tuân lệnh ta, trọn năm năm giáo hóa nhiều các, nhưng chẳng thể điều phục được một lực sĩ. Do đây nên ta bảo A Nan rằng sau ba tháng đức Phật sẽ nhập Niết Bàn.
Các lực sĩ nghe được tin này bèn họp nhau sửa sang đường xá.
Đến ngày ta từ nước Tỳ Xá Ly đến thành Câu Thi Na. Giữa đường thấy các lực sĩ, ta liền hóa thân làm vị Sa Môn hỏi các lực sĩ rằng: Bọn đồng tử kia làm việc gì thế? Các lực sĩ đều nổi giận nói rằng: "Này Sa Môn, Tai sao ông gọi chúng ta là đồng tử?"
Ta bảo các lực sĩ bọn ngươi đến ba mươi muôn người mà không đủ sức dời nổi hòn đá nhỏ nhít này, nên ta gọi là đồng tử đâu phải lời quá đáng.
Các lực sĩ nói nếu ông gọi chúng ta là đồng tử, thời ông phải là bậc đại nhân.
Này thiện nam tử! Lúc đó ta dùng hai ngón chân hất văng hòn đá ấy. Các lực sĩ thấy như vậy liền hết khinh ngạo mà nói rằng: Này Sa Môn! Nay ông có thể dời hòn đá này ra khỏi đường chăng? - Ta nói này các đồng tử! Do nhân duyên gì mà các người sửa sang con đường này? - Các lực sĩ nói này Sa Môn! Đức Thích Ca Như Lai sẽ do con đường này đi đến rừng Ta La mà nhập Niết Bàn, nên chúng ta họp nhau lại sửa sang. - Ta khen rằng: Lành thay! Các đồng tử đã phát tâm tốt như vậy, ta sẽ dời hòn đá này cho các ông.
Nói xong ta liền lấy tay bưng hòn đá dồi lên giữa hư không. Các lực sĩ kinh hãi muốn chạy tránh. Ta liền bảo họ rằng: Các ngươi chẳng nên kinh sợ! Rồi ta lấy tay hứng bắt hòn đá để trên bàn tay mặt.
Các lực sĩ đều vui mừng khen ngợi hỏi rằng: Này Sa Môn! Hòn đá ấy là thường hay vô thường?
Ta liền dùng miệng thổi hòn đá tan nát ra như cát bụi.
Các lực sĩ thấy như vậy đồng cất tiếng xướng rằng hòn đá ấy là vô thường! Họ sanh lòng hổ thẹn không còn có tâm niệm kiêu mạn.
Ta liền hiện lại hình Phật mà vì họ thuyết pháp. Ba mươi muôn lực sĩ đều phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Này thiện nam tử! Nơi thành Câu Thi Na có người thợ tên Thuần Đà. Người này nơi thời kỳ đức Phật Ca Diếp đã phát nguyện rằng: Lúc Thích Ca Như Lai nhập Niết Bàn ta sẽ là người cúng dường bữa ăn cuối cùng cho Phật. Do đây nên ta ở nước Tỳ Xá Ly bảo Tỳ Kheo Ưu Bà Ma Na rằng sau ba tháng ta sẽ nhập Niết Bàn nơi rừng Ta La trong thành Câu Thi Na, ông nên qua cho Thuần Đà hay!
Này thiện nam tử! Trong thành Vương Xá có vị ngũ thông tiên nhân tên là Tu Đạt Đà La được một trăm hai mươi tuổi. Tiên nhân này thường tự xưng là bậc nhất thiết trí sanh lòng kiêu mạn. Tiên nhân này đã vun trồng căn lành nơi vô lượng chư Phật thuở quá khứ.
Vì muốn điều phục tiên nhân này nên ta bảo A Nan rằng sau ba tháng ta sẽ nhập Niết Bàn! Tu Bạt Đà La nghe tin này sẽ sanh lòng kính tin mà đến ra mắt ta. Ta sẽ độ ông chứng quả A La Hán.
Này thiện nam tử! Nơi thành La Duyệt Kỳ, thái tử Thiện Kiến muốn hại vua cha là Tần Bà Ta La, mà chưa có dịp hại được. Lúc đó Đề Bà Đạt Đa cũng muốn hại ta, bèn tu tập chứng được ngũ thông, làm bạn thân với thái tử Thiện Kiến. Vì thái tử mà hiện thần thông. Thái tử rất kính mến cúng dường trọng hậu.
Một lúc kia thái tử thưa với Đề Bà Đạt Đa rằng: Bạch đại sư thánh nhân, nay tôi muốn thấy hoa Mạn Đà La.
Đề Bà Đạt Đa liền đến cung trời Đao Lợi, xin bông Mạn Đà La, vì phước đã hết nên không vị trời nào chịu cho. Xin không được bông, Đề Bà Đạt Đa suy nghĩ rằng: cây Mạn Đà La vốn không ngã, không ngã sở, nếu ta tự lấy bông nào có tội gì. Nghĩ xong Đề Bà Đạt Đa đến bên cây muốn lấy bông, liền mất thần thông, trở lại thấy thân mình ở nơi thành Vương Xá, sanh lòng hổ thẹn chẳng dám đến gặp thái tử Thiện Kiến. Đề Bà Đạt Đa lại nghĩ rằng nay ta nên đến chỗ Phật đòi đại chúng. Nếu Phật cho ta sẽ tùy ý sai bảo Xá Lợi Phất v.v…
Đề Bà Đạt Đa liền đến chỗ Phật mà bạch rằng ngưỡng mong đức Như Lai đem đại chúng này giao phó cho tôi, tôi sẽ thuyết pháp giáo hóa họ.
Phật nói: Người ngu si! Xá Lợi Phất v.v… là bậc thông minh đại trí mọi người tin phục, mà ta còn chẳng đem đại chúng giao phó, huống ngươi là người ngu si ăn nước miếng của kẻ khác ư!
Lúc đó Đề Bà Đạt Đa càng sanh ác tâm nói rằng: Này Cù Đàm. Nay dầu ông điều phục đại chúng, nhưng thế cũng chẳng được lâu sẽ phải bị tiêu diệt! Vừa nói xong đất liền rúng động, Đề Bà Đạt Đa té xuống đất, bên thân ông ấy phát ra luồng gió mạnh thổi bụi đất lấm dơ cả mình.
Đề Bà Đạt Đa thấy tướng xấu này lại nói rằng nếu thân ta hiện đời phải đọa A Tỳ địa ngục, ta phải báo sự oán thù lớn này.
Đề Bà Đạt Đa liền đến chỗ thái tử Thiện Kiến. Thái tử hỏi đại sư thánh nhân cớ sao dung nhan tiều tụy sắc diện lo buồn?
Đề Bà Đạt Đa nói ta luôn luôn như vậy mà thái tử chẳng biết ư?
Thái tử hỏi: Có nhân duyên gì như vậy? Xin đại sư dạy rõ.
Đề Bà Đạt Đa nói nay ta cùng thái tử thân mến nhau. Người ngoài mắng nhiếc thái tử, lẽ đâu ta chẳng lo buồn.
Thái tử hỏi người ta mắng nhiếc tôi như thế nào?
Đề Bà Đạt Đa nói mọi người mắng thái tử là Vị Sanh Oán.
Thái tử hỏi sao lại gọi tôi là Vị Sanh Oán? Ai đặt ra danh từ này?
Đề Bà Đạt Đa nói: lúc chưa sanh thái tử, tất cả tướng sư đều bảo rằng lúc đứa trẻ này lớn lên sẽ giết cha do đó người ngoài đều gọi thái tử là Vị Sanh Oán. Người trong cung vì muốn thái tử vui lòng nên đặt tên là Thiện Kiến.
Vi Đề Hy phu nhân nghe lời tướng sư, lúc sanh thái tử từ trên lầu cao ném xuống đất làm gảy mất một ngón tay của thái tử. Do cớ này nên mọi người lại gọi tên thái tử là Chiết Chi. Ta nghe những việc này trong lòng lo buồn, nhưng lại chẳng dám nói với thái tử.
Đề Bà Đạt Đa đem những việc ác như vậy xúi thái tử giết vua cha mà bảo rằng: Nếu thái tử giết vua cha, thời ta cũng có thể giết Sa Môn Cù Đàm.
Thái tử hỏi đại thần Võ Hành. Đại thần thuật sự tích đặt tên đúng như lời của Đề Bà Đạt Đa.
Thái tử nghe xong liền cùng đại thần bắt vua cha giam ở ngoài thành sai bốn đội binh giữ gìn nghiêm ngặt. Phu nhân Vi Đề Hy đến thăm vua. Người giữ cửa nhà giam chẳng cho vào. Phu nhân cả giận bèn quở mắng. Người giữ cửa đem việc này thưa với thái tử. Thái tử Thiện Kiến giận dữ vào cung nắm tóc mẹ rút gươm muốn chém.
Kỳ Bà liền đến can rằng: Tâu Đại Vương! Từ khi lập quốc đến nay, dầu tội rất nặng cũng chẳng xử đến người nữ, huống là mẹ đẻ.
Thái tử vì nể Kỳ Bà nên không giết phu nhân. Dứt hẳn sự uống ăn thuốc men của vua cha. Quá bảy ngày vua cha chết. Thiện Kiến thái tử mới sanh lòng hối hận.
Đại thần Võ Hành tâu rằng: "Tất cả hành nghiệp đều không có tội, sao Đại Vương lại sanh lòng hối hận buồn rầu."
Kỳ Bà tâu rằng: "Đại Vương nên biết rằng việc làm của Đại Vương gồm hai tội nặng: một là tội giết cha, hai là tội giết Tu Đà Hoàn. Tội nặng như vậy trừ Phật không ai có thể làm cho tội đó được trừ diệt."
Vua nói đức Như Lai thanh tịnh ta là tội nhơ uế làm sao dám đến thấy Phật.
Này thiện nam tử! Ta biết việc này nên bảo A Nan rằng sau ba tháng ta sẽ nhập Niết Bàn.
Thái tử Thiện Kiến nghe tin này liền đến ra mắt ta. Ta vì Thiện Kiến mà thuyết pháp, do đây tội nặng được bớt nhẹ, Thiện Kiến được vô căn tín.
Này thiện nam tử! Hàng đệ tử của ta nghe những lời này chẳng hiểu ý của ta, nên cho rằng đức Như Lai quyết định nói rốt ráo nhập Niết Bàn.
(Hán bộ quyển thứ 34)
Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Này thiện nam tử! Bồ Tát có hai hạng: một là thật nghĩa, hai là giả danh.
Giả danh Bồ Tát nghe tin Phật sau ba tháng sẽ nhập Niết Bàn, đều sanh lòng thối thất mà nói rằng đức Như Lai còn là vô thường, tại sao chúng ta lại vì sự vô thường mà phải cần khổ trong vô lượng đời. Đức Như Lai thành tựu đầy đủ vô lượng công đức mà còn không thể phá hoại được tử ma, huống là bọn ta.
Này thiện nam tử! Ta vì hạng Bồ Tát này mà nói rằng Như Lai thường trụ không có biến đổi.
Các đệ tử của ta nghe lời trên đây chẳng hiểu ý của ta bèn xướng rằng đức Như Lai trọn chẳng rốt ráo nhập Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Có những chúng sanh chấp đoạn kiến bảo rằng tất cả chúng sanh sau khi thân thể chết mất, những nghiệp thiện, nghiệp ác không có người lãnh thọ. Ta vì những người này mà nói rằng quả báo lành cũng như quả áo ác thiệt có người lãnh thọ. Do đâu biết rằng có?
Như thuở quá khứ nơi thành Câu Thi Na có Thiện Kiến Vương: lúc làm đồng tử trải qua tám muôn bốn ngàn tuổi, thời kỳ làm thái tử trải qua tám muôn bốn ngàn tuổi, đến lúc lên ngôi vua cũng trải qua tám muôn bốn ngàn tuổi. Thiện Kiến Vương ngồi riêng một mình suy nghĩ rằng: Chúng sanh phước mỏng tuổi thọ ngắn ngủi, thường có bốn thứ oan gia theo dõi mà chúng sanh chẳng hay biết, mãi phóng dật. Ta nên xuất gia tu hành dứt tuyệt bốn thứ oan gia sanh, già, bệnh, chết. Nhà vua sai quan xây nhà thất bảo ở ngoài thành rồi bảo quần thần, hậu phi, các vương tử cùng tất cả quyến thuộc: Nay ta muốn xuất gia, các người có bằng lòng chăng? Các đại thần cùng quyến thuộc đều bằng lòng. Thiện Kiến Vương đem theo một người hầu hạ qua ở nơi nhà thất bảo tu tập từ tâm trải qua tám muôn bốn ngàn năm. Do sự tu tập từ tâm này nên sau đó trải qua tám muôn bốn ngàn đời thường làm Chuyển Luân Thánh Vương, ba mươi đời làm Thích Đề Hoàn Nhân, vô lượng đời làm tiểu quốc vương.
Này thiện nam tử! Thiện Kiến Vương thuở xưa đó chính là tiền thân của ta. Các đệ tử của ta nghe những lời trên đây chẳng hiểu được ý của ta bèn nói rằng: "Đức Như Lai quyết định nói có ngã và có ngã sở."
Lại một thời kỳ kia ta vì chúng sanh mà nói rằng ngã chính là tánh, nghĩa là những nhân duyên trong thân ngoài cảnh, mười hai nhân duyên, ngũ ấm, tâm, giới, công đức, hành nghiệp, tự tại thiên chính đây gọi là ngã. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai quyết định nói có ngã.
Này thiện nam tử! Ngày kia có một Tỳ Kheo đến bạch rằng: Thế Tôn! Thế nào gọi là ngã? Ai là ngã? Duyên gì mà có ngã? Ta bảo Tỳ Kheo đó rằng này Tỳ Kheo không có ngã không có ngã sở. Ngã đó chính là trước không mà nay có, có rồi trở lại không. Lúc nó sanh không từ đâu lại, lúc nó diệt cũng không đến đâu. Dầu có nghiệp quả mà không có tác giả, không có ai rời bỏ ngũ ấm cũng như không có ai thọ lấy ngũ ấm. Như lời ông hỏi thế nào là ngã? Ngã đó chính là thời kỳ vậy. Ai là ngã? Chính là nghiệp vậy. Duyên gì mà có ngã? Chính là ái vậy. Này Tỳ Kheo! Như hai tay vỗ nhau trong đó phát ra tiếng. Ngã cũng như vậy, chúng sanh, nghiệp, ái, do ba nhân duyên này mà gọi đó là ngã. Này Tỳ Kheo! Nơi tất cả chúng sanh, sắc chẳng phải là ngã, trong ngã không có sắc, trong sắc không có ngã, thọ tưởng hành thức cũng như vậy. Này Tỳ Kheo! Các ngoại đạo dầu nói là có ngã nhưng trọn chẳng lìa ngũ ấm. Không bao giờ có thể nói rằng riêng có ngã rời ngoài ngũ ấm. Tất cả chúng sanh, hành nghiệp như huyễn hóa như dương diệm. Này Tỳ Kheo! Ngũ ấm đều là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh.
Này thiện nam tử! Lúc ta giảng dạy những lời trên đây, có vô lượng Tỳ Kheo quán ngũ ấm là vô ngã, là không ngã sở, mà chứng đặng quả A La Hán.
Này thiện nam tử! Các đệ tử của ta nghe lời nói trên đây chẳng hiểu được ý của ta cho rằng đức Như Lai quyết định nói vô ngã.
Này thiện nam tử! Trong khế kinh ta lại nói rằng do ba sự hòa hiệp mà có thân: cha, mẹ, trung ấm. Hoặc có lúc ta nói bậc A Na Hàm nơi hiện thân nhập Niết Bàn, hoặc nói nơi thân trung ấm nhập Niết Bàn. Hoặc nói rằng thân căn của trung ấm minh mẫn sáng suốt đều do nơi hạnh nghiệp đời trước, như đề-hồ trong sạch.
Này thiện nam tử! Có lúc ta nói rằng chúng sanh tệ ác thọ thân trung ấm xấu xí như vải bố thô. Chúng sanh thuần thiện thọ thân trung ấm tốt đẹp như lụa trắng. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói có thân trung ấm.
Này thiện nam tử! Ta lại vì những chúng sanh phạm tội nghịch mà nói rằng kẻ tạo tội ngũ nghịch sau khi chết thẳng vào địa ngục A Tỳ.
Ta lại nói rằng Tỳ Kheo Đàm Ma Lưu Chi, sau khi chết chẳng vào địa ngục A Tỳ, nơi khoảng giữa không chỗ dừng ở.
Ta lại bảo Phạm Chí Độc Tử: Này Phạm Chí! Nếu có thân trung ấm thời có sáu sự có. Ta lại nói chúng sanh cõi vô sắc không có thân trung ấm. Các đệ tử của ta nghe lời trên đây chẳng hiểu được ý của ta bèn nói rằng đức Phật quyết định nói không trung ấm.
Này thiện nam tử! Trong khế kinh ta lại nói có thối thất. Nhân nơi vô lượng giải đãi biếng trễ, các Tỳ Kheo chẳng tu hành đạo hạnh nên nói năm điều thối thất: một là thích nhiều việc, hai là thích nói việc đời, ba là ngủ nghỉ, bốn là ưa gần người tại gia, năm là ưa thường dạo đi, do năm nhân duyên này làm cho Tỳ Kheo thối thất.
Nhân duyên thối thất lại có hai thứ: một là nội nhân, hai là ngoại nhân, bậc A La Hán dầu rời khỏi nội nhân chẳng lìa ngoại nhân. Do nhân duyên ngoài nên sanh phiền não. Vì sanh phiền não thời thối thất.
Có Tỳ Kheo tên là Cù Đàm, sáu phen thối thất, sanh lòng hổ thẹn lại tiến tu lần thứ bảy bèn được, được rồi sợ thối thất lấy dao tự đâm mình mà chết.
Ta lại nói có lúc giải thoát, hoặc nói sáu hạng A La Hán. Các đệ tử ta nghe những lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai quyết định nói có thối thất.
Này thiện nam tử! Trong kinh lại nói như đã cháy thành than thời chẳng còn trở lại làm cây gỗ. Như bình đã bể thời không còn công dụng của bình. Phiền não cũng như vậy, A La Hán đã dứt thời trọn chẳng có lại nữa.
Ta cũng nói chúng sanh nhân duyên có phiền não do ba điều: một là chưa dứt phiền não, hai là chẳng dứt nhân duyên, ba là chẳng khéo suy nghĩ. Bậc A La Hán không có hai diều: nghĩa là đã dứt phiền não và đã khéo suy nghĩ. Các đệ tử của ta nghe lời này, chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai quyết định nói không thối thất.
Trong khế kinh ta nói thân của Như Lai có hai thứ: một là sanh thân, hai là pháp thân. Sanh thân là thân phương tiện ứng hóa. Thân này có thể nói là sanh già bệnh chết, cao thấp đen trắng, là đây là kia, là học là vô học. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai quyết định nói thân Phật là pháp hữu vi.
Pháp thân là thường lạc ngã tịnh, lìa hẳn tất cả sanh già bệnh chết, chẳng phải trắng đen, chẳng phải cao thấp, chẳng phải đây kia, chẳng phải học vô học, Phật ra đời hoặc chẳng ra đời vẫn thường trụ chẳng động không biến đổi. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta, bèn cho rằng đức Như Lai quyết định nói thân Phật là pháp vô vi.
Này thiện nam tử! Trong khế kinh ta nói mười hai nhân duyên: Từ vô mình sanh ra hành, từ hành sanh ra thức, từ thức sanh ra danh sắc, từ danh sắc sanh ra lục nhập, từ lục nhập sanh ra xúc, từ xúc sanh ra thọ, từ thọ sanh ra ái, từ ái sanh ra thủ, từ thủ sanh ra hữu, từ hữu sanh ra sanh, từ sanh thời có già chết buồn khổ. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói mười hai nhân duyên quyết định là hữu vi.
Lại một ngày kia ta bảo các Tỳ Kheo rằng mười hai nhân duyên tánh tướng là thường trụ không luận có Phật hay không Phật. Có mười hai nhân duyên chẳng từ duyên sanh, có từ duyên danh chẳng phải mười hai duyên, có từ duyên sanh cũng là mười hai duyên, có chẳng phải duyên sanh mà cũng chẳng phải là mười hai duyên.
Có mười hai duyên chẳng phải là duyên sanh, chính là mười hai chi đời vị lai. Có từ duyên sanh mà chẳng phải là mười hai duyên chính là thân ngũ ấm của A La Hán. Có từ duyên sanh cũng là mười hai duyên chính là thân ngũ ấm của phàm phu. Mười hai nhân duyên chẳng phải duyên sanh, chẳng phải mười hai duyên chính là hư không Niết Bàn.
Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta, bèn cho rằng đức Như Lai nói mười hai nhân duyên quyết định là vô vi.
Này thiện nam tử! Trong khế kinh ta nói tất cả chúng sanh tạo nghiệp thiện ác, lúc chết, tứ đại này liền hư hoại. Người tạo nghiệp thuần thiện tâm thức liền đi lên, người tạo nghiệp thuần ác tâm thức liền đi xuống. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói tâm quyết định là thường trụ.
Này thiện nam tử! Một thuở kia ta nói với vua Tần Bà Ta La rằng: Này Đại Vương! Sắc là vô thường vì từ nhân vô thường mà sanh ra sắc. Nếu sắc đã từ nhân vô thường mà sanh, người trí không bao giờ nói sắc là thường. Nếu sắc là thường lẽ ra chẳng hoại diệt sanh các khổ não. Nay thấy sắc hoại diệt nên biết rằng sắc là vô thường. Như sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.
Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói tâm quyết định đoạn diệt.
Này thiện nam tử! Trong khế kinh ta nói hàng đệ tử lãnh thọ những hoa hương vàng bạc vật báu vợ con tôi tớ, tám vật bất tịnh, chứng được chánh đạo, đã chứng được chánh đạo cũng chẳng rời bỏ những vật ấy. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói hưởng thọ ngũ dục chẳng chướng ngại chánh đạo.
Lại có lúc ta nói người tại gia không thể chứng được chánh đạo. Hàng đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói hưởng thọ ngũ dục quyết định chướng ngại chánh đạo.
Trong khế kinh ta nói xa lìa phiền não chưa được giải thoát như cõi dục tu tập pháp thế đệ nhất. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói pháp thế đệ nhất chỉ là cõi dục.
Trong khế kinh ta lại nói noãn pháp, đảnh pháp, nhẫn pháp, thế đệ nhất pháp, thuộc nơi sơ thiền đến tứ thiền. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói bốn pháp ấy thuộc nơi cõi sắc. Trong khế kinh ta lại nói hàng ngoại đạo đã dứt được phiền não cõi tứ thiền tu tập noãn pháp, đảng pháp, nhẫn pháp, thế đệ nhất pháp, quán tứ đế chứng quả A Na Hàm. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói thế đệ nhất pháp thuộc nơi cõi vô sắc.
Trong khế kinh ta từng nói trong bốn thứ bố thí có ba điều trong sạch: Một là thí chủ tin nhân tin quả tin bố thí, người thọ chẳng tin nhân, chẳng tin quả cùng bố thí, hai là thí chủ chẳng tin nhân quả và bố thí, người thọ tin nhân quả và bố thí, ba là thí chủ và người thọ cả hai đều có lòng tin, bốn là thí chủ và người thọ cả hai đều chẳng tin. Bốn thứ bố thí trên đây ba hạng ban đầu là trong sạch. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói bố thí chỉ thuộc nơi ý.
Có một lúc kia ta lại nói rằng người bố thí lúc bố thí đem năm việc ra bố thí: Một là bố thí sắc, hai là bố thí sức lực, ba là bố thí an ổn, bốn là bố thí mạng sống, năm là bố thí biện tài, do nhân duyên này nên thí chủ trở lại được năm quả báo. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Phật nói bố thí tức là năm ấm.
Có một lúc ta nói rằng: Niết Bàn tức là viễn ly phiền não dứt hẳn không còn thừa sót, như đèn đã tắt, không còn pháp gì sanh trở lại, Niết Bàn cũng như vậy.
Nói hư không đó tức là không chỗ có, như trong đời gọi chỗ không có là hư không, chẳng phải do trí dứt mới không chỗ có. Nếu hư không là có lẽ ra phải có nhân duyên nếu đã có nhân duyên lẽ ra phải có dứt diệt, bởi hư không vốn là không nên không có dứt diệt. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Phật nói không có ba pháp vô vi.
Một lúc kia ta bảo Mục Kiền Liên rằng luận về Niết Bàn tức là chương cú, tức là dấu vết, tức là chỗ rốt ráo, là chỗ vô sở úy, là bậc đại sư, là đại quả, là trí rốt ráo, là đại nhẫn, là vô ngại tam muội, là đại pháp giới, là cam lộ vị, là khó thấy biết. Này Mục Kiền Liên! Nếu nói rằng không Niết Bàn, tại sao có người sanh lòng hủy báng Niết Bàn lại phải đọa địa ngục. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu được ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói có Niết Bàn.
Lại một lúc kia ta bảo Mục Kiền Liên rằng nhãn căn chẳng bền chắc nhẫn đến thân cũng chẳng bền chắc. Vì chẳng bền chắc nên gọi là hư không. Ăn nuốt xuống rồi xoay chuyển tiêu hóa. Tất cả âm thanh đều gọi là hư không. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như lai quyết định nói có hư không vô vi.
Ta lại bảo Mục Kiền Liên có người chưa được quả Tu Đà Hoàn, lúc trụ nơi nhẫn pháp, dứt vô lượng quả báo trong ba đường dữ, nên biết rằng chẳng phải trừ nơi trí mà dứt diệt. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta, bèn cho rằng đức Như Lai quyết định nói có chẳng phải do trí mà dứt diệt. Lại một lúc kia ta nói với Tỳ Kheo Bạt Ba nếu Tỳ Kheo quán nơi sắc: Hoặc quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc gần hoặc xa, hoặc thô, hoặt tế, những sắc như vậy chẳng phải là ngã chẳng phải ngã sở: Quán như vậy có thể dứt được lòng tham ái nơi sắc. - Bạt Ba bạch rằng: Thế nào gọi là sắc? - Ta đáp: Tứ đại gọi rằng sắc, thọ tưởng hành thức bốn ấm này gọi là danh. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai quyết định nói sắc là tứ đại.
Này thiện nam tử! Ta lại nói rằng như nhân nơi mặt gương mà có hình bóng hiện ra, sắc cũng như vậy nhân nơi tứ đại tạo thành. Chính là những thứ to nhỏ, rít trơn, xanh vàng đỏ trắng, dài vắn, vuông tròn, cong ngay, nhẹ nặng, lạnh, nóng, đói khát, khói mây, bụi mù, đây gọi là những sắc do tứ đại tạo thành dường như vang bóng. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói có tứ đại thời có sắc do tứ đại tạo thành, hoặc nói có tứ đại mà không có sắc.
Này thiện nam tử! Trước kia Phương Tử Bồ Đề nói rằng nếu có Tỳ Kheo trì giới lúc phát tâm ác, nên biết rằng lúc đó mất giới Tỳ Kheo. Ta nghe lời này bèn bảo rằng: Này Phương Tử! Giới có bảy thứ từ nơi thân và miệng mà có vô tác biểu sắc. Do nhân duyên vô tác biểu sắc này nên dầu tâm của Tỳ Kheo ở trong ác vô ký nhưng chẳng gọi là mất giới, vẫn còn gọi là trì giới. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Phật nói có vô tác biểu sắc.
Này thiện nam tử! Trong các kinh khác ta có nói rằng giới chính là ngăn chế pháp ác, nếu chẳng làm ác đây gọi là trì giới. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn xướng rằng đức Như Lai quyết định nói không có vô tắc biểu sắc.
Này thiện nam tử! Trong khế kinh ta từng nói sắc ấm của thánh nhân nhẫn đến thức ấm đều là do vô minh sanh ra. Tất cả phàm phu cũng như vậy, từ vô minh sanh ra ái, nên biết rằng ái này chính là vô minh, từ ái sanh ra thủ, nên biết rằng thủ này chính là vô minh ái. Từ thủ sanh ra hữu, hữu này chính là vô minh ái thủ. Từ hữu sanh ra thọ, nên biết rằng thọ này chính là hành hữu. Từ nơi thọ sanh ra danh sắc, vô minh, ái, thủ, hữu, hành, thọ, xúc, thức, lục nhập v.v…, do đây nên thọ chính là mười hai chi. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói không có tâm sở.
Này thiện nam tử! Trong khế kinh ta từng nói tử nơi nhãn, sắc, minh, và ác dục, do bốn thứ này làm nhân duyên sanh ra nhãn thức. Ác dục trong đây chính là vô minh, lúc dục cầu thời gọi là ái, do ái mà có thủ, thủ đây gọi là nghiệp, nghiệp làm duyên cho thức, thức làm duyên cho danh sắc, danh sắc làm duyên cho lục nhập, lục nhập làm duyên cho xúc, xúc làm duyên cho tưởng thọ ái, tín, tinh tấn định và huệ, những pháp này nhân nơi xúc mà sanh nhưng chẳng phải là xúc. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói có tâm sở.
Này thiện nam tử! Hoặc có lúc ta nói chỉ có một cõi, hoặc nói ba bốn năm sáu mười tám chín nhẫn đến hai mươi lăm cõi. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói có năm cõi hoặc nói có sáu cõi.
Này thiện nam tử! Ngày trước lúc ở nơi rừng Ni Câu Đà tại thành Ca Tỳ La Vệ, Thích Ma Nam bạch với ta rằng Thế Tôn sao gọi là Ưu Bà Tắc? Ta nói nếu có thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nào căn thân đầy đủ thọ ba pháp quy y thời gọi là Ưu Bà Tắc. Thích Ma Nam lại hỏi Thế Tôn sao gọi là nhất phần Ưu Bà Tắc? Ta nói nếu thọ ba pháp quy y và thọ một giới thời gọi là nhất phần Ưu Bà Tắc. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói Ưu Bà Tắc được thọ từng phần.
Lại một lúc kia ta ở bên sông Hằng, Ca Chiên Diên đến bạch với ta rằng: Thế Tôn! Tôi giáo hóa chúng sanh khiến họ thọ pháp bát quan trai: hoặc một ngày, hoặc một đêm, hoặc một giờ, hoặc một niệm, những người này được thành trai pháp chăng? Ta nói: Này Ca Chiên Diên, những người này chỉ được điều lành mà chẳng được gọi là được trai pháp. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn nói rằng đức Như Lai nói pháp bát-quan-trai thọ đủ mới được.
Trong khế kinh ta từng nói rằng nếu có Tỳ Kheo đã phạm bốn tội trọng thời chẳng gọi là Tỳ Kheo, gọi là phá Tỳ Kheo, hư mất Tỳ Kheo chẳng còn có thể sanh chủng tử pháp lành, như hột giống đã cháy chẳng còn mọc mầm sanh bông trái, như cây đa-la nếu ngọn đã bị đứt thời chẳng còn sanh trái. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói các Tỳ Kheo phạm giới trọng rồi bèn mất giới Tỳ Kheo.
Trong khế kinh, ta vì Thuần Đà mà nói bốn hạng Tỳ Kheo: một là hạng rốt ráo đến chánh đạo, hai là hạng chỉ bày chánh đạo, ba là hạng lãnh thọ chánh đạo, bốn là hạng nhiễm ô chánh đạo. Người phạm bốn tội trọng là hạng nhiễm ô chánh đạo. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói các Tỳ Kheo đã phạm bốn tội trọng chẳng mất giới.
Trong khế kinh ta bảo các Tỳ Kheo có nhất thừa, nhất đạo, nhất hạnh, nhất duyên, bốn pháp này có thể làm cho chúng sanh được đại tịch tịnh, dứt hẳn tất cả sự ràng buộc sầu khổ, khổ quả cùng khổ nhân, làm cho tất cả chúng sanh đến nơi nhất thừa. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói Tu Đà Hoàn nhẫn đến A La Hán đều được Phật đạo.
Này thiện nam tử! Trong khế kinh ta nói Tu Đà Hoàn bảy lần sanh qua lại trong nhân gian cùng cõi trời, bèn chứng A La Hán nhập Niết Bàn. Tư Đà Hàm một lần sanh trong nhân gian và cõi trời bèn nhập Niết Bàn. A Na Hàm phàm có năm hạng: Hoặc có trung gian nhập Niết Bàn nhẫn đến thượng lưu nhập Niết Bàn. A La Hán phàm có hai hạng: một là hiện tại, hai là vị lai, hiện tại cũng dứt phiền não ngũ ấm, vị lai cũng dứt phiền não ngũ ấm. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói Tu Đà Hoàn đến A La Hán chẳng được Phật đạo.
Trong khế kinh ta từng nói Phật tánh đó có sáu điều: một là thường, hai là thật, ba là chân, bốn là thiện, năm là tịnh, sáu là có thể thấy. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói Phật tánh của chúng sanh rời ngoài chúng sanh mà có.
Ta lại nói Phật tánh của chúng sanh như hư không. Hư không chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại, chẳng phải nội ngoại, chẳng phải sắc thanh hương vị xúc, Phật tánh cũng như vậy. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói Phật tánh của chúng sanh rời ngoài chúng sanh mà có.
Ta lại nói Phật tánh của chúng sanh dường như kho châu báu ẩn kín trong nhà của bần nữ, như kim cang bảo châu ẩn trên trán của lực sĩ, như suối cam lộ của Chuyển Luân Thánh Vương. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói Phật tánh của chúng sanh rời ngoài chúng sanh mà có.
Ta lại nói hàng nhất-xiển-đề phạm bốn tội trọng, hủy báng kinh điển đại thừa, tạo tội ngũ nghịch đều có Phật tánh. Những chúng sanh này đều không có pháp lành, Phật tánh là lành. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói Phật tánh của chúng sanh rời ngoài chúng sanh mà có.
Ta lại nói chúng sanh chính là Phật tánh, vì nếu rời chúng sanh thời chẳng được vô thượng Bồ Đề. Do đây nên ta vì vua Ba Tư Nặc mà nói ví dụ rờ voi: Như bọn người mù nói hình dạng của voi, dầu chẳng trúng nhưng đều chẳng rời ngoài voi. Chúng sanh nói sắc, nói thọ tưởng hành thức là Phật tánh cũng như vậy, dầu chẳng phải là Phật tánh nhưng chẳng phải rời Phật tánh. Như ta vì vua Ba Tư Nặc mà nói ví dụ ống không hầu, Phật tánh cũng như vậy. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn lập ra nhiều thuyết khác nhau, như người mù hỏi màu của sữa, Phật tánh cũng như vậy. Do cớ này, hoặc có người nói hàng nhất-xiển-đề phạm bốn tội trọng hủy báng kinh đại thừa tạo tội ngũ nghịch đều có Phật tánh. Hoặc có người nói là không có Phật tánh.
Trong khế kinh nhiều lần ta nói rằng một người xuất thế thời nhiều người được lợi ích. Trong một cõi nước không có hai vua Chuyển Luân. Trong một thế giới không có hai đức Phật xuất thế. Một tứ thiên hạ không có tám Tứ Thiên Vương, nhẫn đến không có hai Tha Hóa Tự Tại Thiên. Ta nói từ Diêm Phù Đề, dưới đến địa ngục A Tỳ, trên đến trời Sắc Cứu Cánh. Các đệ tử của ta nghe lời này chẳng hiểu ý của ta bèn cho rằng đức Như Lai nói không có Phật mười phương. Thật ra trong các kinh đại thừa ta nói có thập phương chư Phật.

Này thiện nam tử! Những điều tranh tụng như vậy là cảnh giới của chư Phật chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giác biết được. Nếu người nào đối với những việc này sanh lòng nghi còn có thể phá hoại được vô lượng phiền não. Nếu người nào ở trong những việc này sanh lòng quyết định thời gọi là chấp trước.

No comments:

Post a Comment