Wednesday, July 8, 2015

Kinh Đại Bát Niết Bàn (Q3) - Phẩm SƯ TỬ HỐNG BỒ TÁT (phần 4)

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát biết thời cùng phi thời?
- Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát vì hưởng thọ sự vui mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì thuyết pháp mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì tinh tấn mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì hiểu nghĩa vấn đáp giỏi mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì gần bạn ác mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì bố thí nhiều mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì có công đức lành thế gian mà sanh lòng kiêu mạn, hoặc vì được người giàu sang cung kính mà sanh lòng kiêu mạn, nên biết những lúc như vậy chẳng nên tu tập trí huệ, mà phải tu tập chánh định, đây gọi là Bồ Tát biết thời cùng phi thời.
Nếu có Bồ Tát tinh tấn tu hành chưa được quả Niết Bàn an lạc, vì chẳng được mà sanh lòng hối hận, vì độn căn nên chẳng điều phục được ngũ căn, vì thế lực phiền não thạnh, vì tự nghi giới luật có kém tổn, nên biết rằng lúc như vậy chẳng nên tu chánh định, mà phải tu tập trí huệ, đây gọi là Bồ Tát biết thời và phi thời.
Nếu có Bồ Tát hai pháp định huệ chẳng bình đẳng, nên biết lúc như vậy chẳng nên tu hạnh xả, lúc định huệ bình đẳng thời nên tu hạnh xả, đây gọi là Bồ Tát biết thời và phi thời.
Nếu có Bồ Tát lúc tu tập định huệ nếu có phiền não khởi lên, nên biết lúc như vậy chẳng nên tu hạnh xả, mà phải đọc tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thiên, niệm thí xả, đây gọi là tu xả.
Nếu có Bồ Tát tu tập ba pháp tướng như vậy, do nhân duyên này đặng vô tướng Niết Bàn.
- Bạch Thế Tôn! Vì không mười tướng gọi là Đại Niết Bàn là vô tướng. Lại do nhân duyên gì gọi là vô sanh, vô xuất, vô tác, là nhà cửa, cồn bãi, chỗ về, là an ổn, diệt độ Niết Bàn, tịch tịnh, không các bệnh khổ, và không chỗ có?
- Này thiện nam tử! Vì không nhân duyên nên gọi là vô sanh, vì vô sanh nên gọi là vô xuất. Vì không tạo nghiệp nên gọi là vô tác. Vì chẳng vào năm thứ tà kiến nên gọi là nhà cửa. Vì rời lìa bốn dòng nước mạnh nên gọi là cồn bãi. Vì điều phục chúng sanh nên gọi là quy y. Vì phá hoại giặc phiền não nên gọi là an ổn. Vì lửa kiết sử tắt nên gọi là diệt độ. Vì lìa giác quán nên gọi là Niết Bàn. Vì xa ồn náo nên gọi là tịch tịnh. Vì dứt hẳn sanh tử nên gọi là không bệnh tử. Vì tất cả không có nên gọi là không chỗ có. Nếu Đại Bồ Tát quan sát như vậy thời đặng thấy rõ Phật tánh.
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát thành tựu bao nhiêu pháp thấy được vô tướng Niết Bàn như vậy nhẫn đến không chỗ có?
- Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát thành tựu mười pháp thời thấy rõ Niết Bàn vô tướng, nhẫn đến không chỗ có: một là tín tâm đầy đủ, nghĩa là thâm tín Phật, Pháp và Tăng là thường trụ, thập phương chư Phật phương tiện thị hiện. Tất cả chúng sanh và nhất-xiển-đề đều có Phật tánh. Chẳng tin đức Như Lai là sanh lão bệnh tử và tu khổ hạnh. Chẳng tin Đề Bà Đạt Đa là thật phá Tăng, làm thân Phật ra máu. Chẳng tin đức Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn, chánh pháp diệt hết. Đây gọi là Bồ Tát đầy đủ tín tâm.
Hai là đầy đủ tịnh giới! Nếu có Bồ Tát tự nói rằng giới thanh tịnh, dầu chẳng cùng với người nữ kia hòa hiệp, lúc thấy người nữ hoặc cùng nhau nói chuyện cợt đùa giỡn Bồ Tát như vậy thành dục pháp hủy phá tịnh giới ô nhục phạm hạnh khiến giới tạp uế chẳng được gọi là đầy đủ tịnh giới. Lại có Bồ Tát tự nói giới thanh tịnh, dầu chẳng cùng người nữ hòa hiệp cợt đùa, giỡn cười, nhưng cách vách nghe những tiếng vòng vàng chuỗi ngọc của người nữ khua động, trong lòng sanh niệm ái trước, Bồ Tát như vậy, làm thành dục pháp hủy phá giới thanh tịnh, ô nhục phạm hạnh, làm cho giới tạp uế, chẳng được gọi là đầy đủ tịnh giới. Lại có Bồ Tát tự nói giới thanh tịnh, dầu chẳng cùng người nữ hòa hiệp cợt đùa giỡn cười nghe tiếng khua động, nhưng lúc thấy người nam đi theo người nữ, hoặc lúc thấy người nữ đi theo người nam, bèn sanh niệm tham đắm, Bồ Tát như vậy làm nên pháp dục, hủy phá tịnh giới, ô nhục phạm hạnh, khiến giới tạp uế, chẳng được gọi là đầy đủ tịnh giới. Lại có Bồ Tát tự nói giới thanh tịnh, dầu chẳng cùng người nữ hòa hiệp cợt đùa nghe tiếng khua thấy nam nữ theo nhau, nhưng lại muốn sanh cõi trời thọ vui ngũ dục. Bồ Tát như vậy làm nên pháp dục, hủy phá tịnh giới, ô nhục phạm hạnh khiến giới tạp uế, chẳng được gọi là đầy đủ tịnh giới.
Này thiện nam tử! Nếu có Bồ Tát trì giới thanh tịnh mà chẳng vì giới, chẳng vì thi-la ba-la-mật, chẳng vì chúng sanh, chẳng vì lợi dưỡng, chẳng vì Niết Bàn, chẳng vì Bồ Đề, chẳng vì Thanh Văn và Bích Chi Phật, chỉ vì đệ nhất nghĩa tối thường mà hộ trì cấm giới, đây gọi là Bồ Tát đầy đủ tịnh giới.
Ba là gần gũi thiện tri thức: Nếu có người có thể nói tín, giới, đa văn, bố thí, trí huệ, làm cho mọi người thọ trì thực hành, đây gọi là Bồ Tát thiện tri thức vậy.
Bốn là ưa thích nơi tịch tịnh, nghĩa là thân tâm tịch tịnh quan sát pháp tánh thậm thâm của các pháp.
Năm là tinh tấn: nghĩa là nhiếp tâm quán bốn chân đế, giả sử lửa cháy trên đầu cũng chẳng buông bỏ.
Sáu là đầy đủ chánh niệm: nghĩa là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thiên, niệm thí xả.
Bảy là nhuyến ngữ: nghĩa là lời nói chân thật, lời nói hòa diệu, hỏi thăm trước, nói phải thời, nói chân chánh.
Tám là hộ pháp: nghĩa là mến thích chánh pháp, thường ưa diễn thuyết, đọc tụng, biên chép, tư duy ý nghĩa, tuyên dương sâu rộng làm cho chánh pháp được lưu bố, nếu thấy người khác biên chép giải thuyết đọc tụng, tán thán tư duy ý nghĩa, vì sanh sống mà cúng dường y phục, ẩm thực, đồ nằm thuốc men, vì hộ pháp nên chẳng tiếc thân mạng.
Chín là Đại Bồ Tát thấy có bạn đồng học đồng giới thiếu thốn đồ cần dùng, như y phục, thuốc men, đồ uống ăn, phòng nhà v.v…, thời đi khất xin người khác để cung cấp các vị ấy.
Mười là đầy đủ trí huệ: nghĩa là quan sát nơi đức Như Lai thường, lạc, ngã, tịnh, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, quan sát hai tướng không và bất không của các pháp, thường cùng vô thường, lạc cùng vô lạc, ngã cùng vô ngã, tịnh cùng bất tịnh, pháp khác có thể dứt, pháp khác chẳng thể dứt, pháp khác từ duyên sanh, pháp khác từ duyên thấy, pháp khác từ duyên thành quả, pháp khác chẳng phải duyên thành quả, đây gọi là đầy đủ trí huệ.
Này thiện nam tử! Đây gọi là Bồ Tát đầy đủ mười pháp, có thể thấy rõ Niết Bàn vô tướng.
- Bạch Thế Tôn! Như trước kia đức Phật bảo Thuần Đà: Nay ông đã được thấy Phật tánh, được Đại Niết Bàn, thành vô thượng Bồ Đề, lời đó nghĩa thế nào?
Bạch Thế Tôn! Như trong kinh nói: Nếu bố thí cho súc sanh thời được phước báo trăm lần hơn, bố thí cho nhất-xiển-đề được phước báo ngàn lần hơn, bố thí cho người trì giới được phước báo trăm ngàn lần hơn, bố thí cho ngoại đạo dứt phiền não được phước báo vô lượng, dâng cúng cho bậc tứ hướng nhẫn đến bậc tứ quả cùng Bích Chi Phật thời được phước báo vô lượng, dâng cúng cho bậc bất thối Bồ Tát, bậc Đại Bồ Tát thân rốt sau, chư Phật Thế Tôn, thời đặng phước báo vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể tính đếm.
Bạch Thế Tôn! Nếu ông Thuần Đà hưởng thọ vô lượng như vậy, phước báo này vô tận, thời chừng nào ông sẽ được vô thượng Bồ Đề?
Bạch Thế Tôn! Trong kinh lại có nói nếu có người do tâm ân trọng mà tạo nghiệp thiện nghiệp ác, chắc chắn được quả báo: hoặc hiện đời, hoặc đời kế hoặc đời sau. Nay ông Thuần Đà do tâm ân trọng mà tạo nghiệp thiện, quyết định được phước báo. Nếu quyết định được phước báo thời thế nào chứng được vô thượng Bồ Đề? Thế nào lại được thấy Phật tánh.
Bạch Thế Tôn! Trong kinh lại nói: bố thí cho ba hạng người thời được phước báo vô tận: một là người bệnh, hai là cha mẹ, ba là chư Phật Như Lai.
Bạch Thế Tôn! Và lại trong kinh đức Phật bảo A Nan: tất cả chúng sanh nếu không có nghiệp cõi dục thời được vô thượng Bồ Đề, không có nghiệp cõi sắc cõi vô sắc cũng như vậy.
Bạch Thế Tôn! Như bài kệ trong kinh Pháp Cú: 
Chẳng phải hư không, trong biển cả,
Chẳng phải vào núi, trong kẹt đá,
Tất cả mọi nơi, tất cả chỗ,
Không chỗ nào thoát khỏi quả báo.
Lại thuở kia A Nâu Lâu Đà bạch Phật: tôi nhớ đời trước nhờ bố thí một bữa ăn mà trong muôn kiếp chẳng đọa ác đạo.
Bạch Thế Tôn! Bố thí một bữa ăn còn được phước báo như vậy, huống là Thuần Đà do tâm kính tin mà cúng dường Phật thành tựu đầy đủ đàn-ba-la-mật.
Bạch Thế Tôn! Nếu phước báo lành và vô tận, thời hủy báng đại thừa phạm tội ngũ nghịch phá bốn giới trọng, tội nhất-xiển-đề thế nào hết được? Nếu chẳng hết được thời làm thế nào có thể thấy Phật tánh, thành vô thượng Bồ Đề?
Phật nói: "Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Chỉ có hai hạng người có thể được vô lượng vô biên công đức chẳng thể tính đếm chẳng thể tính nói, có thể cạn giòng sông sanh tử, hàng phục ma oán, xô ngã tràng ma, có thể chuyển pháp luân vô thượng: một là người khéo hỏi, hai là người khéo đáp.
Này thiện nam tử! Trong mười trí lực của Phật, nghiệp trí lực là rất sâu hơn cả.
Có những chúng sanh ở trong nghiệp duyên lòng khinh dễ chẳng tin, vì độ họ mà Phật nói như vầy: Tất cả nghiệp gây tạo ra, có nghiệp nhẹ có nghiệp nặng. Hai nghiệp đều có hai: một là quyết định, hai là bất định.
Này thiện nam tử! Hoặc có người cho rằng ác nghiệp không quả, nếu nói ác nghiệp quyết định có quả báo, tại sao Khí Hứ Chiên Đà La mà được sanh lên trời? Ươn Quật Ma La được quả giải thoát? Do đây nên biết tạo nghiệp có quyết định được quả báo và chẳng quyết định được quả báo.
Ta vì trừ tà kiến này, nên trong kinh ta nói rằng tất cả nghiệp tạo ra không nghiệp nào chẳng có quả báo.
Này thiện nam tử! Hoặc có nghiệp nhẹ có thể làm cho nặng. Chẳng phải tất cả người chỉ có ngu và trí. Do đây nên biết rằng chẳng phải tất cả nghiệp đều quyết định có quả, dầu chẳng quyết định có quả nhưng cũng chẳng phải là chẳng có.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh có hai hạng: người trí và kẻ ngu. Người trí nhờ sức trí huệ có thể làm cho nghiệp địa ngục rất nặng trở thành quả báo nhẹ hiện đời. Người ngu si thời hoặc lại làm cho nghiệp nhẹ hiện đời trở thành quả báo nặng nơi địa ngục."
- Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thời chẳng nên cầu phạm hạnh thanh tịnh cùng quả giải thoát.
- Này thiện nam tử! Nếu tất cả nghiệp quyết định có quả thời chẳng nên cầu phạm hạnh giải thoát. Vì nghiệp bất định nên phải tu phạm hạnh và quả giải thoát.
Này thiện nam tử! Nếu xa lìa được tất cả nghiệp ác thời được quả lành. Nếu xa lìa nghiệp lành thời mang quả báo ác. Nếu tất cả nghiệp quyết định có quả, thời chẳng nên cần tu tập thánh đạo, nếu chẳng nên tu thánh đạo thời không được giải thoát. Tất cả thánh nhân sở dĩ tu tập thánh đạo vì để phá hoại định nghiệp thành quả báo nhẹ, và làm cho nghiệp bất định không có quả báo. Nếu tất cả nghiệp quyết định có quả, thời chẳng nên cầu tu tập thánh đạo. Nếu ai xa lìa thánh đạo thời không bao giờ được giải thoát. Chẳng được giải thoát thời không được Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Nếu tất cả nghiệp quyết định có ngã, thời một đời tạo nghiệp thuần thiện lẽ ra phải mãi mãi thường hưởng thọ quả an vui. Một đời gây tạo tội ác rất nặng lẽ ra cũng mãi mãi chịu khổ lớn. Nếu nghiệp quả như vậy thời không có sự tu thánh đạo cùng giải thoát và Niết Bàn, người làm người thọ: Bà La Môn làm Bà La Môn thọ. Nếu như vậy thời lẽ ra chẳng có dòng hạ tiện. Người lẽ ra luôn luôn là người, Bà La Môn lẽ ra mãi mãi là Bà La Môn. Lúc nhỏ tạo nghiệp lẽ ra lúc nhỏ thọ báo chẳng nên đến lúc trung niêm và lúc già mới thọ. Lúc già tạo nghiệp ác khi sanh vào trong địa ngục, thân địa ngục lúc trẻ lẽ ra chẳng chịu khổ. Nếu lúc già chẳng sát sanh chẳng nên thuở tráng niên được sống còn, nếu thuở tráng niên chẳng sống còn thời thế nào có tuổi già, vì nghiệp không mất, nếu nghiệp không mất thế nào mà có tu hành thánh đạo đến quả Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Có hai thứ nghiệp: Định và bất định. Định nghiệp có hai: Báo định và thời định. Hoặc có báo định mà thời gian bất định, lúc duyên hiệp thời thọ báo, hoặc ba thời gian thọ báo nghĩa là đời hiện tại thọ, đời kế thọ, đời sau thọ.
Này thiện nam tử! Nếu định tâm làm những nghiệp lành, nghiệp ác, làm rồi sanh lòng rất tin vui mừng, nếu phát nguyện cúng dường Tam Bảo, đây gọi là định nghiệp.
Này thiện nam tử! Người trí căn lành sâu chắc khó lay động nên có thể làm cho nghiệp nặng thành nhẹ. Người ngu si điều bất thiện sâu dày nên có thể làm cho nghiệp nhẹ trở thành quả báo nặng. Do nghĩa này nên tất cả nghiệp chẳng gọi là quyết định.
Đại Bồ Tát không có nghiệp địa ngục, vì chúng sanh mà phát nguyện sanh trong địa ngục.
Này thiện nam tử! Thuở xưa lúc chúng sanh tuổi thọ trăm năm, có hằng sa chúng sanh bị quả báo địa ngục, lúc đó ta thấy như vậy liền phát nguyện thọ thân địa ngục. Nên biết rằng lúc đó Bồ Tát thiệt không có nghiệp địa ngục, vì chúng sanh mà thọ thân địa ngục. Ở trong địa ngục cả vô lượng năm, và vì những người tội mà phân biệt giảng nói mười hai bộ kinh. Những người tội được nghe kinh pháp thoát khỏi quả báo ác làm cho địa ngục trống không, trừ hạng nhất-xiển-đề.
Đây gọi là Đại Bồ Tát chẳng phải nơi đời hiện tại, đời kế, đời sau thọ lấy nghiệp ác.
Này thiện nam tử! Trong Hiền kiếp này có vô lượng chúng sanh đọa trong loài súc sanh chịu phải nghiệp báo ác. Ta thấy như vậy, vì muốn thuyết pháp độ chúng sanh, nên phát nguyện làm cheo, nai, gấu, khỉ, rổng, voi, kim-sí-điểu, bồ câu, cá, trạnh, thọ, rắn, bò, ngựa.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát thiệt không có nghiệp súc sanh như vậy, vì nguyện lực muốn độ chúng sanh, nên hiện thọ thân súc sanh. Đây gọi là Đại Bồ tát chẳng phải hiện đời, đời kế, đời sau thọ nghiệp ác như vậy.
Này thiện nam tử! Trong Hiền kiếp này, lại có vô lượng vô biên chúng sanh đọa trong loài ngạ quỷ, hoặc ăn đờm dãi, mỡ, thịt, máu, mủ, phẩn dãi, thọ mạng vô lượng trăm ngàn muôn năm, không bao giờ nghe đến tên nước huống là con mắt ngó thấy mà được uống. Giả sử thấy nước đằng xa trong lòng muốn đến để uống, nhưng khi đến gần thời nước biến thành lửa đỏ và máu mủ. Hoặc có lúc nước chẳng biến khác, nhưng lại có nhiều người tay cầm binh khí ngăn cản không cho đến uống. Hoặc có lúc trời mưa, nước mưa rớt đến thân họ liền thành lửa. Đây gọi là nghiệp báo ác.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát thiệt không những nghiệp quả ác như vậy, vì hóa độ chúng sanh làm cho được giải thoát, nên phát nguyện thọ những thân như vậy. Đây gọi là Đại Bồ Tát chẳng phải hiện đời, đời kế, đời sau thọ lấy nghiệp quả ác như vậy.
Này thiện nam tử! Trong Hiền kiếp này, ta từng sanh vào nhà hàng thịt, nuôi gà, nuôi heo, nuôi bò, dê, đi săn bắn, lưới chim, bắt cá, sanh trong nhà Chiên Đà Là, làm kẻ cướp kẻ trộm. Đại Bồ Tát thiệt không nghiệp ác như vậy, vì muốn độ chúng sanh cho được giải thoát, nên dùng nguyện lực lớn thọ những thân như vậy. Đây gọi là Đại Bồ Tát chẳng phải hiện đời, đời kế, đời sau thọ nghiệp báo ác như vậy.
Này thiện nam tử! Trong Hiền kiếp này, ta lại sanh vào chốn biên địa, làm nhiều việc tham dục, sân khuể, ngu si quen làm những điều phi pháp, chẳng tin Tam Bảo và quả báo đời sau, chẳng cung kính cha mẹ tôn trưởng. Thiệt ra lúc đó Bồ tát không có những ác nghiệp như vậy. Vì muốn làm cho chúng sanh được giải thoát, nên dùng nguyện lực lớn mà thọ sanh. Đây gọi là Đại Bồ Tát chẳng phải hiện đời, đời kế, đời sau thọ ác nghiệp như vậy.
Này thiện nam tử! Trong Hiền kiếp này ta lại thọ lấy thân nữ, thân ác, thân tham, thân sân, thân si, thân tật đố, thân bỏn xẻn, thân ảo thuật, thân dối trá, thân đần độn. Thiệt ra lúc đó Bồ Tát không có những nghiệp như vậy chỉ vì muốn độ chúng sanh cho được giải thoát, nên dùng nguyện lực lớn mà được thọ sanh. Đây gọi là đại Bồ tát chẳng phải hiện đời, đời kế, đời sau thọ lấy nghiệp ác như vậy.
Đại Bồ Tát hiện thọ những thân huỳnh môn, không căn, hai căn, và căn bất định cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Trong Hiền kiếp này, ta lại học tập giáo pháp của ngoại đạo Ni Kiền Tử, tin thọ giáo pháp của họ: không bố thí, không thờ phụng, không bảo bố thí thờ phụng, không nghiệp thiện nghiệp ác, không quả báo thiện ác, không đời hiện tại, không đời vị lai, không đây không kia, không thánh nhân, không thân biến hóa, không đạo Niết Bàn. Thiệt ra Bồ Tát không có những ác nghiệp như vậy, vì muốn độ chúng sanh cho được giải thoát, nên dùng nguyện lực lớn mà thọ học những tà pháp như vậy. Đây gọi là Đại Bồ Tát chẳng phải hiện đời, đời kế, đời sau thọ những ác nghiệp như vậy.
Này thiện nam tử! Ta nhớ thuở xưa cùng Đề Bà Đạt Đa đồng làm chủ đoàn con buôn, mỗi người đều có năm trăm khách buôn, đem nhau đến trong biển lớn để tìm lấy châu báu. Vì nghiệp duyên ác nên dọc đường gặp gió to ghe thuyền hư bể, khách buôn đều chết cả. Lúc đó ta cùng Đề Bà Đạt Đa nhờ nghiệp duyên bất sát được quả báo trường thọ, nên gió thổi tấp vào đất liền. Đề Bà Đạt Đa vì tham tiếc của cải châu báu, nên quá sầu khổ mà khóc lóc. Ta bảo Đề Bà Đạt Đa chẳng nên kêu khóc. Đề Bà Đạt Đa liền nói với ta rằng: Như có người nghèo cùng khốn khổ, đến trong gò mả tay nắm tử thi mà nói rằng trông mong người bố thí sự chết vui cho ta, ta sẽ bố thí đời sống nghèo cùng này cho ngươi. Lúc đó tử thi liền ngồi dậy bảo người nghèo cùng rằng: Đời sống nghèo cùng người tự thọ lấy, nay ta rất thích sự chết vui này thiệt chẳng ham đời sống nghèo cùng của người.
Đề Bà Đạt Đa nói tiếp: Nhưng ngày nay tôi đã không được chết vui mà lại gồm cả sự nghèo cùng, bảo tôi chẳng khóc sao được.
Lúc đó ta lại an ủi rằng: Ông chớ sầu khổ, hiện nam tôi còn được hai viên bảo châu giá trị vô lượng, tôi sẽ chia cho ông. Ta liền chia một viên bảo châu cho Đề Bà Đạt Đa, rồi đến nằm ngủ dưới một cội cây.
Vì quá tham lam nên Đề Bà Đạt Đa sanh ác tâm đâm đui hai mắt của ta để cướp lấy viên bảo châu còn lại rồi bỏ đi.
Lúc đó vì quá đau đớn nên ta rên rỉ. Có một cô gái nghe tiếng rên đến gạn hỏi ta. Ta liền đem tất cả việc trước thuật lại. Cô gái nghe rồi lại hỏi ta: Ông danh hiệu là gì? Ta đáp rằng: Tôi tên Thật Ngữ. Cô gái lại nói: Làm thế nào biết được ông là Thật Ngữ. Ta liền phát thệ rằng: Nếu hiện nay tôi có lòng quấy nói vu cho Đề Bà Đạt Đa, thời cặp mắt của tôi phải mù lòa vĩnh viễn, nếu tôi không hư dối thời xin đôi mắt sáng lại như cũ. Ta phát thệ vừa xong thời đôi mắt ta bình phục như cũ.
Này thiện nam tử! Đây gọi là Đại Bồ Tát nói về quả báo đời hiện tại.
Này thiện nam tử! Ta nhớ thuở xưa ta sanh trong nhà Bà La Môn nơi thành Phú Đơn Na ở Nam Thiên Trúc. Thuở đó có Quốc Vương tên Ca La Phú tánh tình hung dữ tự cao tự mạn, tuổi trẻ say đắm sắc đẹp ngũ dục.
Vì muốn độ chúng sanh, nên ta ở ngoài thành ngồi yên lặng tham thiền. Lúc đó Quốc Vương cùng với cung nhân thể nữ ra ngoài thành dạo chơi, dừng ở dưới rừng cây. Các thể nữ nhân đi chơi giỡn bỏ Quốc Vương mà đến chỗ ta ngồi thiền. Ta liền vì các thể nữ thuyết pháp cho họ bỏ lòng tham dục.
Quốc Vương đi tìm các thể nữ, thấy họ đang ngồi quỳ xung quanh ta. Quốc Vương giận dữ hỏi ta rằng: Nay nhà ngươi đã chứng quả A La Hán chưa? Ta nói chưa chứng. Quốc Vương lại hỏi nhà ngươi đã được quả A Na Hàm chưa? Ta đáp chưa được. Quốc Vương lại nói: "Nay nhà người chưa được hai quả ấy thời là người còn đầy đủ tham dục, tại sao nhà người dám buông lung nhìn ngó các thể nữ của ta?"
Ta liền thưa rằng: "Đại Vương nên biết cho, nay tôi chưa dứt phiền não tham dục, nhưng trong tâm tôi thiệt không có niệm tham đắm."
Quốc Vương nói: "Người ngu si! Trong đời có các tiên nhân khổ hạnh thấy sắc đẹp còn tham, huống là nhà ngươi tuổi còn trai trẻ, chưa dứt tham dục, làm sao thấy sắc đẹp mà chẳng tham đắm?"
- Tâu Đại Vương! Người thấy sắc đẹp chẳng tham đắm, thiệt chẳng phải do khổ hạnh, mà do nhiếp tâm quán vô thường bất tịnh.
Quốc Vương nói: "Nếu khinh khi người khác mà phỉ báng, thời thế nào đặng gọi là tu trì tịnh giới?"
- Tâu Đại Vương! Nếu có tâm đố kỵ thời có phỉ báng, tôi không tâm đố kỵ thời đâu có phỉ báng.
Quốc Vương nói: "Này đại đức! Thế nào gọi là giới?"
- Tâu Đại Vương! Nhẫn nhục gọi là giới.
Quốc Vương nói nếu nhẫn nhục là giới, ta sẽ cắt lỗ tai của nhà ngươi; nếu nhà ngươi nhẫn chịu được thởi biết là nhà ngươi trì giới.
Quốc Vương liền cắt hai tai. Ta dầu bị cắt tai, nhưng nhan sắc chẳng biến đổi. Các quan theo vua thấy việc như vậy liền can gián rằng: "Bậc đại sĩ như vậy, Đại Vương chẳng nên làm hại."
Quốc Vương càng thêm giẫn bảo các quan: "Tại sao các khanh biết là bậc đại sĩ?"
- Tâu Đại Vương! Vì lúc bị cắt hai tai, chúng tôi thấy dung sắc chẳng biến đổi.
Quốc Vương nói: "Ta sẽ thí nghiệm coi dung sắc biến đổi hay chẳng biến đổi." Nói xong, Quốc Vương liền thẻo mũi chặt tay chặt chân của ta.
Vì Bồ Tát đã trải qua vô lượng vô biên đời tu tập từ bi thương xót chúng sanh, nên không khổ cũng không giận.
Lúc đó Tứ Thiên Vương bất bình liền làm mưa cát mưa đá. Quốc Vương sợ hãi quỳ trước ta mà thưa rằng: "Ngưỡng mong xót thương cho tôi sám hối."
Ta nói: "Đại Vương! Trong lòng của tôi không sân hận cũng như không tham đắm."
Quốc Vương nói: "Này đại đức! Làm thế nào biết được rằng tâm đại đức không sân hận?"
Ta liền phát thệ: "Nếu tôi thiệt không sân hận nguyện cho thân của tôi bình phục như cũ." Phát nguyện vừa xong thân thể của ta liền bình phục.
Đây gọi là Đại Bồ Tát nói quả báo đời hiện tại.
Này thiện nam tử! Nghiệp lành có quả báo đời kế, quả báo đời sau, nghiệp chẳng lành cũng như vậy.
Đại Bồ Tát lúc được vô thượng Bồ Đề, tất cả các nghiệp đều được quả báo hiện tại.
Nghiệp ác chẳng lành mắc lấy quả báo hiện tại như Quốc Vương làm ác bị trời mưa cát mưa đá. Cũng như có người chỉ chỗ ở của gấu và nai bảo sắc, tay người chỉ liền rụng rớt. Đây gọi là nghiệp ác thọ lấy quả báo trong hiện tại.
Đời kế thọ quả báo, như nhất-xiển-đề phạm bốn tội trọng và tội ngũ nghịch.
Quả báo đời sau, như người trì giới phát hiện lớn: Nguyện đời vị lai thường được giới thân thanh tịnh như vậy. Như có chúng sanh lúc tuổi trăm năm, tám chục năm, trong thời kỳ sẽ làm chuyển luân thánh vương giáo hóa chúng sanh.
Này thiện nam tử! Nếu là nghiệp quyết định được quả báo trong hiện đời, thời không thể được quả báo đời kế cùng đời sau.
Đại Bồ Tát tu nghiệp nhân ba mươi hai tướng tốt, thời không thể được quả báo trong đời hiện tại. Nếu là nghiệp chẳng thọ lấy ba thứ quả báo như vậy thời gọi là nghiệp bất định.
Này thiện nam tử! Nếu cho rằng những nghiệp nhân quyết định có quả báo, thời chẳng được có sự tu tập phạm hạnh, giải thoát Niết Bàn. Nếu biết rằng người nói lời này chẳng phải là đệ tử của Phật mà chính là quyến thuộc của ma.
Nên nói rằng các nghiệp có định nghiệp và bất định nghiệp. Định nghiệp thời có quả báo hiện tại, quả báo đời kế, quả báo đời sau. Bất định nghiệp thời lúc nhân duyên hội hiệp bèn thọ báo, chẳng hội hiệp thời chẳng thọ báo. Do đây nên có tu phạm hạnh, giải thoát Niết Bàn. Nên biết rằng người nói lời này thiệt là đệ tử Phật.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh gây tạo nghiệp bất định thời nhiều, tạo định nghiệp thời ít. Vì thế nên có tu tập đạo hạnh. Do tu tập đạo hạnh nên định nghiệp trọng có thể làm cho thọ báo nhẹ, những nghiệp bất định chẳng thọ quả báo đời kế.
Này thiện nam tử! Có hạng người: một là hạng người với nghiệp bất định làm thành quả báo quyết định, quả báo hiện đời làm thành quả báo đời kế, quả báo nhẹ làm thành quả báo nặng, đáng lẽ thọ báo trong loài người mà lại thọ báo ở địa ngục. Hai là hạng người với định nghiệp làm thành bất định nghiệp, đáng lẽ thọ báo đời kế làm cho thọ báo đời hiện tại, báo nặng làm thành báo nhẹ, đáng thọ báo địa ngục làm cho thọ báo nhẹ trong loài người. Hai hạng này: một là kẻ ngu, một là người trí. Người trí làm thành nhẹ. Người ngu khiến cho nặng.
Này thiện nam tử! Ví như hai người mắc tội với nhà vua, người có quyến thuộc đông đảo thời tội tất sẽ nhẹ, người quyến thuộc ít tội nhẹ trở thành nặng. Người trí kẻ ngu si cũng như vậy: người trí nhờ nghiệp lành nhiều nên tội trọng mà thọ quả báo nhẹ. Người ngu vì nghiệp lành ít nên tội nhẹ mà thọ quả báo nặng.
Này thiện nam tử! Ví như hai người một thời mập mạnh, một thời gầy yếu. Hai người này đều té xuống bùn sâu. Người mập mạnh lên được, người gầy yếu thời lún mất.
Này thiện nam tử! Ví như hai người đồng uống thuốc độc. Một người có thần chú và thuốc a-dà-đà. Một người không có. Người có thần chú và thuốc thời độc chẳng làm hại được. Người không có bị chất độc hại chết.
Này thiện nam tử! Ví như hai người đồng uống nước trái cây ép: một người nhiệt lực thạnh, một người suy yếu. Người nhiệt lực nhiều thời tiêu hóa được. Người suy yếu thời bị nước ấy làm thành bệnh.
Này thiện nam tử! Ví như hai người bị nhà vua bắt trói: Một người có trí huệ, một người thời ngu si. Người có trí thời có thể được thoát khỏi. Người ngu si thời không có thời kỳ thoát khỏi.
Này thiện nam tử! Ví như hai người đồng đi trên đường hiểm trở. Một thời mắt sáng. Một thời mù lòa. Người mắt sáng đi thẳng qua không hại gì. Người mù bị sụp té xuống hố sâu.
Này thiện nam tử! Ví như hai người đồng uống rượu. Một thời ăn nhiều. Một thời ăn ít. Người ăn nhiều uống rượu không bị hại. Người ăn ít uống rượu thời thành bệnh.
Này thiện nam tử! Ví như hai người đều đối địch với giặc thù. Một người võ trang đầy đủ, một người thời tay không. Người có võ trang ắt phá được kẻ thù. Người tay không tất chẳng khỏi bị hại.
Này thiện nam tử! Ví như hai người bị phẩn nhơ vấy vào y phục. Một người vừa biết liền giặt y phục. Một người biết mà chẳng chịu giặt. Người giặt liền đó thời y phục sạch sẽ. Người chẳng chịu giặt thời nhơ uế càng tăng thêm.
Này thiện nam tử! Lại có hai người đều ngồi xe.Một xe có trục có căm, một xe thời không trục không căm. Người ngồi xe có trục có căm thời tùy ý mà đi. Người ngồi xe không trục không căm thời không đi đâu được.
Lại có hai người đều đi trên đường hoang vắng. Một người có mang lương thực, một người thời đi không. Người có mang lương thời qua khỏi được con đường hiểm. Người đi không ắt chẳng qua được.
Lại có hai người bị kẻ cướp giựt. Một người có kho báu kín, một người thời không. Người có kho báu kín thời không lo rầu. Người không có kho báu thời sầu khổ.
Kẻ ngu người trí cũng như vậy: Người trí có kho báu lành nên nghiệp nặng mà thọ báu nhẹ. Người không có báu lành thời nghiệp nhẹ phải thọ báu nặng.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Như lời Phật nói chẳng phải là tất cả nghiệp đều thành quả nhất định cũng chẳng phải tất cả chúng sanh quyết định thọ báo. Bạch Thế Tôn! Chúng sanh làm thế nào khiến quả báo nhẹ hiện tại phải thọ báo nặng ở địa ngục? Làm thế nào khiến quả báo nặng địa ngục trở thành báo nhẹ trong đời hiện tại?"
Phật nói: "Có hai hạng chúng sanh: Một là trí hai là ngu. Nếu có thể tu tập thân, giới, tâm, huệ, nơi tâm thời gọi là người trí. Nếu chẳng thể tu tập thời gọi là kẻ ngu.
Nếu chẳng thể điều nhiếp năm căn thời gọi là chẳng tu thân. Nếu chẳng thể thọ trì bảy thứ tịnh giới thời gọi là chẳng tu giới. Vì chẳng điều tâm nên gọi là chẳng tu tâm. Chẳng tu tập thánh hạnh thời gọi là chẳng tu huệ.
Lại người chẳng tu thân thời không thể đầy đủ giới thể thanh tịnh. Người chẳng tu giới thời nhận chứa tám thứ vật bất tịnh. Người chẳng tu tâm thời chẳng thể tu tập ba thứ tướng. Người chẳng tu huệ thời chẳng tu tập phạm hạnh.
Lại người chẳng tu thân thời chẳng thể quán thân, quán sắc, và quán sắc tướng, chẳng quán thân tướng, chẳng biết thân số, chẳng biết thân này từ đây đến kia, ở trong chẳng phải thân mà tưởng là thân, ở trong chẳng phải sắc mà tưởng là sắc, do đây nên tham đắm thân và thân số, đây gọi là chẳng tu thân.
Người chẳng tu giới nếu thọ hạ giới thời chẳng gọi là tu giới, thọ trì biên giới, giới gì tự lợi, giới gì tự điều phục, chẳng thể làm cho khắp chúng sanh được an vui, chẳng phải vì hộ trì chánh pháp vô thượng, vì sanh lên cõi trời hưởng thọ ngũ dục, đây chẳng gọi là tu giới.
Người chẳng tu tâm thời tâm tán loạn không thể chuyên nhất duyên nơi tự cảnh. Tự cảnh chính là tứ niệm xứ. Cảnh khác là nói ngũ dục. Nếu không thể tu tập tứ niệm xứ thời gọi là chẳng tu tâm.
Ở trong nghiệp ác nếu chẳng khéo giữ gìn tâm niệm thời gọi là chẳng tu huệ.
Lại người chẳng tu thân thời không thể quan sát thấu đáo thân này là vô thường, là vô trụ, là mỏng manh, là niệm niệm diệt hoại, là cảnh giới của ma.
Người chẳng thể tu giới thời không thể đầy đủ thi-la ba-la-mật. Người chẳng tu tâm thời không thể đầy đủ thiền-na ba-la-mật. Người chẳng tu huệ thời không thể đầy đủ bát-nhã ba-la-mật.
Lại người chẳng tu thân thời tham đắm thân ta và thân sở hữu của ta, cho rằng thân ta thường hằng không có biến đổi. Người chẳng tu giới thời vì tự thân mà tạo mười nghiệp ác. Người chẳng tu tâm thời ở trong nghiệp ác không thể nhiếp tâm. Người chẳng tu huệ do vì không nhiếp tâm nên không phân biệt được những pháp thiện ác.
Lại người chẳng tu thân thời chẳng dứt ngã kiến. Người chẳng tu giới thời không dứt được giới thủ. Người chẳng tu tâm thời tạo nghiệp tham sân mà phải đọa địa ngục. Người chẳng tu huệ thời không dứt được tâm si.
Lại người chẳng tu thân thời không thể quán thân, dầu thân không lỗi lầm nhưng nó luôn là kẻ oán thù. Ví như có người bị kẻ thù theo dõi, nếu người này có trí thời cẩn thận giữ gìn, nếu không thận trọng ắt bị kẻ thù làm hại, thân của tất cả chúng sanh cũng như vậy, thường phải dùng đồ uống món ăn, đồ lạnh đồ ấm để nuôi dưỡng, nếu chẳng khéo giữ gìn nuôi dưỡng thời nó sẽ tan rã.
Như Bà La Môn kính thờ Lửa, họ thường dâng hương hoa tán thán lễ bái, hạn kỳ phải đủ trăm năm, nếu lúc chạm đến liền đốt cháy tay người. Dầu lửa này được cung kính cúng dường như vậy, nhưng trọn không một niệm báo ân cho người phụng sự. Thân của tất cả chúng sanh cũng như vậy, dầu trong nhiều năm dùng hương hoa châu ngọc y phục đồ uống ăn đồ nằm, thuốc men tẩm bổ mà cung cấp đó, nếu gặp những duyên xấu hoặc trong hoặc ngoài thời liền hoại diệt, nó trọn chẳng nhớ tưởng đến ơn cung cấp ngày trước.
Ví như có Quốc Vương nuôi bốn con rắn độc trong một cái rương, giao phó cho một người bảo phải nuôi nấng săn sóc. Trong bốn con rắn này, nếu một con nổi giận thời có thể hại chết người. Người có phận sự săn sóc rắn luôn luôn lo sợ thường tìm món ăn thức uống giữ gìn nuôi nấng. Thân tứ đại của tất cả chúng sanh cũng như vậy, nếu một đại nổi giận thời có thể làm cho thân phải hư hoại.
Như người mang bệnh lâu phải nên hết lòng tìm y sĩ chữa trị, nếu chẳng siêng lo điều trị ắt phải chết. Thân của tất cả chúng sanh cũng như vậy thường phải nhất tâm chẳng nên buông lung, nếu buông lung thời hoại diệt.
Ví như bình đất chưa hầm thời không chịu được gió mưa đập ném dằn đè. Thân của tất cả chúng sanh cũng như vậy, chẳng chịu được đói khát lạnh nóng, gió mưa đánh đập mắng nhiếc.
Như mụt nhọt chưa mùi phải thường giữ gìn chớ cho người chạm đến, nếu để đụng chạm thời đau đớn lắm. Thân của tất cả chúng sanh cũng như vậy.
Ví như con la mang thai nghén thời tự hại lấy thân nó. Thân của tất cả chúng sanh cũng như vậy, nếu trong thân có phong lãnh thời thân phải bị hại.
Ví như cây chuối trổ buồng thời phải khô chết. Thân của tất cả chúng sanh cũng như vậy.
Như cây chuối không có lõi cứng. Thân của tất cả chúng sanh cũng như vậy.
Như rắn, chuột, chó sói, mỗi con thường sanh lòng oán hại lẫn nhau. Tứ đại của chúng sanh cũng như vậy.
Ví như con ngỗng chúa chẳng thích gò mả, Bồ Tát cũng như vậy đối với thân thể cũng chẳng ưa thích.
Như dòng Chiên Đà La bảy đời nối nhau chẳng bỏ nghiệp hèn, do đây nên bị người khinh tiện. Chủng tử của thân này cũng như vậy, tinh huyết hôi tanh hoàn toàn bất tịnh. Vì bất tịnh nên chư Phật và Bồ Tát quở khinh. Thân này chẳng phải như núi Ma La Da mọc cây chiên đàn, cũng chẳng thể sanh hoa ưu-bát-la, hoa phân-đà-lợi, hoa chiêm bà, hoa ma-lợi-ca, hoa bà-sư-ca. Chín lỗ của nó thường chảy ra máu mủ bất tịnh, chỗ nó sanh hôi dơ xấu xa đáng gớm, nó thường cùng các loài trùng đồng ở một chỗ.
Ví như trong đời dầu có vườn rừng thanh tịnh xinh đẹp, nhưng trong nhà chứa tử thi thời là bất tịnh, mọi người đều lìa bỏ chẳng ưa thích. Cõi sắc cũng như vậy, dầu là thanh tịnh tốt đẹp, nhưng vì có thân nên bị chư Phật cùng Bồ Tát lìa bỏ đó.
(Hán bộ quyển thứ 32)
Này thiện nam tử! Nếu người chẳng thể quan sát như vậy thời chẳng gọi là tu thân.
Này thiện nam tử! Nếu chẳng thể quan sát giới luật là thềm thang của tất cả pháp lành, cũng là cội gốc của tất cả pháp lành, như mặt đất là chỗ dựa nương của tất cả cây cối, là đạo thủ của các thiện căn, như thương chủ dẫn dắt đoàn người buôn. Giới là thắng tràng của tất cả pháp lành như thắng tràng của Thiên Đế Thích dựng. Giới có thể dứt hẳn tất cả nghiệp ác và ba ác đạo, có thể trị lành những bệnh dữ như được-thọ. Giới là tư-lương trên con đường hiểm sanh tử. Giới là giáp trượng đánh dẹp những giặc phiền não hung ác. Giới là thần chú hay diệt rắn độc kiết sử. Giới là cây cầu đi qua khỏi nghiệp ác. Nếu chẳng thể quan sát như vậy thời gọi là chẳng tu giới.
Nếu không thể quan sát tâm niệm động chuyển lăn xăn, khó nắm lấy khó điều phục, lung chạy như voi dữ, niệm niệm mau chóng như chớp nhoáng, nhảy nhót chẳng dừng như khỉ vượn, như huyễn, như dương diệm, tâm niệm này là cội gốc của tất cả điều ác, ngũ dục khó vừa lòng như lửa thêm củi, như biển cả nuốt hết các dòng sông, như núi Mạn Đà cỏ cây quá nhiều, chẳng thể thấy biết sanh tử hư vọng mê lầm say đắm đến nỗi thành bệnh, như cá nuốt lưỡi câu. Thường đi trước dẫn theo những tội nghiệp như con bối-mẫu dắt đàn con. Tham đắm ngũ dục chẳng thích Niết Bàn, như lạc đà ăn mật nhẫn đến chết chẳng đoái cỏ non. Quá tham đắm sự vui hiện tại chẳng nhìn đến lỗi lầm ngày sau, như bò tham ăn lúa mạ chẳng sợ roi gậy. Chạy khắp hai mươi lăm cõi, như gió mạnh thổi bông nâu-la. Chỗ chẳng đáng tìm cầu mà cầu đó không nhàm đủ như người vô trí cầu lửa không nóng. Thường thích sanh tử chẳng ưa giải thoát, như trùng nhiệm-bà thích cây nhiệm-bà. Mê lầm tham đắm sanh tử hôi nhơ, như kẻ ngục tù thích gái ngục tốt, cũng như heo trong chuồng ưa chỗ bất tịnh. Nếu có người không thể quan sát như vậy thời gọi là chẳng tu tâm.
Người chẳng tu huệ, chẳng quan sát trí huệ có thế lực lớn, như kim-sí-điểu có thể hoại nghiệp ác, như ánh sáng mặt trời phá tan tối tăm, trí huệ có thể nhổ cây ngũ ấm, như nước đẩy trôi đồ vật, đốt cháy tà kiến như lửa hừng, trí huệ là cội gốc của tất cả pháp lành, là chủng tử của Phật và Bồ Tát. Nếu không thể quan sát như vậy thời gọi là chẳng tu trí huệ.
Này thiện nam tử! Trong đệ nhất nghĩa, nếu thấy thân, thân tướng, thân nhân, thân quả, nhiều thân, thân một, thân hai, thân đây, thân kia, thân diệt, thân bình đẳng, thân tu, người tu, nếu có thấy như vậy thời gọi là chẳng tu thân.
Này thiện nam tử! Nếu thấy giới, giới tướng, giới nhân, giới quả, giới thượng, giới hạ, giới tụ, giới một, giới hai, giới đây, giới kia, giới diệt, giới bình đẳng, giới tu, người tu, giới ba-la-mật, nếu có thấy như vậy thời gọi là chẳng tu giới.
Này thiện nam tử! Nếu thấy tâm, tâm tướng, tâm nhân, tâm quả, tâm tu, tâm vương, tâm sở, tâm một, tâm hai, tâm đây, tâm kia, tâm diệt, tâm bình đẳng, tâm tu, người tu, tâm thượng trung hạ, tâm thiện, tâm ác, nếu có thấy như vậy thời gọi là chẳng tu tâm.
Này thiện nam tử! Nếu thấy huệ, huệ tướng, huệ nhân, huệ quả, huệ tu, huệ một, huệ hai, huệ đây, huệ kia, huệ diệt, huệ bình đẳng, huệ thượng trung hạ, huệ lợi, huệ độn, huệ tu, người tu, nếu có thấy như vậy thời gọi là chẳng tu huệ.
Này thiện nam tử! Nếu chẳng tu thân giới tâm huệ, những người như vậy ở nơi nghiệp ác nhỏ mà mắc phải quả báo lớn. Do vì khủng bố nên thường nghĩ rằng: Tôi thuộc người địa ngục làm hạnh địa ngục. Dầu nghe người trí nói khổ, địa ngục, thường nghĩ rằng như sắt đập sắt, như đá trở lại đập đá, như gỗ tự đập gỗ, như vi trùng lửa thích lửa, thân địa ngục trở lại giống địa ngục, nếu giống địa ngục thời có gì là khổ.
Ví như con lằn xanh bị dính nơi nước miếng chẳng thể bay được, người này cũng vậy ở trong tội nhỏ không thể thoát khỏi, trọn không lòng ăn năn, chẳng thể tu pháp lành, che giấu tội lỗi, dầu có tất cả nghiệp lành thuở quá khứ, nhưng điều bị tội này làm cấu nhơ. Người này có báo nhẹ đáng lẽ hiện đời thọ lấy mà trở lại thành quả báo rất nặng nơi địa ngục.
Như trong chậu nước nhỏ để vào một thăng muối, nước đó mặn chát khó uống được, tội nghiệp của người này cũng như vậy.
Ví như có người mắc nợ một tiền chẳng trả được nên thân bị trói buộc chịu nhiều sự khổ, tội nghiệp của người này cũng như vậy.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Cớ gì người này làm cho quả báo nhẹ hiện đời trở thành quả địa ngục."
Phật nói: "Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh nếu đủ năm việc thời làm cho quả báo nhẹ hiện đời trở thành quả địa ngục: Một là vì ngu si, hai là vì căn lành kém ít, ba là ví ác nghiệp sâu nặng, bốn là vì chẳng sám hối, năm là vì chẳng tu nghiệp lành hiện đương tu tập.
Lại có năm việc: một là vì tu tập nghiệp ác, hai là vì không giới đức, ba là vì xa lìa căn lành, bốn là vì chẳng tu thân giới tâm huệ, năm là vì gần gũi bạn ác.
Này thiện nam tử! Do vì đủ những việc trên đây, nên chúng sanh làm cho quả báo nhẹ hiện đời thành quả địa ngục."
- Bạch Thế Tôn! Những người nào có thể chuyển báo địa ngục thành quả báo nhẹ hiện đời?
- Này thiện nam tử! Nếu có người tu tập thân giới tâm huệ như đã nói ở trên, có thể thấy các pháp đồng với hư không, chẳng thấy trí huệ cũng như chẳng thấy người trí, chẳng thấy ngu si cũng như chẳng thấy kẻ ngu, chẳng thấy tu tập và người tu tập, đây gọi là người trí. Người này có thể tu tập thân giới tâm huệ. Người này có thể làm cho báo địa ngục trở thành quả nhẹ hiện đời: Giả sử người này gây tạo ác nghiệp rất nặng, nhờ tư duy quan sát có thể làm cho nghiệp nặng thành nhẹ. Người này nghĩ rằng: nghiệp của ta dầu nặng nhưng chẳng bằng nghiệp lành. Như bông vải dầu nhiều nặng cả trăm cân, nhưng chẳng thể sánh bằng một lượng vàng ròng. Như đem một thăng muối ném vào trong sông Hằng, nước sông không vị mặn người uống chẳng biết. Như người giàu to dầu thiếu người ngàn muôn vật báu cũng không ai bắt bớ làm khổ được. Như đại hương tượng có thể bức dây xích sắt mà đi tự tại. Người trí huệ cũng như vậy, thường suy nghĩ rằng công đức lành của tôi nhiều, nghiệp ác kém yếu, tôi có thể phát lồ sám hối trừ hết tội ác, tôi có thể tu tập trí huệ làm cho sức trí huệ nhiều, sức vô minh ít.
Nghĩ như vậy rồi, gần gũi bạn lành tu tập chánh kiến, thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh. Sanh lòng cung kính đối với những người trì tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh, và đem những y phục, đồ uống ăn, phòng nhà, giường nệm, thuốc men, hoa hương mà cúng dường, thường tôn trọng tán thán, đi đến đâu cũng đều khen ngợi hạnh lành của người đó, chẳng nói đến việc kém dở của người đó. Thường cúng dường Tam Bảo kính tin pháp đại thừa kinh Đại Niết Bàn, tin đức Như Lai thường hằng không có biến đổi. Tin tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Người này có thể làm cho báo đặng địa ngục trở thành quả nhẹ hiện đời.
Này thiện nam tử! Do những nghĩa trên đây nên chẳng phải tất cả nghiệp đều quyết định có quả, cũng chẳng phải tất cả chúng sanh đều quyết định thọ báo.
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả nghiệp chẳng quyết định có quả, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, lẽ ra phải tu tập tám thánh đạo, cớ gì tất cả chúng sanh đều chẳng được Đại Niết Bàn này?
Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả chúng sanh đều có Phật tánh thời sẽ quyết định được vô thượng Bồ Đề, cần gì phải tu tập tám thánh đạo?
Bạch Thế Tôn! Như trong kinh này nói người có bệnh nếu gặp đặng thuốc hay và người khám bệnh tùy theo bệnh mà cho ăn uống, hoặc chẳng được như vậy, tất cả cũng đều được lành mạnh. Tất cả chúng sanh cũng như vậy, nếu gặp Thanh Văn, Bích Chi Phật, chư Phật, Bồ Tát, những bậc thiện tri thức, nghe chánh pháp, tu tập thánh đạo, hoặc chẳng được gặp được nghe, được tu tập, cũng đều sẽ được thành vô thượng Bồ Đề. Tại sao vậy? Vì do Phật tánh vậy.
Bạch Thế Tôn! Ví như không ai có thể ngăn mặt trời, mặt trăng đi vòng khắp bốn châu thiên hạ, tất cả chúng sanh cũng như vậy, không ai có thể ngăn trở làm cho có thể được đến vô thượng Bồ Đề. Tại sao vậy? Vì do Phật tánh vậy.
Bạch Thế Tôn! Cứ theo nghĩa này thời tất cả chúng sanh chẳng cần tu hành, do năng lực của Phật tánh đều đáng được vô thượng Bồ Đề.
Bạch Thế Tôn! Nếu nhất-xiển-đề phạm bốn tội trọng năm tội nghịch chẳng được vô thượng Bồ Đề lẽ ra cần phải tu tập, vì do Phật tánh quyết định sẽ được, chẳng phải do tu tập rồi sau mới được.
Bạch Thế Tôn! Ví như đá nam châm dầu cách xa sắt, nhưng do sức của nó mà sắt bị hút dính. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, nên chẳng cần siêng năng tu tập thánh đạo.
Phật nói: "Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Như bên sông Hằng có bảy hạng người hoặc vì tắm rửa, hoặc sợ giặc cướp, hoặc vì hái hoa mà vào trong sông:
Người thứ nhất vào nước thời chìm, vì yếu đuối lại chẳng biết lội.
Người thứ hai dầu bị chìm lại nổi lên, nổi rồi lại chìm, vì người này có sức mạnh có thể nổi lên, vì chẳng biết lội nên lại chìm.
Người thứ ba chìm rồi liền nổi lên, nổi lên chẳng chìm nữa, vì người này thân nặng nên chìm, do sức mạnh nên nổi lên, vì biết lội nên không bị chìm nữa.
Người thứ tư vào nước bèn chìm, chìm rồi lại nổi lên, nổi lên rồi bèn chẳng chìm nữa mà ngó khắp bốn phương, vì người này thân nặng nên chìm, sức mạnh lại nổi lên, biết lội nên không chìm nữa, chẳng biết lên phía nào bèn ngó khắp bốn phương.
Người thứ năm vào nước liền chìm, lại nổi lên rồi không chìm nữa, nhìn ngó phương hướng mà lội đi, vì có lòng sợ sệt.
Người thứ sáu vào nước liền lội đi, đến chỗ cạn thời đứng lại, vì để xem giặc cướp gần hay xa.
Người thứ bảy đã qua đến bờ kia leo lên núi lớn không còn sợ sệt, thoát khỏi giặc cướp lòng rất vui sướng.
Này thiện nam tử! Sông lớn sanh tử cũng như vậy, có bảy hạng người vì sợ giặc phiền não mà muốn lội qua sông sanh tử, nên xuất gia, cạo tóc thân mặc pháp phục. Đã xuất gia rồi gần gũi bạn ác nghe theo lời của họ mà lãnh thọ tà pháp. Họ bảo rằng thân chúng sanh tức là năm ấm, năm ấm gọi là năm đại, chúng sanh nếu chết thời năm đại dứt hẳn, đã dứt hẳn cần gì tu tập những hạnh nghiệp lành dữ, do đây nên biết rằng không có lành dữ cũng như không có quả báo lành dữ. Hạng người này gọi là nhất-xiển-đề, gọi là dứt căn lành, vì căn lành đã dứt nên chìm trong sông sanh tử không thể ra được, vì nghiệp ác của họ quá nặng, vì họ không có đức tin, như người thứ nhất bên bờ sông Hằng.
Này thiện nam tử! Nhất-xiển-đề có sáu nhân duyên phải chìm trong ba đường ác không thể thoát được: một là vì tâm ác quá thạnh, hai là vì chẳng thấy đời sau, ba là vì ưa huân tập phiền não, bốn là vì xa lìa căn lành, năm là vì nghiệp ác ngăn cách, sáu là vì gần gũi bạn ác. Lại có năm điều khiến họ chìm trong ba đường ác: một là làm việc phi pháp đối với các Tỳ Kheo, hai là làm việc phi pháp đối với các Tỳ Kheo Ni, ba là tự do dùng của vật của chúng Tăng, bốn là làm việc phi pháp với mẹ, năm là sanh sự thị phi đối với năm bộ Tăng. Lại có năm điều làm cho họ chìm trong ba đường ác: một là nói không quả báo thiện ác, hai là giết chúng sanh phát bồ đề tâm, ba là ưa nói lỗi lầm của pháp sư, bốn là chánh pháp nói là phi pháp, còn phi pháp nói là chánh pháp, năm là vì tìm lỗi của chánh pháp mà đến nghe học. Lại có ba điều làm cho họ chìm trong ba đường ác: một là nói đức Như Lai vô thường nhập diệt vĩnh viễn, hai là nói chánh pháp vô thường dời đổi, ba là nói chúng Tăng thiệt có thể hoại diệt.
Người thứ hai muốn qua khỏi sông lớn sanh tử, vì dứt mất căn lành nên chìm không thoát được. Nói rằng thoát khỏi tức là gần gũi bạn lành thời được tín tâm, chính là tin bố thí và quả bố thí, tin nghiệp lành và quả lành, tin nghiệp ác và quả ác, tin sanh tử là khổ, là vô thường hư hoại. Do được tín tâm nên tu tập tịnh giới, trì tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh, thường thích bố thí, khéo tu trí huệ. Vì độn căn nên lại gặp bạn ác, do đây nên không thể tu tập thân giới tâm huệ, trở lại thọ lấy tà pháp, hoặc gặp thời kỳ ác ở nơi cõi nước ác, nên dứt mất những căn lành mà phải chìm luôn trong sanh tử, như người thứ hai bên sông Hằng.
Người thứ ba muốn qua khỏi sông sanh tử, vì dứt mất căn lành nên chìm đắm ở trong sông. Người này gần gũi bạn lành nên được nổi lâu, tin đức Như Lai là bậc Nhất thiết trí thường hằng không biến đổi, vì chúng sanh mà nói đạo vô thượng, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Như Lai chẳng phải diệt độ, Pháp và Tăng cũng không hoại diệt. Nhất-xiển-đề nếu chẳng dứt ác pháp của họ thời trọn không thể được vô thượng Bồ Đề. Phải biết rằng cần phải xa lìa rồi sau mới đặng. Do tín tâm nên tu tịnh giới, tu tịnh giới rồi thọ trì đọc biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh, vì chúng sanh mà rộng tuyên dương lưu bố, ưa bố thí, tu tập trí huệ, do căn trí lanh lợi nên trụ vững nơi tín huệ không thối chuyển, như người thứ ba bên sông Hằng.
Người thứ tư muốn qua khỏi sông sanh tử, vì dứt căn lành nên chìm trong sông, vì gần gũi bạn lành nên được tín tâm đây gọi là nổi lên. Vì được tín tâm nên được thọ trì, đọc tụng biên chéo giải thuyết mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà rộng tuyên dương lưu bố, ưa bố thí, tu tập trí huệ, do lợi căn nên đứng vững nơi tín huệ tâm không thối chuyển, quan sát khắp bốn phương, quan sát bốn phương đây là nói bốn quả Sa Môn, như người thứ tư bên sông Hằng.
Người thứ năm muốn lội qua sông sanh tử, vì dứt mất căn lành nên phải chìm trong sông, nhờ gần gũi bạn lành nên được tín tâm đây gọi là nổi lên, do tín tâm nên thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà rộng tuyên dương lưu bố, ưa bố thí, tu tập trí huệ vì lợi căn nên đứng vững nơi tín huệ không thối chuyển, không thối chuyển rồi  bèn thẳng đến trước, thẳng đến trước, đây là nói quả Bích Chi Phật dầu có thể tự độ nhưng chẳng độ đến chúng sanh, đây gọi là đi, như người thứ năm bên sông Hằng.
Người thứ sáu muốn qua khỏi sông sanh tử, vì mất thiện căn nên chìm trong sông, nhờ gần gũi bạn lành mà được tín tâm, đây gọi là nổi lên, do tín tâm nên thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà rộng tuyên dương lưu bố ưa bố thí, tu tập trí huệ, do lợi căn nên đứng vững nơi tín huệ không thối chuyển, rồi bèn thẳng đến trước gặp chỗ cạn đứng lại chẳng đi nữa. Đứng lại chẳng đi là nói Bồ Tát vì muốn độ chúng sanh nên trụ lại quan sát phiền não, như người thứ sáu bên sông Hằng.
Người thứ bảy muốn thoát khỏi sông sanh tử, vì mất căn lành nên chìm trong sông, nhờ gần gũi bạn lành mà được tín tâm đây gọi là nổi lên, do tín tâm nên thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết mười hai bộ kinh, rồi vì chúng sanh mà rộng tuyên dương lưu bố, ưa bố thí, tu tập trí huệ, do lợi căn nên đứng vững nơi tín huệ không thối chuyển, liền thẳng đến bờ kia, leo lên núi cao, lìa khỏi những sự khủng bố, hưởng nhiều sự an vui.
Này thiện nam tử! Núi cao bên bờ kia dụ cho đức Như Lai, hưởng sự an vui dụ cho Phật thường trụ, núi cao lớn dụ cho Đại Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Những người ở bên bờ sông Hằng kia đếu có đủ tay chân mà không thể qua được. Tất cả chúng sanh cũng như vậy, thiệt có Phật Pháp Tăng Tam Bảo, đức Như Lai thường nói pháp yếu, có tám thánh đạo, có Đại Niết Bàn, mà chúng sanh đều chẳng thể được, đây chẳng phải lỗi của Như Lai, cũng chẳng phải lỗi của thánh đạo và chúng sanh, nên biết rằng đều là lỗi ác của phiền não, do đây nên tất cả chúng sanh chẳng được Đại Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Như lương y biết rõ bệnh nói phương thuốc, người bệnh chẳng chịu uống, đây chẳng phải là lỗi của lương y.
Này thiện nam tử! Như có thí chủ đem tiền của bố thí cho mọi người, có người chẳng chịu nhận lấy, đây chẳng phải là lỗi của thí chủ.
Này thiện nam tử! Như mặt trời mọc lên những chỗ tối tăm đều tỏ sáng, mà người mù lòa kia chẳng thấy đường sá, đây chẳng phải là lỗi của mặt trời.
Này thiện nam tử! Như nước sông Hằng có thể giải trừ sự khát nước, có kẻ khát nước chẳng chịu uống, đây chẳng phải là lỗi của nước.
Này thiện nam tử! Như mặt đất bình đẳng nuôi sống tất cả cây cỏ, có nông phu kia chẳng chịu gieo trồng, đây chẳng phải là lỗi của mặt đất.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai khắp vì tất cả chúng sanh mà rộng mở bày phân biệt mười hai bộ kinh, chúng sanh chẳng chịu tin thọ, đây chẳng phải là lỗi của Như Lai.
Này thiện nam tử! Vừa rồi ông nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh đáng được vô thượng Bồ Đề, như đá nam châm hút sắt.
Lành thay! Lành thay! Do có năng lực nhân duyên của Phật tánh nên chúng sanh được vô thượng Bồ Đề.
Nhưng nếu nói rằng chẳng cần tu tập thánh đạo thời không đúng.
Này thiện nam tử! Như có người đi trong đồng hoang vắng khát nước gặp giếng, giếng này sâu thẳm tối đen, người này dầu chẳng thấy nước nhưng biết rằng chắc có nước, người này tìm dây gầu múc lên thời thấy nước. Phật tánh cũng vậy, tất cả chúng sanh mặc dầu đều có, nhưng cần phải tu tập vô lậu thánh đạo rồi sau mới đặng thấy.
Này thiện nam tử! Như người có hột mè thời tất được thấy dầu, nhưng rời bỏ phương tiện thời chẳng thấy được. Nơi mía thấy đường cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Như cung trời Đao Lợi và Bắc Cu Lô Châu dầu là có, nhưng nếu không nghiệp lành, hoặc thần thông, hoặc đạo lực, thời chẳng thấy được.
Như rễ cỏ trong đất, như mạch nước dưới đất, vì đất che nên chúng sanh chẳng thấy. Phật tánh cũng vậy, vì chẳng tu tập thánh đạo nên chẳng thấy được.
Này thiện nam tử! Như vừa rồi ông nói trong đời có người bệnh nếu gặp được lương y, thuốc hay, người khám bệnh giỏi, ăn uống phải cách, hoặc chẳng gặp, đều được lành mạnh.
Này thiện nam tử! Đó là ta vì bậc lục trụ Bồ Tát mà nói nghĩa ấy.
Này thiện nam tử! Như hư không đối với chúng sanh, nó chẳng phải trong, chẳng phải ngoài vì không phải trong ngoài nên cũng không trở ngại. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Như có người để tài sản ở xứ khác, dầu của cải không hiện có, nhưng người này vẫn được tùy ý thọ dụng. Có người hỏi đến tiền của, người này đáp rằng tôi hứa cho. Tại sao vậy? Vì người này quyết định có của. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, chẳng phải đây chẳng kia, vì quyết định được nên ta nói tất cả chúng sanh đều có.
Này thiện nam tử! Như chúng sanh gây tạo các nghiệp, hoặc nghiệp lành, hoặc nghiệp ác, chẳng phải trong chẳng phải ngoài, nghiệp tánh này chẳng phải có chẳng phải không, lại cũng chẳng phải là trước không mà nay có, cũng chẳng phải không nhân mà có ra, chẳng phải đây làm rồi đây thọ, chẳng phải đây làm mà kia thọ, chẳng phải kia làm mà kia thọ, nghiệp tánh này không tác giả không thọ giả, lúc thời tiết hòa hiệp thời có quả báo. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, chẳng phải là trước không mà nay có, chẳng phải trong chẳng phải ngoài, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải đây chẳng phải kia, chẳng phải chỗ khác đến, chẳng phải không nhân duyên, cũng chẳng phải là tất cả chúng sanh chẳng thấy, có những Bồ Tát lúc thời tiết nhân duyên hòa hiệp mà được thấy thời tiết, đây là nói bậc thập trụ Bồ Tát tu tám thánh đạo được tâm bình đẳng đối với chúng sanh, lúc bấy giời được thấy Phật tánh, chẳng gọi là tạo tác.
Này thiện nam tử! Ông nói rằng như đá nam châm hút sắt, cứ nơi nghĩa thời chẳng đúng. Tại sao vậy? Vì đá ấy chẳng hút sắt, bởi đá ấy không tâm nghiệp. Này thiện nam tử! Do pháp kia có nên pháp này diệt hoại, không có tác giả cũng không có hoại giả.
Này thiện nam tử! Như ngọn lửa mạnh chẳng thể đốt cháy củi, lửa ra củi hư gọi đó là cháy củi.
Như bông quỳ xoay theo mặt trời, dầu vậy như bông quỳ này không có tâm cung kính, không thức cũng không nghiệp, vì tánh chất riêng của nó mà tự xoay chuyển.
Như cây chuối nhân tiếng sấm mà được tăng trưởng, cây này không lỗ tai, không có tâm ý thức, do vì có pháp kia nên pháp này tăng trưởng, vì không pháp kia nên pháp này hư hoại.
Như cây a-thúc-ca, người nữ rờ đụng đến thời cây này trổ bông, cây này không tâm ý, cũng không giác xúc, do vì có pháp kia nên pháp này sanh ra, vì không pháp kia nên pháp này hư hoại.
Như cây quýt được tử thi thời trái thên nhiều, cây quýt này không tâm ý cũng không giác xúc, vì có pháp kia nên pháp này thêm nhiều, vì không pháp kia nên pháp này hư hoại.
Như cây an-thạch-lựu phân gạch xương thời trái thêm nhiều, cây an-thạch-lựu này cũng không tâm ý không giác xúc, vì có pháp khác nên pháp này thêm nhiều, vì pháp khác không nên pháp này hư hoại.
Như đá nam châm hút sắt cũng như vậy, do pháp này có nên pháp kia sanh, vì pháp này không nên pháp kia hư hoại.
Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, chẳng thể đến được vô thượng Bồ Đề.
Này thiện nam tử! Vô minh chẳng thể hút lấy hành nghiệp, hành cũng chẳng thể hút lấy thức, dầu vậy nhưng cũng gọi là vô minh duyên hành, hành duyên thức.
Hoặc có Phật hay không Phật, pháp giới vẫn thường trụ. Nếu nói rằng Phật tánh ở trong chúng sanh, nên biết rằng pháp thường hằng thời vô trụ, nếu có chỗ ở thời là vô thường. Như mười hai nhân duyên không chỗ ở nhất định, nếu có chỗ ở thời mười hai nhân duyên chẳng được gọi là thường. Pháp thân của Như Lai cũng không chỗ ở. Pháp giới, pháp nhập, pháp ấm, hư không đều không chỗ ở. Phật tánh cũng không chỗ ở như vậy.
Này thiện nam tử! Như tứ đại dầu thế lực đồng nhau, như có cứng, có nóng, có ướt, có động, có nặng, có nhẹ, có đỏ, có trắng, có vàng, có đen, mà tứ đại này cũng không có nghiệp, vì pháp giới khác nên đều chẳng giống nhau, Phật tánh cũng như vậy vì pháp giới khác đến thời kỳ thời hiện.
Này thiện nam tử! Vì tất cả chúng sanh chẳng thối mất Phật tánh nên gọi là có, vì bất thối chuyển, vì sẽ có, vì quyết định được, vì quyết định sẽ thấy, nên gọi là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Ví như có Quốc Vương bảo một đại thần dắt một con voi đem chỉ cho người mù. Đại thần được lệnh Quốc Vương liền họp bọn người mù đến bên con voi. Lúc đó bọn người mù lấy tay rờ voi. Đại thần trở về tâu với Quốc Vương đã đem voi chỉ cho bọn người mù rồi. Quốc Vương liền kêu bọn người mù đến hỏi riêng từng người. Con voi hình dạng như thế nào. Trong một bọn mù kia, kẻ rờ ngà bèn nói voi hình như củ cải; kẻ rờ tai nói rằng voi giống như cái ki; kẻ rờ đầu nói rằng voi giống như khối đá; kẻ rờ vòi nói rằng voi giống như cái chày; kẻ rờ chân nói rằng voi giống như cối gỗ; kẻ rờ lưng nói rằng voi như cái giường; kẻ rờ bụng nói rằng voi như cái lu; kẻ rờ đuôi nói voi như sợi dây.
Này thiện nam tử! Bọn mù kia chẳng nói trúng thân hình của voi, nhưng cũng chẳng phải là chẳng nói, các hình tướng đó đều chẳng phải hình voi, nhưng rời ngoài những hình này lại không có voi.
Này thiện nam tử! Quốc Vương là dụ cho Như Lai đấng chánh biến tri vậy. Đại thần dụ cho kinh đại thừa đại Niết Bàn. Voi dụ cho Phật tánh. Bọn mù dụ cho tất cả chúng sanh vô minh.
Những chúng sanh này cho rằng Phật đã nói xong, hoặc có kẻ nói sắc là Phật tánh, vì sắc này dầu diệt, nhưng tuần tự nối luôn do đây được ba mươi hai tướng tốt vô thượng của Như Lai, sắc tướng Như Lai là thường, vì sắc tướng Như Lai thường hằng chẳng dứt, do đây nên nói sắc là Phật tánh, như vàng thật, chất vàng dầu thay đổi nhưng màu sắc vẫn thường chẳng đổi khác, hoặc làm vòng, làm roi, làm mâm, màu vàng vẫn không đổi khác. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, tánh chất dầu vô thường mà sắc là thường, do đây nên nói sắc là Phật tánh.
Hoặc có kẻ nói thọ là Phật tánh, vì do thọ mà được chân lạc của Như Lai, thọ của Như Lai là thọ rốt ráo, là thọ đệ nhất nghĩa. Tánh thọ của chúng sanh dầu là vô thường nhưng nó tuần tự nối nhau chẳng dứt, nên được lạc thọ chân thường của Như Lai. Như người họ Kiều Thi Ca thân người dầu vô thường mà họ vẫn thường, trải qua ngàn muôn đời không đổi khác. Phật tánh chúng sanh cũng như vậy. Do đây nên nói thọ ấm là Phật tánh.
Lại có kẻ nói tưởng ấm là Phật tánh, vì do tưởng mà được chân thật tưởng của Như Lai. Tưởng của Như Lai gọi là tưởng mà không tưởng chẳng phải tưởng của chúng sanh, chẳng phải tưởng của nam của nữ, chẳng phải tưởng trong sắc thọ tưởng hành thức, chẳng phải tâm tưởng dứt tưởng như tưởng của chúng sanh. Dầu tưởng này vô thường như do tuần tự nối nhau chẳng dứt, nên được tưởng thường hằng của Như Lai. Như mười hai nhân duyên của chúng sanh, dầu chúng sanh diệt mất mà nhân duyên vẫn thường. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy, do đây nên nói tưởng là Phật tánh. 
Lại có kẻ nói hành ấm là Phật tánh, vì hành gọi là thọ mạng. Thọ mạng làm nhân duyên nên được thọ mạng thường trụ của Như Lai. Thọ mạng của chúng sanh dầu là vô thường, nhưng vì tuần tự nối nhau chẳng dứt, nên được thọ mạng chân thường của Như Lai. Như người bộ kinh, người nói người nghe dầu là vô thường, nhưng kinh điển này thường còn chẳng biến đổi. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy. Do đây nên nói hành là Phật tánh.
Lại có kẻ nói thức ấm là Phật tánh. Do thức làm nhân duyên mà được tâm bình đẳng của Như Lai. Ý thức của chúng sanh dầu là vô thường, nhưng thức tuần tự nối nhau chẳng dứt, nên được tâm chân thường của Như Lai. Như lửa tánh nóng, dầu ngọn lửa vô thường, nhưng tánh nóng chẳng phải vô thường. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy. Do đây nên nói thức là Phật tánh.
Lại có kẻ nói rời năm ấm có ngã, ngã này là Phật tánh, vì ngã làm nhân duyên mà được ngã tự tại của Như Lai. Có các nhà ngoại đạo nói rằng: đứng đi thấy nghe buồn vui nói năng chính đó là ngã, ngã tướng ấy dầu vô thường nhưng ngã của Như Lai chân thiệt thường trụ. Như ấm nhập giới dầu là vô thường nhưng vẫn gọi là thường. Phật tánh của chúng sanh cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Như bọn mù kia mỗi người tự nói hình tướng của voi, dầu chẳng được đúng, nhưng chẳng phải là chẳng nói tướng của voi.
Những người nói Phật tánh cũng như vậy, Phật tánh chẳng phải tức sáu pháp, nhưng cũng chẳng ly sáu pháp. Vì thế nên ta nói Phật tánh của chúng sanh chẳng phải sắc chẳng phải ly sắc, nhẫn đến chẳng phải ngã, chẳng phải ly ngã.
Có các nhà ngoại đạo dầu nói có ngã, nhưng thiệt ra không có ngã. Ngã của chúng sanh chính là ngũ ấm, rời ngoài ngũ ấm không có ngã riêng biệt.
Ví như cọng, cánh, tua, gương hiệp lại làm hoa sen, lìa ngoài những thứ này thời không có hoa sen riêng biệt. Ngã của chúng sanh cũng như vậy.
Như tường, vách, gỗ, tranh hòa hiệp gọi đó là nhà, lìa ngoài những thứ này thời không có nhà riêng biệt.
Như cây khư-đà-la, cây ba-la-xa, cây ni-câu-đà, cây uất-đàm-bát hiệp lại thành rừng, rời ngoài những thứ này thời không có rừng riêng biệt.
Như chiến xa, voi, ngựa, bộ binh hiệp lại thành quân đội, rời ngoài những thứ này thời không có quân đội riêng biệt.
Như những chỉ năm màu hiệp lại dệt thành vải ngũ sắc, rời ngoài những chỉ này thời không có vải ngũ sắc riêng biệt.
Như bốn họ hiệp lại gọi là đại chúng, rời ngoài những người này thời không có đại chúng riêng biệt.
Ngã của chúng sanh cũng như vậy, rời ngoài năm ấm thời không có ngã riêng biệt.
Này thiện nam tử! Như Lai thường trụ thời gọi là ngã. Pháp thân của Như Lai là vô biên vô ngại, là chẳng sanh chẳng diệt, được đủ tám tự tại nên gọi là ngã.
Thiệt ra chúng sanh không có ngã như vậy, chỉ vì quyết định sẽ được rốt ráo đệ nhất nghĩa không, nên gọi là Phật tánh.
Này thiện nam tử! Đại từ đại bi gọi là Phật tánh, vì đại từ đại bi thường theo dõi Bồ Tát như bóng theo hình. Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được đại từ đại bi, do đây nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đại từ đại bi gọi là Phật tánh, Phật tánh gọi là Như Lai.
Đại hỷ đại xả gọi là Phật tánh, vì đại Bồ Tát nếu chẳng xả được hai mươi lăm cõi, thời không thể được vô thượng Bồ Đề. Bởi chúng sanh quyết định sẽ được, do đây nên nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đại hỷ đại xả chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai.
Phật tánh gọi là đại tín tâm. Vì do tín tâm mà đại Bồ Tát được đầy đủ đàn ba-la-mật nhẫn đến bát-nhã ba-la-mật. Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được đại tín tâm, do đây nên nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đại tín tâm chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai.
Phật tánh gọi là nhất-tử-địa. Vì do nhất-tử-dịa nên Bồ Tát được tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sanh. Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được nhất-tử-địa, do đây nên nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Nhât-tử-địa chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai.
Phật tánh gọi là trí lực thứ tư. Vì do trí lực thứ tư, nên Bồ Tát có thể giáo hóa chúng sanh. Tất cả chúng sanh quyết định sẽ được trí lực thứ tư, do đây nên nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Trí lực thứ tư chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai.
Phật tánh gọi là mười hai nhân duyên. Vì do nhân duyên nên đức Như Lai được thường trụ. Tất cả chúng sanh quyết định có mười hai nhân duyên như vậy, do đây nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Mười hai nhân duyên chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai.
Phật tánh gọi là bốn trí vô ngại. Do bốn trí vô ngại nên giảng thuyết chữ nghĩa vô ngại. Do chữ nghĩa vô ngại nên có thể giáo hóa chúng sanh. Bốn trí vô ngại chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Như Lai.
Phật tánh gọi là đảnh tam muội. Vì do tu đảnh tam muội này nên có thể tổng nhiếp tất cả Phật pháp, do đây nên nói đảnh tam muội gọi là Phật tánh. Thập trụ Bồ Tát tu tam muội này chưa được đầy đủ, nên dầu thấy Phật tánh mà chẳng rõ ràng. Vì tất cả chúng sanh quyết định được, nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Này thiện nam tử! Như các thứ pháp đã nói ở trên, vì tất cả chúng sanh quyết định sẽ được, nên nói rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Này thiện nam tử! Nếu ta nói sắc là Phật tánh, chúng sanh nghe lời này tất sanh tà kiến điên đảo, do tà kiến điên đảo tất sẽ phải đọa A Tỳ địa ngục. Đức Như Lai thuyết pháp để dứt địa ngục nên chẳng nói sắc là Phật tánh, nhẫn đến chẳng nói thức là Phật tánh cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Nếu chúng sanh thấy rõ Phật tánh thời chẳng cần tu tập thánh đạo. Thập trụ Bồ Tát tu tám thánh đạo còn thấy Phật tánh một phần ít, huống là người chẳng tu mà được thấy ư!
Này thiện nam tử! Các vị Đại Bồ Tát như Văn Thù Sư Lợi tu tập thánh đạo đã trải qua vô lượng đời nên thấy rõ Phật tánh. Hàng Thanh Văn Duyên Giác làm thế nào biết Phật tánh được!
Nếu chúng sanh muốn biết rõ Phật tánh, thời phải nhất tâm thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết cúng dường cung kính tôn trọng tán thán kinh Đại Niết Bàn này. Thấy người nào trì tụng nhẫn đến tán thán kinh Đại Niết Bàn này thời phải đem bốn thứ cúng dường thật tốt mà cung cấp cho người ấy, cùng tán thán lễ bái hỏi thăm.
Này thiện nam tử! Nếu người nào đã trải qua vô lượng vô biên đời gần gũi cúng dường vô lượng chư Phật trồng sâu các căn lành, rồi sau mới đặng nghe tên của kinh này.
Này thiện nam tử! Phật tánh chẳng thể nghĩ bàn. Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo cũng chẳng thể nghĩ bàn.
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng chẳng biết được, dầu vậy mà cũng chẳng thể nghĩ bàn.
Như Lai thường lạc ngã tịnh cũng chẳng thể nghĩ bàn.
Tất cả chúng sanh nếu ai tin được kinh Đại Niết Bàn này, kẻ ấy cũng chẳng thể nghĩ bàn."
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Thế Tôn! Như lời đức Phật nói tất cả chúng sanh có thể tin kinh Đại Niết Bàn chẳng thể nghĩ bàn như đây. Bạch Thế Tôn! Trong đại chúng này có tám muôn năm ngàn ức người không có lòng tin đối với kinh này, do đây nên người nào tin kinh này thời gọi người đó là chẳng thể nghĩ bàn."
- Này thiện nam tử! Số người trên đây đến đời vị lai cũng sẽ quyết định tin được kinh điển này, được thấy Phật tánh và được vô thượng Bồ Đề.
- Bạch Thế Tôn! Thế nào bất thối Bồ Tát tự biết quyết định có tâm bất thối.
- Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát sẽ dùng khổ hạnh để thí nghiệm lấy tâm của mình: Mỗi ngày ăn một hột mè trọn bảy ngày; gạo trắng, đậu xanh, đậu trắng v.v… mỗi thứ bảy ngày, mỗi ngày một hột cũng như vậy.
Lúc ăn một hột mè, Bồ Tát nghĩ rằng: Khổ hạnh như vậy đều không lợi ích, việc không lợi ích làm được huống là việc lợi ích mà lại không làm.
Đối với việc không lợi ích, trong lòng có thể nhẫn được sự khổ chẳng thối chẳng chuyển, do đây nên quyết đặng vô thượng Bồ Đề.
Trong những ngày tu khổ hạnh như vậy, da thịt ốm khô lần lần, như cắt trái bầu tươi phơi nắng. Mắt của Bồ Tát thụt sâu vào như đáy giếng. Hết thịt lòi gân như nhà tranh hư mục, xương sống lộ lên như dây thừng. Chỗ Bồ Tát ngồi như dấu chân ngựa. Muốn ngồi thời mọp xuống, muốn đứng thời ngả nghiêng. Dầu chịu lấy sự khổ không lợi ích như vậy, nhưng chẳng thối chuyển tâm Bồ Đề.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát vì phá các sự khổ, ban sự an vui cho chúng sanh, nên có thể xả thí của, vật ngoài thân trong thân đến thân mạng của mình như bỏ cỏ khô.
Nếu có thể chẳng tiếc thân mạng như vậy, Bồ tát này tự biết quyết định có tâm bất thối tự biết tôi quyết định sẽ được vô thượng Bồ Đề.
Đại Bồ Tát vì pháp mà khoét thân làm đèn, lấy tô-du đổ vào đặt tim để đốt.
Lúc Bồ Tát thọ sự khổ lớn như vậy tự trách tâm mình rằng: Sự khổ này đối với sự khổ ở địa ngục trăm ngàn muôn phần chưa bằng một phần. Ở trong vô lượng trăm ngàn kiếp, ta chịu nhiều sự khổ não đều không đem lại mảy may lợi ích, nếu ta không chịu được sự khổ nhẹ này, thời làm sao có thể ở nơi trong địa ngục để có thể cứu khổ chúng sanh.
Lúc Bồ Tát suy nghĩ như vậy thời thân chẳng biết khổ, tâm chẳng thối chuyển, do đây Bồ Tát tự biết chắc rằng tôi quyết định sẽ được vô thượng Bồ Đề.
Này thiện nam tử! Lúc đó Bồ Tát còn đầy đủ phiền não, vì chánh pháp mà có thể đem đầu mắt óc tủy tay chân máu thịt bố thí cho người, lấy đinh đóng trên thân, nhảy từ gộp đá cao xuống, nhảy vào lửa. Dầu chịu lấy vô lượng sự khổ như vậy, nhưng nếu trong lòng chẳng có niệm thối chuyển, Bồ Tát này nên biết rằng nay tôi quyết định có tâm bất thối, sẽ được vô thượng Bồ Đề.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát vì phá trừ khổ não cho tất cả chúng sanh, nên nguyện làm thân súc sanh to lớn, đem máu thịt bố thí cho chúng sanh.
Lúc chúng sanh đến lấy máu ăn, Bồ Tát lại sanh lòng thương xót, lúc đó Bồ Tát nín hơi chẳng thở làm như chết, để cho những kẻ đến lấy thịt chẳng có quan niệm giết hại.
Dầu Bồ tát thọ thân súc sanh nhưng trọn chẳng tạo nghiệp súc sanh. Vì Bồ Tát đã được tâm bất thối chuyển, thời trọn chẳng gây tạo ác nghiệp. Nếu đời vị lai Bồ Tát có nghiệp quả ác nhỏ nhặt bất định, do sức nguyện lớn vì độ chúng sanh nên đều thọ lấy đó. Như người bệnh bị quỷ dựa ở ẩn trong thân, do oai lực của chú thuật nên liền tướng quỷ: hoặc nói hoặc cười, hoặc mừng hoặc giận, hoặc mắng hoặc khóc, Đại Bồ Tát thọ lấy nghiệp quả đời vị lai cũng như vậy.
Lúc Bồ Tát thọ lấy thân gấu, thường vì chúng sanh mà diễn nói chánh pháp. Hoặc lúc thọ thân chim Ca Tân Xà La, lúc thọ thân Cù Đà, thân nai, thân thỏ, thân voi, thân dê núi, thân khỉ vượng, thân bồ câu trắng, thân kim-sí-điểu, thân rồng, thân rắn, lúc thọ những thân súc sanh như vậy, nhưng trọn chẳng gây tạo nghiệp ác súc sanh, mà thường vì những súc sanh khác diễn thuyết chánh pháp, làm cho những súc sanh kia nhờ nghe pháp mà được mau khỏi thân súc sanh.
Lúc Bồ tát thọ thân súc sanh mà chẳng gây tạo nghiệp ác nên biết rằng quyết định có tâm bất thối.
Đại Bồ Tát ở đời đói khát, thấy chúng sanh đói khát, nên nguyện làm thân cá lớn dài nhiều do diên, lại nguyện những chúng sanh nào lấy thịt của tôi, lấy rồi liền sanh trở lại, ai ăn thịt của tôi thời được khỏi đói khát, tất cả đều phát tâm vô thượng Bồ Đề, do nơi tôi mà kẻ nào được khỏi đói khát, thời đời vị lai họ sẽ mau được xa lìa khổ hoạn đói khát trong hai mươi lăm cõi.
Lúc Đại Bồ Tát chịu sự khổ như vậy mà tâm chẳng thối chuyển, thời nên biết quyết định sẽ được vô thượng Bồ Đề.
Nhằm đời tật dịch, Bồ Tát thấy nhiều người phải bệnh khổ, bèn suy nghĩ rằng như cây dược thọ, nếu người bệnh lấy rễ lấy cây, lấy nhánh lấy lá, lấy bông lấy trái, lấy vỏ đều trị được lành bệnh. Nguyện thân của tôi đây cũng như vậy, nếu người bệnh nghe tiếng chạm đến thân ăn thịt uống máu, nhẫn đến xương tủy đều trị lành bệnh. Nguyện chúng sanh lúc ăn thịt tôi chẳng sanh lòng ác, đều có quan niệm như ăn thịt con. Tôi trị cho họ được lành bệnh rồi sẽ thường vì họ mà thuyết pháp. Nguyện họ nghe pháp kính tin lãnh thọ suy ngẫm rồi đem dạy lại cho người khác.
Bồ Tát đầy đủ phiền não lúc chịu sự khổ nơi thân như vậy vẫn chẳng thối chuyển tâm Bồ Đề, nên biết quyết định được tâm bất thối, sẽ thành vô thượng Bồ Đề.
Nếu có chúng sanh bị quỷ làm bệnh, Bồ Tát thấy việc này liền phát nguyện làm thân quỷ to lớn mạnh mẽ, quyến thuộc đông, khiến người bệnh kia nghe thấy liền hết bệnh quỷ.
Đại Bồ Tát vì độ chúng sanh nên siêng tu khổ hạnh, dầu có phiền não nhưng tâm chẳng nhiễm ô.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát dầu tu hành lục ba-la-mật, cũng chẳng cầu quả lục ba-la-mật.
Lúc tu hành lục ba-la-mật vô thượng, Bồ Tát nguyện rằng: Nay tôi đem lục ba-la-mật ngày bố thí cho tất cả chúng sanh, mỗi chúng sanh nhận lấy sự bố thí của tôi rồi thời đều sẽ được thành vô thượng Bồ Đề. Tôi cũng tự vì lục ba-la-mật mà siêng tu khổ hạnh chịu những sự khổ não. Lúc đương chịu khổ nguyện tôi chẳng thối tâm Bồ Đề.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát lúc suy ngẫm phát nguyện như vậy thời gọi là tướng chẳng thối chuyển tâm Bồ Đề.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn, vì biết rõ sanh tử, có nhiều tội lỗi, quan sát Đại Niết Bàn có công đức lớn, vì chúng sanh mà ở nơi sanh tử chịu những sự khổ tâm chẳng thối chuyển, do đây nên gọi là Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn.
Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát không có nhân duyên mà vẫn sanh lòng thương xót tất cả chúng sanh, thiệt chẳng thọ ơn mà còn thi ơn. Dầu thi ơn mà chẳng cần đền trả, do đây nên lại gọi Đại Bồ tát là chẳng thể nghĩ bàn.
Này thiện nam tử! Hoặc có chúng sanh vì lợi ích cho mình mà tu các khổ hạnh. Đại Bồ Tát vì lợi ích cho người cho chúng sanh mà tu hành khổ hạnh, dầu vậy nhưng vẫn gọi là lợi ích cho mình, do đây nên Đại Bồ Tát lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ tát đầy đủ phiền não, vì phá hoại quan niệm kẻ oán người thân nên thọ những sự khổ để tu tâm bình đẳng, do đây nên Bồ Tát lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ Tát nếu thấy những chúng sanh hung ác thời hoặc quở trách, hoặc nói dịu ngọt, hoặc đuổi, hoặc bỏ.
Với những kẻ tánh ác, Bồ Tát thị hiện nói lời dịu dàng.
Với kẻ kiêu mạn, Bồ tát thị hiện làm ngã mạn lớn, nhưng trong tâm của Bồ Tát thiệt không kiêu mạn. Đây gọi là phương tiện của Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ Tát đầy đủ phiền não, lúc của cải ít mà người cầu xin nhiều, lòng Bồ Tát trọn chẳng hẹp nhỏ. Đây gọi là Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn.
Lúc đức Phật ra đời, Bồ Tát biết công đức của Phật, nhưng vì chúng sanh mà thọ thân biên địa nơi chỗ không Phật, như đui, như điếc, như què, như thọt. Đây gọi là Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ Tát biết rõ chúng sanh có những tội lỗi, vì muốn độ họ nên Bồ tát thường cùng đi chung với họ, dầu làm theo ý của họ nhưng vẫn không nhiễm lấy tội lỗi. Do đây nên lại gọi Bồ Tát là chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ Tát thấy biết rõ ràng không tướng chúng sanh, không phiền não nhiễm ô, không người tu tập thánh đạo xa lìa phiền não. Dầu vì Bồ Đề nhưng không hạnh Bồ Đề, cũng không có người thành tựu hạnh Bồ Đề, không người thọ khổ và người phá khổ mà cũng có thể vì chúng sanh phá hoại sự khổ thực hành hạnh Bồ Đề. Do đây nên gọi Bồ Tát là chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ Tát thọ thân rốt sau ở cung trời Đâu Suất, đây cũng gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Vì trời Đâu Suất là hơn tất cả trong cõi dục, cõi trời dưới thời tâm phóng sật, cõi trời trên thời căn tánh ám độn, do đây nên trời Đâu Suất gọi là hơn. Tu thí, tu giới thời được thân trời cõi trên và cõi dưới. Tu thí, tu giới và tu định thời được thân trời Đâu Suất.
Tất cả Bồ Tát đã tự phá hoại tất cả cõi, trọn chẳng tạo nghiệp trời Đâu Suất để thọ thân nơi cõi trời đó. Vì Bồ Tát nếu ở nơi các cõi khác, cũng đều có thể giáo hóa thành tựu chúng sanh, thiệt không có dục tâm mà lại sanh vào cõi dục, do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Đại Bồ Tát sanh ở trời Đâu Suất, có ba việc thù thắng: một là mạng, hai là sắc, ba là danh.
Đại Bồ Tát thiệt chẳng cầu mạng, sắc và danh, dầu không có tâm mong cầu mà chỗ được lại thù thắng. Đại Bồ tát rất ưa thích Niết Bàn, nhưng có nhân duyên nên mạng, sắc và danh cũng thù thắng. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Đại Bồ Tát mạng, sắc và danh dầu hơn chư Thiên, nhưng chư Thiên đối với Bồ Tát chẳng có lòng giận, lòng ganh ghét, lòng kiêu mạn, thường có lòng hoan hỷ. Bồ Tát đối với chư thiên cũng chẳng kiêu mạn, nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Đại Bồ Tát chẳng tạo nghiệp nhân thọ mạng, mà ở nơi trời Đâu Suất kia, Bồ Tát được thọ mạng rốt ráo, đây gọi là mạng thù thắng.
Bồ Tát không tạo nghiệp nhân sắc đẹp, mà thân sắc của Bồ Tát xinh đẹp đầy đủ ánh sáng, đây gọi là sắc thù thắng.
Bồ Tát ở cung trời Đâu Suất chẳng ưa ngũ dục chỉ làm pháp sự, nên tiếng đồn khắp cả mười phương, đây gọi là danh thù thắng. Do đây nên lại gọi Bồ Tát là chẳng thể nghĩ bàn.
Lúc Đại Bồ Tát từ trời Đâu Suất giáng sanh, cả đại địa sáu thứ chấn động, nên gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Vì lúc Bồ Tát giáng sanh, chư thiên cõi dục và cõi sắc đều đến hầu hạ đưa đi, lớn tiếng tán thán Bồ Tát, do hơi gió nơi miệng chư Thiên làm cho đại địa chấn động. Lại lúc Bồ Tát mới nhập thai, có các Long Vương ở dưới đại địa này hoặc khủng bố hoặc hoan hỷ, nên đại địa chấn động. Do đây nên lại gọi Bồ Tát là chẳng thể nghĩ bàn.
Đại Bồ Tát biết rõ lúc nhập thai, lúc trụ thai, lúc xuất thai, biết cha, biết mẹ, chẳng nhiễm ô bất tịnh, như bảo châu màu xanh trên búi tóc của Đế Thích, nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Này thiện nam tử! Kinh Đại Niết Bàn cũng chẳng thể nghĩ bàn như vậy.
Này thiện nam tử! Như biển cả có tám điều chẳng thể nghĩ bàn: một là lần lần càng sâu, hai là sâu khó đến đáy, ba là đồng một vị mặn, bốn là thủy triều chằng quá hạn, năm là có nhiều thứ kho báu, sáu là những chúng sanh thân to lớn ở trong đó, bảy là chẳng chứa tử thi, tám là tất cả muôn dòng đổ về cùng mưa to xối xuống mà biển vẫn chẳng thêm chẳng bớt.
Này thiện nam tử! Biển lần lần càng sâu là vì có ba điều: một là phước lực của chúng sanh, hai là thuận theo gió mà chảy, ba là vì nước trong sông đổ ra. Nhẫn đến chẳng thêm chẳng bớt cũng đều có ba việc.
Kinh Đại Niết Bàn này cũng có tám điều chẳng thể nghĩ bàn như vậy: một là lần lần càng sâu, nghĩa là từ giới Ưu Bà Tắc, giới Sa Di, giới Tỳ Kheo, giới Bồ Tát, quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, quả Bích Chi Phật, quả Bồ Tát, quả vô thượng Bồ Đề. Kinh Đại Niết Bàn này thuyết minh những pháp như vậy, đây gọi là lần lần càng sâu.
Hai là sâu khó đến đáy: đức Như Lai Thế Tôn bất sanh bất diệt, chẳng được vô thượng Bồ Đề, chẳng chuyển pháp luân, chẳng ăn chẳng thọ, chẳng thực hành bố thí, do đây nên đặng thường lạc ngã tịnh.
Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Phật tánh này chẳng phải sắc thọ tưởng hành thức, chẳng rời sắc thọ tưởng hành thức, là thường trụ có thể thấy, là liễu nhân chẳng phải tác nhân. Tu Đà Hoàn nhẫn đến Bích Chi Phật sẽ được vô thượng Bồ Đề, cũng không phiền não cũng không trụ xứ, dầu không phiền não nhưng chẳng gọi là thường, do đây nên nói là sâu.
Trong kinh này hoặc có lúc nói là ngã, hoặc có lúc nói vô ngã, hoặc có lúc nói là thường, hoặc có lúc nói là vô thường, hoặc có lúc nói là tịnh, hoặc có lúc nói là bất tịnh, hoặc có lúc nói là lạc, hoặc có lúc nói là khổ, hoặc có lúc nói là không, hoặc có lúc nói là bất không, hoặc có lúc nói tất cả đều có, hoặc có lúc nói tất cả đều không, hoặc nói nhị thừa hoặc nói nhất thừa, hoặc nói ngũ ấm tức là Phật tánh, là kim cang tam muội, là trung đạo, thủ-lăng-nghiêm tam muội, mười hai nhân duyên, đệ nhất nghĩa không, từ bi bình đẳng đối với chúng sanh, đảnh trí, tín tâm, trí lực biết các căn, trí không chướng ngại đối với tất cả pháp, dầu có Phật tánh nhưng chẳng nói quyết định. Do đây nên gọi là rất sâu.
Ba là đồng một vị: Tất cả chúng sanh đồng có Phật tánh, đều đồng nhất thừa, đồng một giải thoát một nhân một quả, đồng một cam lộ, tất cả đều sẽ được thường lạc ngã tịnh, đây gọi là đồng một vị.
Bốn là thủy triều chẳng quá hạn: Như trong kinh này chế các Tỳ Kheo chẳng được lẫn chứa tám vật bất tịnh. Nếu đệ tử của ta có thể thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết phân biệt kinh Đại Niết Bàn này, thà chết chớ trọn chẳng hủy phạm, đây gọi là thủy triều chẳng quá hạn.
Năm là có nhiều thứ kho báu: kinh này tức là kho báu vô lượng, nghĩa là tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như-ý-túc, ngũ căn, ngũ lực, thất-giác-chi, bát thánh đạo, Anh Nhi Hạnh, Thánh Hạnh, Phạm Hạnh, Thiên Hạnh, những thiện phương tiện, Phật tánh của chúng sanh, công đức của Bồ Tát, công đức của Như Lai, công đức của Thanh Văn, công đức của Duyên Giác, lục ba-la-mật, vô lượng tam muội, vô lượng trí huệ, đây gọi là những kho báu.
Sáu là chúng sanh thân to lớn ở trong đó: vì chư Phật và Bồ Tát có trí huệ lớn nên gọi là chúng sanh lớn, vì thân lớn, vì tâm lớn, vì trang nghiêm lớn, vì điều phục lớn, vì phương tiện lớn, vì thuyết pháp lớn, vì thế lực lớn, vì đồ chúng lớn, vì thần thông lớn, vì từ bi lớn, vì thường chẳng biến đổi lớn, vì tất cả chúng sanh thân không chướng ngại, vì dung thọ tất cả chúng sanh. Đây gọi là chỗ ở của những chúng sanh thân to lớn.
Bảy là chẳng chứa tử thi, tử thi là nói nhất-xiển-đề phạm bốn tội trọng năm tội vô gián, phỉ báng đại thừa, tà pháp nói là chánh pháp, chánh pháp nói là tà pháp, nhận chứa tám thứ vật bất tịnh, tùy ý dùng vậy của Phật, vật của Tăng, đối với Tỳ Kheo, với Tỳ Kheo Ni làm việc phi pháp, đây gọi là tử thi. Kinh Đại Niết Bàn này lìa những việc như vậy nên gọi rằng chẳng chứa tử thi.
Tám là chẳng thêm chẳng bớt, vì không ngằn mé, vì không thỉ chung, vì chẳng phải sắc, vì chẳng phải tạo tác, vì là thường trụ, vì chẳng sanh diệt, vì đều bình đẳng với tất cả chúng sanh, vì tất cả đồng một tánh Phật tánh, đây gọi là không thêm không bớt. Do đây nên kinh Đại Niết Bàn này có tám điều chẳng thể nghĩ bàn như biển cả kia."
(Hán bộ quyển thứ 33)
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: "Thế Tôn! Nếu cho rằng Như Lai bất sanh bất diệt là thậm thâm đó, thời tất cả chúng sanh có bốn loài sanh: noãn, thai, thấp, hóa. Trong bốn loài sanh này thời loài người có đủ, như Tỳ Kheo Thi Bà La, Tỳ Kheo Ưu Bà Thi Bà La, mẹ của trưởng giả Di Ca La, mẹ của trưởng giả Ni Câu Đà, mẹ của trưởng giả Bán Xà La, mỗi người đều sanh năm trăm con trai đồng là noãn sanh. Do đây nên biết rằng trong loài người cũng có noãn sanh.
Trong loài người mà thấp sanh, như Phật từng nói rằng: thuở trước lúc ta tu hạnh Bồ Tát làm Đảnh Sanh Vương và Thủ Sanh Vương và như nay cô gái Am La, cô gái Ca Bất Ba, nên biết rằng trong loài người cũng có thấp sanh.
Thuở kiếp sơ tất cả chúng sanh đều là hóa sanh.
Đức Thế Tôn đã được tám thứ tự tại, do nhân duyên gì mà chẳng hóa sanh?"
Phật nói: "Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh từ nơi bốn loài sanh mà sanh ra, khi đã được thánh pháp thời chẳng được noãn sanh và thấp sanh như trước.
Này thiện nam tử! Chúng sanh thuở kiếp sơ, thảy đều hóa sanh, trong thời kỳ đó, không có Phật ra đời.
Này thiện nam tử! Nếu có chúng sanh lúc mang bệnh đến thời cần thầy, cần thuốc, thuở kiếp sơ chúng sanh đều hóa sanh dầu có phiền não nhưng bệnh phiền não chưa phát, do đây nên đức Như Lai chẳng hiện ra đời. Lại chúng sanh thuở kiếp sơ, thân tâm của họ chẳng phải pháp khí, nên đức Như Lai chẳng hiện ra trong thời kỳ đó.
Này thiện nam tử! Phàm tất cả sự nghiệp của đức Như Lai đều hơn chúng sanh, như giòng họ, quyến thuộc, cha mẹ. Do hơn chúng sanh, nên chỗ thuyết pháp của Như Lai mọi người đều tin thọ. Do đây nên đức Như Lai chẳng hóa sanh.
Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh, hoặc là cha làm theo nghề nghiệp của con, hoặc là con làm theo nghề nghiệp của cha. Đức Như Lai nếu hóa sanh thời không có cha mẹ, nếu không có cha mẹ thời làm sao khiến tất cả hành những nghiệp lành. Do đây đức Như Lai chẳng hóa sanh.
Này thiện nam tử! Trong chánh pháp của Phật có hai thứ hộ trì: một là nội, hai là ngoại. Nội hộ là giới cấm. Ngoại hộ là thân tộc, quyến thuộc. Nếu đức Như Lai hóa sanh thời không ngoại hộ. Do đây nên đức Như Lai chẳng hóa sanh.
Này thiện nam tử! Có người ỷ dòng họ mà sanh kiêu mạn. Vì phá sự kiêu mạn như vậy, nên đức Như Lai giáng sanh trong dòng họ cao sang, mà chẳng hóa sanh.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai có cha mẹ thật, cha là Vua Tịnh Phạn, mẹ là Hoàng Hậu Ma Da, mà còn có chúng sanh nói rằng Như Lai là người huyễn hóa, như thế thời đâu nên hóa sanh.
Này thiện nam tử! Nếu Như Lai hóa sanh, thời làm thế nào có thân thể nát ra thành Xá Lợi. Đức Như Lai vì muốn cho chúng sanh tăng trưởng phước đức, nên nát rã thân thể mình thành Xá Lợi để cho chúng sanh cúng dường. Do đây nên đức Như Lai chẳng hóa sanh.
Này thiện nam tử! Tất cả chư Phật đều không hóa sanh, thời làm sao ta lại riêng mình hóa sanh."
Sư Tử Hống Bồ Tát liền quỳ chắp tay nói kệ tán thán Phật:
Như Lai có vô lượng công đức
Tôi chẳng thể trình bày đủ hết
Nay vì chúng sanh nói một phần
Xin Phật xót thương cho tôi nói:
Chúng sanh đi trong tối vô minh
Chịu đủ vô biên trăm thứ khổ
Phật có thể khiến họ xa lìa
Nên đời gọi Phật là đại bi.
Chúng sanh đi trên dây sanh tử
Phóng dật mê hoang không an vui
Phật có thể ban cho an vui
Do đây dứt hẳn dây sanh tử.
Vì Phật cho chúng sanh an vui
Nên chẳng tham đắm vui của mình
Phật vì chúng sanh tu khổ hạnh
Nên trong đời đều cúng dường Phật
Thấy người chịu khổ thân run rẩy
Nên ở địa ngục chẳng biết đau
Phật vì chúng sanh chịu khổ nhiều
Nên là vô lượng không ai hơn.
Phật vì chúng sanh tu khổ hạnh
Đầy đủ sáu môn ba-la-mật
Ở trong gió tà tâm chẳng động
Nên hơn được đại sĩ trong đời.
Chúng sanh thường muốn được an vui
Mà chẳng biết tu nhân an vui
Phật có thể dạy bảo tu tập
Dường như cha lành thương con một.
Phật thấy chúng sanh khổ phiền não
Lòng khổ như mẹ lo con bệnh
Thường nghĩ những phương tiện lìa bệnh
Nên thân Phật hệ thuộc nơi người.
Tất cả chúng sanh làm điều khổ
Lòng họ điên đảo cho là vui
Phật diễn nói khổ vui chân thật
Nên đời gọi Phật là đại bi.
Đời đều ở trong vỏ vô minh
Không có mỏ trí mổ lũng được
Mỏ trí của Phật mổ lũng được
Nên gọi Phật là mẹ lớn nhất.
Chẳng bị nhiếp trì trong ba đời
Không có danh tự và hiệu giả
Hiểu biết nghĩa sâu của Niết Bàn
Nên gọi Phật là bậc đại giác.
Ba cõi xoay chuyển nhận chúng sanh
Vô minh mù lòa chẳng biết ra
Phật tự độ mình độ được người
Nên gọi Phật là đại thuyền sư.
Biết rõ được tất cả nhân quả
Cũng lại thông đạt đạo tịch diệt
Thường ban pháp được cho chúng sanh
Nên đời gọi Phật là y vương.
Ngoại đạo tà kiến nói khổ hạnh
Nhân hạnh này được vui vô thượng
Đức Phật diễn nói hạnh chân lạc
Làm cho chúng sanh hưởng an vui.
Như Lai Thế Tôn phá đạo tà
Chỉ dạy chúng sanh đường chân chánh
Ai đi đường này được an vui
Nên đời gọi Phật là đạo sư.
Chẳng phải mình và người làm ra
Chẳng phải chung làm vô nhân làm
Đức Phật giảng nói những sự khổ
Đúng thật không như các ngoại đạo.
Thành tựu đầy đủ giới định huệ
Cũng đem pháp này dạy chúng sanh
Đem pháp bố thí không lẫn tiếc
Phật hiệu là đấng vô duyên từ.
Không tạo tác cũng không nhân duyên
Chứng đặng báo không nhân không quả
Do đây tất cả bậc trí giả
Khen nói đức Phật chẳng cầu báo.
Thường cùng thế gian hành phóng dật
Mà thân chẳng làm phóng dật hạnh
Nên gọi Phật là bất tư nghì
Tám pháp thế gian chẳng nhiễm ô.
Như Lai Thế Tôn không thân thù
Nên tâm của Phật thường bình đẳng
Tôi Sư Tử Hống, tán thán Phật

Rống như vô lượng sư tử rống.

No comments:

Post a Comment