Sunday, November 6, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Hết

KINH LĂNG NGHIÊM DO TUỆ QUANG VÀ TRÍ ĐỘ DỊCH VÀ BÌNH LUẬN.
IN TẠI NHÀ IN TRƯỜNG SƠN.
14 NGUYỄN AN MINH, SAIGON.
GIẤY PHÉP SỐ 1154 BTT-BC3_XB
NGÀY 6 THÁNG 4 NĂM 1965, THAY THẾ GIẤY PHÉP SỐ 460XB NGÀY 13 THÁNG 3 NĂM 1964.

Kinh Lăng Nghiêm - Phụ Lục

D - Tủ sách Phật học Việt Nam đã thành lập.

Mục đích là truyền bá những sách có giá trị nghiên cứu về Phật giáo, chúng tôi sẽ dịch các bộ Kinh cao quý như Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Đại Bảo Tích, Đại Bát Nhã v.v... sang tiếng Việt, và lần lượt xuất bản những sách khảo cứu về Phật pháp. Mục đích của chúng tôi là xây dựng một nền giáo lý Phật pháp, xây căn bản cho tòa lâu đài tư tưởng, đạo đức tráng lệ, nguy nga là Phật pháp. Nền tư tưởng đã cảm hóa sâu xa tâm hồn dân tộc Việt Nam, tâm hồn các dân tộc Á Đông, Đông Nam Á, Á Châu. Đã làm văn minh nhân loại lên tới chỗ cao, đã nâng cao giá trị con người, làm loài người trở nên cao quý, làm nhân cách con người có thể phát triển vô cùng tận. Dưới đây là các bộ Kinh và sách trong đợt đầu xuất bản của chúng tôi.
Muốn biết đạo Phật cao siêu, vĩ đại đến đâu? Muốn biết tư tưởng loài người có thể cao, đẹp đến đâu? Muốn hiểu sâu đạo Phật? Muốn có một căn bản vững chắc về đạo Phật.
Quý vị nên đọc:
1. Kinh Viên Giác.
Quyển kinh cao siêu nhất trong kho tàng kinh luận của Phật pháp, kết tinh tất cả giáo lý của Phật pháp, về lý thuyết cũng như về thực hành. Đó là chân giá trị của Phật pháp. Do cụ Huyền Cơ, một trong số rất hiếm những hiền triết, thánh tăng, bác học trong lịch sử nhân loại, đã tu chứng cao, mới hiểu nổi và dịch nổi bộ Kinh này. Lần đầu tiên dịch ra tiếng Việt Nam, làm trình độ Phật học Việt Nam lên cao tột. Đặc biệt của bản in lần thứ ba này là có kèm bản dịch sang Pháp văn của giáo sư Tuệ Quang, là bản dịch Pháp văn độc nhất trên thế giới.
Dưới đây là lời giới thiệu của Thượng tọa Thích Tâm Châu.
Tôi trân trọng giới thiệu cùng quý vị Phật tử, quý vị trí thức một Kinh quý giá của Đạo Phật.
Đó là Kinh Viên Giác. Kinh Viên Giác là kinh cao nhất, quý nhất trong kho tàng kinh luận vĩ đại của Phật giáo. May mắn cho nước Việt Nam ta, đã xuất hiện một vị Tam tạng Pháp sư là Huyền Cơ, tu chứng rất cao. Ngài đã dịch kinh Viên Giác sang tiếng Việt. Thế là chính pháp được rực rỡ ở nước Việt Nam. Nay giáo sư Tuệ Quang lại dịch sang Pháp văn. Chính pháp lại có cơ tràn lan sang thế giới Âu Tây, tràn lan khắp thế giới. Ước mong Kinh này sẽ được dịch sang Anh văn và nhiều ngoại ngữ khác, để chính pháp được rực rỡ, và để tiếng nói của nước Việt Nam được nhân loại biết tới. Nhờ thế, bao chúng sinh sẽ thành Phật, và nước ta cũng góp một phần không nhỏ vào công nghiệp xây dựng văn hóa tương lai của nhân loại. Tôi mong các Phật tử nên chân thành nghiền ngẫm kinh Viên Giác. Nên chuyên tâm trì tụng kinh này, công đức sẽ vô lượng. Đây là Chính pháp của Phật. Phật thị hiện ra ở cõi đời này, cốt để mang giáo lý của kinh Viên Giác truyền bá trong nhân loại. Vậy tôi trân trọng giới thiệu "Viên Giác" cùng các Phật tử, cùng quý vị trí thức xa gần.

2. Phật giáo của giáo sư Tuệ Quang.
Đây là bộ sách đầy đủ nhất về đạo Phật, từ lý thuyết đến thực hành. Sách dày 500 trang, phát hành nhân kỷ niệm lễ Phật đản 1964.
Đây là lời giới thiệu của Thượng tọa Thích Tâm Châu.
Chúng tôi trân trọng giới thiệu cùng quý vị Phật tử, quý vị trí thức một tác phẩm quý báu của đạo Phật. Đó là tác phẩm "Phật giáo" của giáo sư Tuệ Quang. Đây là kết tinh của cả một nền giáo lý bao la của Phật. Tất cả đạo Phật, với đủ các khía cạnh từ lý thuyết đến thực hành, cho đến chỗ cao tột, chỗ bí yếu mà ít người hiểu nổi, đều được trình bày thành một hệ thống rõ ràng, mạch lạc, chặt chẽ. Đây là một tòa lâu đài tư tưởng nguy nga, tráng lệ. Đây là một đạo sống. Chúng ta sẽ hiểu đạo Phật một cách linh động. Người viết mang cả lòng chân thành của một phật tử đã tha thiết sống với đạo, lòng chứa chan từ bi, nên ta thấy mỗi câu, mỗi chữ đều chứa chan sức mạnh của tin tưởng. Chúng ta sẽ thấy đạo Phật cao siêu, vĩ đại, hùng tráng, sâu xa. Thật là đẹp đẽ, huy hoàng. Chúng ta thấy chân tinh thần của đạo Phật chan chứa ở đây. Chúng ta sẽ thấy tác giả là người rất có công phu tu, mới viết nổi các hạnh tu một cách linh động, một cách "sống". Có cái lạ nữa, là giữa khoa học, đạo học và đạo Phật, không có biên giới. Bất cứ một người nào, ở chân trời nào, đọc quyển này, đều thấy đạo Phật rất gần mình, không có gì xa lạ. Không còn biên giới giữa tư tưởng loài người. Phật học là khoa học, triết học, là nghệ thuật, là văn hóa. Phật học bao trùm tất cả. Phật học đem tư tưởng loài người lên cao tột. Đây lại là một thành công về nghệ thuật. Về phương diện văn chương, ta phải khen tác giả đã khéo trình bày tư tưởng cao siêu tế nhị, rất khó diễn tả, thành một hệ thống rõ ràng, có phương pháp. Lời văn linh động, thiết tha, sáng sủa, khi hùng tráng, khi nhẹ nhàng, khi sâu sắc, khi cao siêu, và rất lưu loát. Tác phẩm này không những nói lên những điều cần biết về đạo Phật, lại kết tinh được tư tưởng nhân loại, gồm Đông Tây, Kim cổ. Đáng quý là tỏ rõ một cách linh động tinh thần hùng tráng, cao cả của Phật pháp. Ta phải khen tác giả là một học giả, không những uyên thâm Phật học, mà cả về văn hóa, về khoa học, nghệ thuật cũng rất uyên bác. Có như thế mới trình bày được một cách tự nhiên, lưu loát, dễ dàng cả một hệ thống tư tưởng rất trừu tượng, tinh vi, thường bị chết trong rừng danh từ bí hiểm. Ta thấy tác giả là một nghệ sĩ, rung cảm trước muôn vẻ đẹp, và làm rung cảm lòng ta trước những vẻ đẹp tuyệt đối. Một tác phẩm như vậy làm hãnh diện đạo Phật. Nó sẽ giúp bao trí thức, Phật tử hiểu sâu đạo Phật, có một ý niệm rõ ràng và sâu sắc về đạo. Nó đã tả đúng chân tinh thần Phật giáo. Nó là nguồn cảm hứng cho người thiết tha tìm hiểu Chính pháp, cho người thực hành tu theo Chân lý. "Phật giáo" sẽ độ vô số chúng sinh thành Chính giác. Sẽ tràn lan khắp thế giới, mang cho nhân loại bao "nguồn sáng mới". Vì "Phật giáo" là Chính pháp. Tôi trân trọng giới thiệu cùng Phật tử, các trí thức gần xa. Chúc mọi người một tương lai rực rỡ.
3. Quyển "Căn bản của tín đồ Phật giáo".
Lần đầu tiên, tất cả kho tàng giáo lý vĩ đại của Phật giáo được kết tinh thành một hệ thống rõ ràng trong một quyển sách. Trình bày rất đơn sơ, theo lối hỏi đáp, cho ai nấy đều hiểu những điều căn bản của đạo Phật. Nhiều điều rất cao siêu, nếu giảng ra phải bao bộ sách. Mỗi tín đồ phải thuộc lòng quyển sách này, y theo đó mà tiến tu. Chưa ai lập được công trình vĩ đại như thế để xây dựng Phật giáo. Đạo Phật tồn tại và phát triển được, nhờ quyển này. Cụ Huyền Cơ đã mất cách nay mười năm, là một đại bác học, tu chứng rất cao, thông suốt ba tạng thánh giáo. Cụ sáng tác ra sách này. Sắp xuất bản, Tuệ Quang bình luận.
Đây là lời giới thiệu của Thượng tọa Thích Tâm Châu:
Quyển "Căn bản của Tín đồ Phật giáo" là một quyển sách quý giá của đạo Phật. Quyển đó xây căn bản cho đạo Phật ở Việt Nam và thế giới. Tác giả, ngài Huyền Cơ, là một vị Tam tạng pháp sư lỗi lạc ở Việt Nam và thế giới. Nay ngài mang cái học bao trùm ba tạng Kinh luận, kết tinh giáo lý của đạo Phật vào quyển sách nhỏ này. Tuy tóm gọn, nhưng súc tích vô cùng. Đạo Phật đã được xây dựng, có nền tảng vững vàng. Tín đồ cần học quyển này thuộc lòng và luôn luôn nhớ nghĩ đến. Hãy nhờ giới sư mình giảng cho hiểu. Tôi trân trọng giới thiệu quyển sách quý giá này với quý Thượng Tọa, Đại Đức, quý Thầy, quý vị Phật tử, và quý vị trí thức muốn tìm hiểu đạo Phật.
4. Bộ "Căn bản Đạo Phật", "Duy Thức học", "Nhân Minh học".
Đây là ba tập khảo cứu của cụ Huyền Cơ, xuất bản chung cùng một bộ:
a) Tập "Căn bản đạo Phật" là một tập khảo cứu công phu, thu gồm tinh hoa năm Đại Tạng, gồm cả kho tàng kinh luận vào một nền tảng chắc chắn. Ai muốn hiểu Phật pháp một cách vững càng, phải đọc sách này. Tư tưởng rất súc tích, cao siêu, bao hàm bao chân trời mới lạ. Xưa nay chưa ai từng thu tóm Phật pháp một cách vĩ đại, bao quát và thông suốt đến như thế.
b) Tập "Duy Thức học" là tập tóm thâu căn bản cả một ngành học cao sâu, ngành tâm lý học của Phật pháp. Cụ Huyền Cơ là một đại bác học, cái học bao trùm cả tính tôn, tướng tôn, nên viết một cách rõ ràng, giản dị. Tập này làm nền tảng cho "Duy Thức học", tài liệu dồi dào, súc tích. Ai càng học cao Phật pháp càng thấy vĩ đại, cao sâu.
c) Tập "Nhân Minh học" là tập khảo cứu về nhân minh, là một ngành học bao la của Phật pháp, chuyên về luân lý. Chưa có ai thâu tóm được ngành học đó một cách tinh vi, sáng suốt như cụ Huyền Cơ, kể từ đời Tam Tạng pháp sư Huyền Trang. Các học giả, trí thức muốn tìm hiểu triết học Đông Phương, muốn hiểu Phật pháp, phải nghiên cứu ba tập sách này. Tuệ Quang bình luận. Phát hành nhân dịp lễ Phật đản 1965.
Đây là lời giới thiệu của Thượng tọa Thích Tâm Châu:
Bộ sách "Căn bản đạo Phật, Duy Thức học, Nhân Minh học" là một bộ sách rất có giá trị. Tác giả, ngài Huyền Cơ, là một vị Tam tạng Pháp sư lỗi lạc của nước Việt nam và thế giới. Ngài có công kết tinh giáo lý của Phật giáo chan chứa trong ba tạng kinh luận, thành một bộ sách nhỏ, để Phật tử và những người không có nhiều thì giờ nghiên cứu, cũng có một căn bản vững chắc về đạo Phật. Sách này dùng để đào tạo cán bộ Phật giáo. Các giảng sư, giáo sư sẽ nương vào bộ này để giảng rộng thêm về Phật học. Tất cả giáo lý cao siêu, bao la của đạo Phật đều được trình bày rõ ràng, mạch lạc. Tuy tóm gọn nhưng sâu xa, súc tích. Bộ sách này lại đặt nền tảng cho Duy Thức học và Nhân Minh học, hai ngành học quan trọng của đạo Phật làm sáng tỏ giáo lý rất nhiều. Tôi trân trọng giới thiệu bộ sách giá trị này cùng quý vị Phật tử và quý vị trí thức.
5. "Điều tâm niệm của Phật tử" của Tuệ Quang.
Đây là quyển sách gối đầu giường của Phật tử. Văn thiết tha, lúc hùng tráng, lúc nhẹ nhàng. Ta sẽ hiểu đạo Phật một cách linh động, một cách "sống". Phát hành nhân lễ Phật đản 1965.
Lời giới thiệu của Thượng Tọa Thích Tâm Châu:
Tôi trân trọng giới thiệu cùng thanh niên Phật tử một quyển sách quý báu của đạo Phật. Đó là quyển "Điều tâm niệm của Phật tử" của giáo sư Tuệ Quang.
Bằng một lối văn giản dị, rõ ràng, nhẹ nhàng, lưu loát, lúc hùng tráng, lúc thiết tha, tác giả khéo đưa chúng ta vào đạo. Một đạo Phật tươi sáng, vui vẻ, trẻ trung, gần cuộc sống.
Ta sẽ thấy đây là nguồn cảm hứng, nguồn an ủi.
Những câu chuyện vui, viết bằng lối văn lưu loát, đưa đến những kết luận sâu xa. Càng từng trải, càng tu học, mới thấy những tư tưởng đó thấm thía, cao siêu.
Những đức tính căn bản của Phật tử đều nêu rõ ở đây.
Thanh niên Phật tử nên theo đó mà nghiền ngẫm, mà trầm tư mặc tưởng. Chúng ta nên coi đó là người bạn quý giúp mình hiểu ánh sáng của từ bi.
Chúc Phật tử một tương lai sáng lạn.

6. "Truyện hay đạo Phật" của Tuệ Quang.
Đây là tập truyện ngắn chọn lọc trong kho tàng kinh sách của đạo Phật. Cốt truyện ly kỳ, văn lưu loát, linh động, vui và mới. Tư tưởng sâu xa. Mọi người đều ưa thích, từ thanh niên, thiếu nữ đến trí thức. Ta sẽ hiểu đạo Phật một cách "sống". Sắp xuất bản.
7. "Duy Thức học" của Tuệ Quang.
Quyển sách đầy đủ nhất về duy thức học. Lấy căn bản ở bản dịch bộ sách danh tiếng "Thành duy thức" của Tam tạng Pháp sư Huyền Trang, bộ sách đã chinh phục hai nền văn minh Ấn Độ và Trung Hoa. Do ngài Trí Độ dịch. Lại thêm nhiều tài liệu quý báu của ngài Huyền Cơ. Sắp xuất bản.
Đây là lời giới thiệu của Thượng Tọa Thích Tâm Châu:
Tôi trân trọng giới thiệu cùng quý vị Phật tử, quý vị trí thức một bộ sách quý báu của đạo Phật.
Đó là bộ "Duy Thức học" của giáo sư Tuệ Quang.
Bộ đó đã được viết rất công phu, so sánh Phật học với khoa học, với tư tưởng ngày nay. Cả một ngành giáo lý bao la và tinh vi của Phật được trình bày rõ ràng, có phương pháp, một cách linh động, bằng một lối văn lưu loát.
Duy thức học là một ngành học về tâm lý của đạo Phật. Ngành đó giúp ta hiểu rõ về tâm lý của chúng ta, và tâm lý chúng sinh, để dễ tu học.
Giáo sư Tuệ Quang đã nhiều công phu nghiên cứu mới viết được một bộ sách đầy đủ, làm căn bản cho ngành Duy Thức học.
Quý vị Phật tử, quý vị trí thức muốn hiểu sâu đạo Phật, muốn có một căn bản vững chắc về Phật học, nên nghiên cứu bộ sách này.
Chúc quý vị một tương lai đẹp đẽ.

8. Kinh Duy Ma Cật.
Kinh rất cao, rất quý của đạo Phật. Chỉ các hạnh cao, đẹp và quan niệm cao sâu Bồ Tát. Rất vui vì có nhiều cuộc đối đáp ly kỳ. Tuệ Quang dịch và bình luận. Sắp xuất bản.
Lời giới thiệu của Thượng Tọa Thích Tâm Châu:
Kinh "Duy Ma Cật" là quyển kinh quý báu của đạo Phật. Đó là một kinh cao, vào loại viên giáo, dành cho những Bồ Tát tu chứng cao.
Chuyên nói về các hạnh tu, chuyên chú về thực hành.
Ta sẽ cảm phục những đức tính cao cả của Bồ Tát. Kinh này đã tôn giá trị, đã chỉ rõ chân tinh thần đạo Phật.
Nay giáo sư Tuệ Quang phát tâm dịch kinh này, và bình luận thêm rộng.
Tôi rất tán thán công đức vĩ đại đó.
Quý vị trí thức, quý vị Phật tử muốn hiểu rõ, muốn biết đạo Phật cao quý tới đâu, muốn tu thực hành, nên nghiền ngẫm kinh "Duy Ma Cật". Công đức trì tụng cũng rất lớn lao.
Tôi trân trọng giới thiệu kinh "Duy Ma Cật" tới quý vị.

9. Đạo Phật ngày mai.
Của Tuệ Quang. Vạch rõ con đường của thế giới, của nước Việt Nam và của đạo Phật, trong tương lai. Đặt điều kiện cho đạo Phật, phải đi đúng chính pháp, mới làm tròn sứ mệnh "độ tận chúng sinh" trong tương lai. Văn rõ ràng, thiết tha, linh động, hùng tráng, sâu sắc. Sắp xuất bản.

Kinh Lăng Nghiêm - Lưu Thông

C - LƯU THÔNG

I. Nói công đức của kinh:

Ông A Nan, nếu có người chất đầy bảy báu khắp mười phương hư không, đem ra cúng dường các đức Phật nhiều như bụi nhỏ, thừa sự và cúng dường, tâm không bỏ qua. Ý ông thế nào?
Người đó được phúc nhiều chăng?
Ông A Nan đáp:
Hư không vô tận, của báu vô biên.
Thủa xưa có chúng sinh cúng Phật bảy đồng tiền, sau khi chết được phúc báo làm vua Chuyển Luân. Huống chi cúng của báu khắp các cõi Phật đầy rẫy hư không. Cùng kiếp nghĩ bàn, không thể kịp. Phúc ấy thế nào lại có giới hạn!
Phật bảo ông A Nan:
Các đức Phật Như Lai nói không hư vọng:
Nếu có người thân phạm đủ bốn trọng tội, thập ác, nháy mắt trải qua địa ngục vô gián phương này và phương khác, cho đến cùng tột mười phương ngục vô gián, đều phải trải khắp.
Nếu người đó có ý nghĩ đem pháp môn này về trong đời mạt kiếp, khai thị cho người chưa được học. Tội chướng tức thì tiêu diệt, biến địa ngục thành nước An Lạc, được phúc siêu việt người cúng Phật đã nói ở trên gấp trăm, nghìn, vạn, nghìn vạn ức lần... như vậy cho đến toán số, ví dụ cũng không thể kịp.
Ông A Nan, nếu có chúng sinh tụng kinh này, trì chú này như tôi rộng nói, cùng kiếp chẳng hết, y theo ngôn giáo của tôi, như giáo pháp tu hành, thẳng tới Bồ Đề, không còn ma nghiệp.

II. Tổng kết: chúng hội vui mừng:

Phật nói kinh này rồi, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, tất cả thế gian, Thiên, Người, A Tu La, cùng các Bồ tát ở phương khác. Nhị thừa, Thánh, Tiên, Đồng tử, với đại lực quỷ thần mới phát tâm, đều rất vui mừng, làm lễ rồi lui.


KẾT LUẬN về KINH LĂNG NGHIÊM
Chúng ta đã nghiên cứu xong kinh Lăng Nghiêm.
Ta đã hiểu sâu thêm về Phật pháp.
Đã có căn bản về đạo Phật.
Đã hiểu lẽ chân vọng.
Lại biết rõ lối tu vào Càn Tuệ Địa.
Ta quen với một số danh từ trong đạo Phật.
Với người mới nghiên cứu đạo Phật, trước khi học kinh Lăng Nghiên, nên nghiên cứu bộ sác Phật Giáo(1).
Như thế, mới có căn bản chắc chắn về đạo Phật, khi đọc kinh Lăng Nghiêm mới hiểu rõ và sâu hơn.
(1) "Phật giáo" của Tuệ Quang. Tủ sách Phật học xuất bản năm 1964.
Kinh Lăng Nghiêm thuộc về biệt giáo. Học xong bộ này, phải học nhiều bộ kinh khác để rộng đường tu.
Nên học kinh Duy Ma Cật(2) để biết các hạnh tu của Bồ tát. Kinh này thuộc biệt giáo, kiêm viên giáo, đưa người tu lên cao hơn, và chỉ phương diện thực hành của đạo Phật. Rồi học lên kinh Viên Giác(3). Đây là kinh cao nhất, quý nhất của đạo Phật. Chỉ rõ cảnh giới tu chứng của Phật và các hạnh tu viên đốn về chứng tới cảnh giới đó. Đây là Chân lý. Ta lại thấy rõ về thực hành.
Hai kinh Viên Giác và Duy Ma Cật có cái lợi là mỏng, nên người ít thì giờ cũng học được.
Và dễ nghiền ngẫm, đọc tụng. Đều thuộc loại kinh cao, liễu nghĩa, chỉ rõ chân tinh thần đạo Phật.
(2) Kinh Duy Ma Cật do Tuệ Quang dịch và bình luận. Sắp xuất bản. Tủ sách Phật học.
(3) Kinh Viên Giác do cụ Huyền Cơ dịch ra Việt văn, và Tuệ Quang dịch ra pháp văn. Đã xuất bản. Tủ sách Phật học. 1964.

Đã có căn bản về pháp tính, ta nên học thêm về pháp tướng.
Pháp tính chỉ về tổng quát, chỉ thẳng chân lý, và các hạnh tu để chứng chân lý.
Pháp tướng phân tích tỷ mỷ đạo Phật. Đó là khoa học của đạo Phật.
Duy thức là một ngành trong pháp tướng.
Duy thức phân tích rõ ràng tâm lý của chúng sinh, để ta hiểu rõ ta, hiểu rõ Phật pháp, và dễ tu học.
Bộ thành duy thức của tam tạng pháp sư Huyền Trang là bộ sách căn bản của duy thức học.
Bộ đó đã làm các học giả, bác học ở hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ hồi đó kính phục.
Cụ Huyền Cơ là một tam tạng pháp sư kỳ tài, xuất chúng, mới xuất hiện ở thế kỷ 20. Cụ rất giỏi về Phật pháp và duy thức.
Cụ đã đặt nền tảng cho Phật pháp và duy thức học(1).
Ta nên học về duy thức(2) để có thêm căn bản tiến tu.
(1) Bộ "căn bản đạo Phật, duy thức học, nhân minh học" của cụ Huyền Cơ sẽ xuất bản năm 1965. Tủ sách Phật học.
(2) Bộ "Duy thức học" của Tuệ Quang sắp xuất bản. Căn cứ vào bản dịch bộ "thành duy thức" của ngài Huyền Trang, do cụ Trí Độ dịch, và vào tài liệu quý báu của cụ Huyền Cơ. Bộ này là nền tảng của duy thức học. Tủ sách Phật học.

Ta lại nên nghiên cứu về nhân minh học. Đây là khoa học luận lý rất tinh vi và cao siêu của Phật pháp. Nhờ nhân minh, ta sẽ phân biệt rõ chính tà, và hiểu đạo Phật rất rõ ràng, sáng suốt.
Ta nên nghiên cứu thêm hai bộ kinh vĩ đại Hoa Nghiêm và Niết Bàn.
Kinh Hoa Nghiêm tả rất rõ ràng các cảnh giới tu từ phàm phu đến thành Phật. Các hạnh tu đều trình bày cặn kẽ, quả nào tu hạnh nào. Đó là viên giáo.
Kinh Niết Bàn giải quyết mọi nghi ngờ, thắc mắc của chúng sinh về đạo Phật, về chân lý, về Phật, về tu chứng.
Ta lại nên đọc các bản hạnh của Phật đã làm từ khi còn là Bồ Tát, để thấy rõ đường tu, và huân tập hạt giống Phật.
Nếu đọc đủ mấy bộ kinh sách trên, chúng ta đã hiểu sâu đạo Phật.
Ta vững bước trên đường Chân lý.
Hãy mạnh mẽ tiến lên, truyền bá chính pháp, nêu cao chính pháp, độ bao chúng sinh, độ tận chúng sinh.
Chúc mọi người một tương lai sáng lạn.
Tuệ Quang
Viện Phật học Huyền Cơ.
Xuân Giáp Thìn (1964)
Phật lịch 2508.

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 56)

ii) - Nói rõ ngũ ma cảnh:
a) - Sắc ấm ma:
3 phần:
1) - Phá sắc ấm.
2) - Mười cảnh.
3) - Kết.
1) - Phá sắc ấm:
A/ - Lúc chưa phá:
Ông A Nan! Nên biết: Ông ngồi đạo trường, tiêu hết các niệm. Các niệm hết thì các ly niệm đều sáng tỏ rõ ràng, động tĩnh không dời, nhớ quên như một mực.
Đương ở chỗ đó vào Tam Ma Địa, ví như người sáng mắt ở chỗ tối tăm.
Tính tinh minh được diệu và tịnh, tâm chưa phát sáng. Ấy còn là bị buộc trong sắc ấm.
B/ - Phá:
Nếu mắt sáng suốt, mười phương rỗng thông, không còn tối tăm. Gọi là sắc ấm hết.
Người đó siêu việt kiếp trọc. Xem chỗ sở nhân, kiên cố vọng tưởng làm gốc.
2) - Mười cảnh:
A/ - Thân ra khỏi ngại:
Ông A Nan, đương ở trong ấy tinh nghiên(1) diệu minh, bốn đại chẳng xen dệt(2). Trong giây lát, thân có thể ra khỏi chướng ngại. Ấy gọi là tinh minh lưu dật cảnh hiện tiền. Nhờ công dụng tạm thời được như vậy. Không phải là chứng thánh. Đừng khởi tâm cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt. Nếu cho là thánh, thì liền bị quần tà(3).
(1) Nghiền ngẫm mãi.
(2) Phân tán, không kết lại.
(3) Bọn ma quấy rối.

B/ - Trong thân nhặt trùng:
Ông A Nan! Lại do tâm ấy, tinh nghiên diệu minh, trong nhân rỗng suốt. Người đó bỗng nhiên lấy ra các loài giun sán ở trong thân. Thân tướng còn nguyên, không bị tổn thương.
Đó gọi là tinh minh lưu hộ hình thể. Ấy chỉ là tinh hạnh, tạm thời được như vậy.
Không phải là chứng thánh. Đừng khởi tâm cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt. Nếu cho là thánh, liền bị quần tà.
C/ - Nghe trong hư không thuyết pháp:
Lại do tâm ấy, trong ngoài tinh nghiên. Khi ấy hồn phách, ý chí, tinh thần, thảy đều xen vào, đắp đổi làm chủ làm khách, trừ thân chấp thụ.
Bỗng trong hư không nghe tiếng thuyết pháp, hoặc nghe mười phương đồng tỏ nghĩa bí mật. Ấy gọi là tinh phách đắp đổi hợp ly, thành tựu hiện chủng. Tạm thời được như vậy, không phải là chứng thánh. Đừng khởi tâm cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt. Nếu cho là thánh, liền bị quần tà.
D/ - Phật hiện ra:
Lại do tâm ấy, đứng lặng trong suốt, sáng từ bề trong phát ra. Mười phương khắp hóa thành sắc vàng Diêm Phù Đàn. Tất cả các giống loại hóa ra thành Như Lai. Khi ấy bỗng thấy đức Tỳ Lư Giá Na ngồi trên đài thiên quang, nghìn đức Phật nhiễu chung quanh. Trăm ức quốc độ cùng các hoa sen đồng thời xuất hiện. Ấy gọi là tâm hồn linh ngộ nhiễm thành(1). Tâm quang sáng chói, chiếu các thế giới.
(1) Trước đọc trong kinh, nhớ trong tâm, nhờ sáng hiện ra cảnh.
Tạm thời được như vậy, không phải là chứng thánh. Đừng khởi tâm cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt. Nếu cho là thánh, liền bị quần tà.
E/ - Hư không hóa thành sắc báu:
Lại do tâm ấy, tinh nghiên diệu minh, xem xét không dừng, đè nén, hàng phục, vắng ép quá phần. Lúc đó bỗng nhiên mười phương hư không hoá thành bảy sắc báu, hoặc trăm sắc, đồng thời đầy khắp, chẳng chướng ngại nhau. Các màu xanh, vàng, đỏ, trắng đều hiển hiện. Đó là công lực đè ép quá phần. Tạm được như vậy, không phải là chứng thánh. Đừng khởi tâm cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt. Nếu cho là thánh, liền bị quần tà.
F/ - Trong tối thấy vật:
Lại do tâm đó, nghiên cứu triệt để, tinh quang chẳng loạn. Bỗng lúc nửa đêm, ở trong nhà tối, thấy các đồ vật, chẳng khác ban ngày. Mà vật trong nhà tối cũng chẳng mất. Đó là tế tâm mật trừng, xem thấy rỗng suốt.
Tạm được như vậy, không phải là chứng thánh. Đừng khởi tâm cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt. Nếu cho là thánh, liền bị quần tà.
G/ - Thân giống như cây cỏ:
Lại do tâm đó, tiến vào, mãn phần vào nơi rỗng thông. Chân tay bỗng nhiên giống như cây cỏ, lửa đốt dao cắt không hề biết. Lửa sáng thiêu cũng không nóng, dao cắt thịt như đốn cây.
Đó là tiêu bỏ trần cảnh và xô dẹp tứ đại, một mặt thuần túy. Tạm được như vậy, không phải là chứng thánh. Đừng khởi tâm cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt. Nếu cho là thánh, liền bị quần tà.
H/ - Nhìn thấy thế giới và Phật:
Lại do tâm đó, thành tựu thanh tịnh, lắm công tịnh tâm. Bỗng nhiên thấy núi sông, đất bằng mười phương đều thành nước Phật, đầy đủ bảy món báu, sáng chói khắp cả. Lại thấy hằng sa Phật đầy dãy hư không, lầu các tốt đẹp.
Nhìn xuống thấy địa ngục, xem trên thiên cung, được không chướng ngại. Đó là tại mong thấy cõi Phật, tư tưởng lâu ngày hóa thành. Không phải là chứng thánh. Đừng khởi tâm cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt. Nếu cho là thánh, liền bị quần tà.
I/ - Nghe được xa:
Lại do tâm ấy, nghiên cứu sâu xa. Bỗng ban đêm xa thấy làng xóm, tỉnh, chợ, đường xá, thân tộc, quyến thuộc, hoặc nghe tiếng nói. Đó là bức tâm, đè nén tâm quá, tâm bay xa, nên thấy chỗ xa. Không phải là chứng thánh. Đừng khởi tâm cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt. Nếu cho là thánh, liền bị quần tà.
J/ - Thấy Thiện tri thức:
Lại do tâm ấy, nghiên cứu tinh cực, thấy thiện tri thức(1), hình thể dời đổi, trong chốc lát bỗng nhiên thay đổi nhiều cách. Đó là tà tâm bị yêu mỵ, hoặc mắc thiên ma vào trong tâm phúc, bỗng dưng thuyết pháp, thông đạt nghĩa mầu.
(1) Phật, Bồ Tát, thầy.
Không phải là chứng thánh. Đừng khởi tâm cho là thánh, ma sự dứt hết. Nếu cho là thánh, liền bị quần tà.
3) - Kết:
Ông A Nan! Mười cảnh trên, khi tu Thiền Na, đều bởi dụng công phá sắc ấm, nên hiện ra các việc như vậy. Chúng sinh ngu mê, chẳng tự so lường, gặp nhân duyên ấy, mà chẳng tự biết. Xưng là chứng thánh, thành tội đại vọng ngữ, bị đọa ngục Vô Gián.
Sau khi Phật diệt độ, trong đời mạt pháp, các ông nên tỏ nói nghĩa ấy. Đừng để cho Thiên Ma có dịp len vào phá. Giữ gìn, ủng hộ người tu thành đạo vô thượng.

b) - Thụ ấm ma:
3 phần:
1) - Phá thụ ấm.
2) - Mười trường hợp.
3) - Kết.
1) - Phá thụ ấm:
A/ - Lúc chưa phá:
i/ - Nối sắc ấm:
Ông A Nan! Người thiện nam đó tu Tam Ma Đề và Sa Ma Tha, sắc ấm hết, nhìn thấy tâm chư Phật như trong gương sáng hiển hiện các vật.
ii/ - Chỉ thụ ấm:
Như có chỗ sở đắc mà chưa thể dùng được, ví như ngủ bị bóng đè, chân tay vẫn đủ, thấy nghe không lầm, mà không thể cử động được.
Đó là bị buộc trong thụ ấm.
B/ - Phá:
Nếu hết bóng đè, thì tâm dời thân, trở lại xem mặt, đi ở tự do, không còn lưu ngại.
Đó là thụ ấm hết.
Người đó siêu việt kiến trọc.
Xem sở nhân, hư minh vọng tưởng làm gốc.
2) - Mười trường hợp:
A/ - Ép mình sinh ra buồn:
Ông A Nan! Người thiện nam đó, đương ở lúc thụ ấm chưa bị phá, được rất sáng chói, tâm ấy phát minh. Bị đè ép quá phần, bỗng phát buồn vô cùng. Đến nỗi coi ruồi muỗi như con nhỏ, thương xót đến chảy nước mắt. Đó là dụng công đè nén quá đáng. Hễ biết thì không lỗi gì. Không phải là chứng thánh. Hễ chẳng mê thì tự tiêu. Nếu cho là thánh thì có ma bi vào trong tâm phủ. Thấy người thì buồn, than khóc thảm thiết. Mất chính thụ, sẽ bị chìm đắm.
B/ - Nâng mình lên ngang Phật:
Ông A Nan! Lại trong cảnh định, các thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu, thụ ấm minh bạch, thắng tướng hiện tiền. Cảm kích quá phần, bỗng sinh tâm mạnh mẽ vô hạn, chí tầy các đức Phật. Cho là một niệm có thể vượt khỏi ba vô số kiếp. Đó là vì công phu hăng hái cố tiến, gắng quá.
Tỉnh ngộ thì không lỗi. Chẳng phải là chứng thánh. Hễ chẳng mê, cảnh ấy tự tiêu hết. Nếu cho là thánh, thì có ma cuồng vào trong tâm phủ. Thấy người là khoe khoang, kiêu ngạo, ngã mạn, không ai bằng.
Tâm ấy trên chẳng thấy Phật, dưới chẳng thấy người. Mất chính định, sẽ bị chìm đắm.
C/ - Trong định hay nhớ:
Lại trong định, các Thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu, thụ ấm minh bạch, trước không thấy cảnh giới mới chứng, lui lại thì mất địa vị cũ, sức trí kém mòn, giữa chừng bị trụy, không thấy gì cả. Trong tâm bỗng nhiên sinh rất khô khan, suốt ngày nhớ mãi không tan, lấy làm siêng năng.
Đó là tu tâm không tuệ, tự mất phương tiện. Biết thì không lỗi. Không phải chứng thánh. Nếu cho là thánh thì có ma nhớ vào trong tâm phủ. Sáng chiều tập trung tâm ở một chỗ. Mất chính định, sẽ bị chìm đắm.
D/ - Tuệ đa cuồng:
Lại trong định, các thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu, thụ ấm minh bạch, tuệ lực nhiều hơn định, mất dũng mạnh, do tính hiếu thắng ưa hơn người ta, để trong tâm, cho là mình giỏi ngang với Phật Lư Xá Na. Được chút ít đã cho là đủ. Đó là dụng tâm, bỏ mất hằng xét nét, đắm nơi tri kiến. Biết thì không lỗi. Không phải chứng thánh. Nếu cho là thánh, thì có ma hèn, tự lấy làm đủ, vào trong tâm phủ. Thấy người tự nói: ta được đệ nhất nghĩa đế vô thượng. Mất chính định. Sẽ bị chìm đắm.
E/ - Thấy gian hiểm, hay lo:
Lại trong định, các thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu, thụ ấm minh bạch. Sự chứng mới chưa được, tâm cũ đã mất. Xem hai chỗ đó, tự sinh gian hiểm. Bỗng nhiên tâm sinh lo vô cùng, như ngồi giường sắt, như uống thuốc độc, lòng chẳng muốn sống. Thường cầu người để hại mạng mình, mau được giải thoát.
Đó là tu hành sai mất phương tiện. Biết thì không lỗi. Không phải chứng thánh. Nếu cho là thánh, thì có ma hay lo rầu vào trong tâm phủ.
Tay cầm đao kiếm, tự cắt thịt mình, muốn bỏ thọ mạng. Hoặc thường lo buồn chạy vào rừng rú, chẳng chịu thấy người. Mất chính định. Sẽ bị chìm đắm.
F/ - Thấy an lành, hay mừng:
Lại trong định, các thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu, thụ ấm minh bạch. Ở trong cảnh thanh tịnh, tâm yên lành rồi. Bỗng nhiên tự sinh mừng vô hạn. Trong tâm vui mừng, không thể ngăn được. Đó là an lành, không có tuệ để tự cấm.
Tỉnh ngộ thì không lỗi. Không phải chứng thánh. Nếu cho là thánh, thì có ma ưa vui mừng vào trong tâm phủ. Thấy người thì cười, múa hát ngoài đường. Tự cho là đã được giải thoát vô ngại. Mất chính định. Sẽ bị chìm đắm.
G/ - Thấy hơn khinh người:
Lại trong định, các thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu, thụ ấm minh bạch. Tự cho mình đầy đủ. Bỗng dưng đại ngã mạn(1) khởi lên, nào ngạo mạn người ngang mình, ngạo mạn người hơn mình, hoặc ngạo mạn tăng lên, hoặc ngạo mạn thấy hèn, đồng thời phát ra.
(1) Kiêu quá đáng. Khinh người kém, bằng, cả người hơn mình.
Trong tâm dám kinh mười phương Như Lai, huống chi các bậc thấp là Thanh Văn, Duyên Giác. Đó là khí bồng bột thấy mình hơn, không có tuệ để cứu.
Tỉnh ngộ thì không lỗi. Không phải chứng thánh. Nếu cho là thánh, thì có ma đại ngã mạn vào trong tâm phủ. Chẳng lễ tháp miếu, phá hư kinh, tượng Phật. Bảo các cư sĩ:
"Đó là kim đồng, hoặc là gỗ, kinh là lá cây, hoặc là vải. Nhục thân chân thường, sao chẳng tự cung kính, trở lại thờ những chất gỗ, thật là điên đảo". Những người quá tin theo phá bỏ kinh và tượng Phật, hay đem chôn. Nghi ngộ chúng sinh, vào ngục vô gián. Mất chính định. Sẽ bị chìm đắm.
H/ - Tuệ an, tự cho là đủ:
Lại trong định, các thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu, thụ ấm minh bạch. Trong cảnh tinh minh, viên ngộ tinh lý, được rất tùy thuận(1). Tâm bỗng sinh khoan khoái vô cùng. Nói thành thánh, được rất tự tại.
(1) Được tự tại, tùy ý.
Đó là nhân tuệ được khinh thanh.
Tỉnh ngộ thì không lỗi. Không phải chứng thánh. Nếu cho là thánh, thì có một phần ma ưa khinh thanh vào trong tâm phủ, tự cho là đầy đủ, chẳng cầu tiến nữa.
Những hạng ấy phần nhiều là Tỳ Kheo không có học hỏi, khiến chúng sinh nghi ngờ, bị đọa ngục vô gián. Mất chính định, sẽ bị chìm đắm.
I/ - Chấp không phá giới:
Lại trong định, các thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu, thụ ấm minh bạch. Trong cảnh minh ngộ, được cái tính cách rỗng thông sáng suốt. Bỗng dưng quay về cảnh vĩnh diệt(2), bác không có nhân quả, một mạch vào không, không tâm hiện tiền, cho đến sinh cái hiểu biết hằng đoạn diệt.
(2) Dứt bặt hết, không còn gì hết. Như tro tắt lạnh.
Tỉnh ngộ thì không lỗi. Không phải chứng thánh. Nếu cho là thánh thì có ma không vào trong tâm phủ. Chê người trì giới, nói là tiểu thừa. Bồ Tát giác ngộ không, cần gì trì phạm. Người ấy thường ở nhà tín tâm đàn việt, uống rượu, ăn thịt, hay làm những sự dâm uế. Vì sức ma thu nhiếp các người kia, không sinh nghi báng. Ma quỷ nhập tâm đã lâu, hoặc ăn những đồ nhơ nhớp, cũng như là rượu thịt. Một mặt đều không, phá luật nghi Phật. Làm cho người bị lầm, mắc tội.
Mất chính định, sẽ bị chìm đắm.
J/ - Chấp có buông dâm:
Lại trong định, các thiện nam tử thấy sắc ấm tiêu, thụ ấm minh bạch. Tham đắm nơi cảnh hư minh, cảnh đó thâm nhập trong tâm cốt. Tâm đó bỗng dưng thấy yêu vô cùng. Yêu đến cùng cực phát cuồng, bèn làm những tham dục. Đó là định cảnh an thuận nhập tâm(1), không tuệ để giữ, lầm vào các dục.
(1) Yên vui, êm ái, say mê trong cảnh đó, lầm bước qua các sự dục.
Tỉnh ngộ thì không lỗi. Không phải chứng thánh. Nếu cho là thánh, có ma dâm dục vào trong tâm phủ. Chuyên nói tham dục là đạo Bồ Đề, giáo hóa các người bạch y bình đẳng(2) làm dâm, cho hành dâm là giữ pháp tử(3). Vì sức quỷ thần nên trong đời mạt pháp thu nhiếp kẻ phàm ngu, cho đến hàng nghìn hàng vạn. Ma sinh tâm nhàm chán, bỏ thân thể người ấy.
(2) Ngang nhiên.
(3) Truyền nối con cái.

Họ hết uy đức, bị mắc nạn với nước, với dân. Nghi ngộ chúng sinh, vào ngục vô gián.
Mất chính định, sẽ bị chìm đắm.
3) - Kết:
Ông A Nan! Mười cảnh Thiền Na trên đều là thụ ấm dụng tâm xoay vần, nên hiện ra việc ấy. Chúng sinh ngu mê, chẳng tự so lường, gặp nhân duyên ấy, mê chẳng tự biết, cho là chứng thánh. Thành tội đại vọng ngữ, bị đọa ngục vô gián.
Sau khi tôi diệt độ, trong đời mạt pháp, các ông cũng nên đem lời nói của Phật truyền thị cho chúng sinh được giác ngộ nghĩa ấy, chớ để Thiên Ma tìm được phương tiện.
Nên bảo trì, che chở người tu thành đạo vô thượng.

c) - Tưởng ấm ma:
4 phần:
1) - Phá tưởng ấm.
2) - Mười trường hợp.
3) - Khuyên nên cứu đời.
4) - Kết.
1) - Phá tưởng ấm:
A/ - Lúc chưa phá:
i/ - Nối thụ ấm:
Ông A Nan! Người thiện nam kia, tu Tam Ma Đề, thụ ấm hết rồi, dù chưa hết hoặc lậu, tâm đã xa hình thể(1), như chim ra khỏi lồng, đã được thành tựu. Từ phàm thân này tiến lên, trải qua 60 thánh vị Bồ Tát, được ý sinh thân(2), theo nguyện đi đến, không bị chướng ngại.
(1) Không bị buộc.
(2) Thân theo ý mình.

ii/ - Chỉ tưởng ấm:
Ví như có người nói mê khi ngủ, người đó dù không biết, mà lời nói thành tiếng làm cho người thức nghe biết.
Đó là bị buộc trong tưởng ấm.
B/ - Phá:
Nếu động niệm hết, phù tưởng tiêu trừ, đối với giác minh tâm, như bỏ bụi nhơ(1). Trước sau viên chiếu một loại sinh tử(2).
(1) Như gương bỏ bụi nhơ.
(2) 12 loại chúng sinh cùng một sinh tử, trí minh tâm soi sáng suốt.

Đó là tưởng ấm hết.
Người ấy siêu việt phiền não trọc.
Xem nguyên nhân, dung thông vọng tưởng làm gốc.
2) - Mười trường hợp:
A/ - Tham cầu thiện xảo:
Ông A Nan! Người thiện nam tử đó, thụ ấm hư diệu, chẳng mắc tà lự, viên định phát minh trong Tam Ma Địa. Tâm ưa mến viên minh, phấn khởi tinh thần cứu xét, tham cầu sự khéo giỏi.
Khi đó Thiên ma nhân dịp tiện lợi, nhập xác người, giảng kinh pháp. Người đó không biết là bị ma nhập, nói được Niết Bàn vô thượng. Đến chỗ người thiện nam cầu thiện xảo, trải tọa cụ nói pháp. Trong giây phút hiện hình, hoặc ông Tỳ Kheo cho người kia thấy, hoặc làm Đế Thích, đàn bà, hoặc Tỳ Kheo Ni, hoặc nằm trong nhà tối, thân có ánh sáng.
Người tu cầu khéo giỏi trên, ngu mê, lầm cho là Bồ Tát, tin lời nó giáo hóa, phiêu đãng(1) tâm mình, phá luật nghi Phật, âm thầm làm sự dâm dục. Ưa nói những việc tai tường quái gở, hoặc nói Như Lai chỗ đó ra đời, hoặc nói kiếp tận lửa cháy, hoặc nói đao binh, làm người ta sợ hãi, khiến cho gia tài vô cớ bị hao tổn.
(1) Làm cho sai tâm minh.
Đó là quái quỷ lâu năm thành ma, não loạn người ấy. Đến khi ma nhàm chán, bỏ xác người, đệ tử với thầy đều bị nạn vua phép nước.
Ông phải biết trước mới khỏi luân hồi.
Mê hoặc không biết, đoạ ngục vô gián.
B/ - Tham cầu du lịch:
Ông A Nan! Lại người thiện nam, thụ ấm hư diệu, chẳng mắc tà lự, viên định phát minh trong Tam Ma Địa. Tâm ưa mến du đãng, phấn khởi tinh thần cứu xét, tham cầu sự từng trải.
Khi đó Thiên ma nhân dịp tiện, nhập xác người, giảng kinh pháp. Người đó không biết là bị ma nhập, nói được Niết Bàn vô thượng. Đến chỗ người thiện nam cầu du lịch, trải tọa cụ nói pháp. Hình nó không thay đổi. Người nghe pháp bỗng thấy thân mình ngồi trên hoa sen báu, toàn thể hóa thành sắc vàng. Cả chúng nghe pháp đều được như vậy, cho là được chưa từng có.
Người nghe ngu mê, lầm cho là Bồ Tát, dâm dật tái tâm mình(1), phá luật nghi Phật, âm thầm làm dâm dục.
1) Tâm lơi lả, bỏ định.
Người ma ưa nói các Phật ứng thế, chỗ đó, người ấy, là vị Phật đó hóa thân đến đấy.
Người đó tức là vị Bồ Tát ấy đến hóa trong nhân gian. Thiện nam thấy vậy, tâm sinh khao khát, tà kiến âm thầm khởi lên, chưởng trí(2) bị tiêu diệt. Đó là bạt quỷ(3) lâu năm thành ma, não loạn người đó. Đến khi ma nhàm chán, bỏ xác người, đệ tử với thầy đều bị nạn vua phép nước.
(2) Chính trí.
(3) Quỷ làm sự dâm nhiều.

Ông phải biết trước mới khỏi luân hồi.
Mê hoặc không biết, đọa ngục vô gián.
C/ - Tham cầu khế hợp:
Lại người thiện nam, thụ ấm hư diệu, chẳng mắc tà lự, viên định phát minh trong Tam Ma Địa. Tâm ưa mến thầm hợp, càng chuyên tinh thần cứu xét, tham cầu khế hợp.
Khi đó Thiên ma nhân dịp tiện, nhập xác người, giảng kinh pháp. Người đó không biết là bị ma nhập, nói được Niết Bàn vô thượng.
Đến chỗ người thiện nam cầu hợp, trải tọa cụ nói pháp. Hình nó và những người nghe pháp, bề ngoài không dời đổi chi. Về bề trong, khiến thính giả trước khi nghe, tâm tự khai ngộ. Trong giây lát dời đổi, hoặc được túc mệnh, hoặc có tha tâm thông, hoặc thấy địa ngục, hoặc biết các việc tốt xấu trong nhân gian, hoặc nói kệ, tụng kinh. Ai nấy đều được vui mừng, thấy chưa từng có.
Thiện nam ngu mê, lầm cho là Bồ Tát, lòng lưu luyến theo, phá luật nghi Phật, âm thầm làm tham dục.
Người ma ưa nói Phật có lớn nhỏ, các vị Phật trước sau, trong đó các Phật chân, giả, trai gái. Bồ Tát cũng vậy.
Thiện nam thấy vậy, đổi mất bản tâm, dễ vào nơi tà ngộ.
Đó là mỵ quỷ lâu năm thành ma, não loạn người ấy. Đến khi nhàm chán, ma bỏ xác người, đệ tử với thầy đều bị nạn vua phép nước.
Ông phải biết trước mới khỏi luân hồi.
Mê hoặc không viết, đọa ngục vô gián.
D/ - Tham cầu biện bạch, phân tích:
Lại người thiện nam, thụ ấm hư diệu, chẳng mắc tà lự, viên định phát minh trong Tam Ma Địa. Tâm ưa căn bản, xem xét cho cùng tận sự biến hóa của sự vật, về tính chất thủy chung. Tâm ấy càng tinh sáng, tham cầu biện bạch, phân tích.
Khi đó Thiên ma nhân dịp tiện, nhập xác người, giảng kinh pháp. Người đó không biết là bị ma nhập, nói được Niết bàn vô thượng. Đến chỗ người thiện nam cầu biện bạch, trải tọa cụ nói pháp.
Thân nó có uy thần, triết phục các người cầu, khiến cho dưới pháp tọa, dù chưa nghe pháp, tự nhiên tân đã phục.
Các người ấy cho là Phật, Bồ Đề, Niết Bàn, Pháp thân tức là thân thịt hiện tiền của ta. Cha cha, con con thay đổi sinh nhau, tức là pháp thân thường trú bất tuyệt. Cõi hiện tại là xứ Phật. Không có cõi tịnh nào riêng, và không có tướng sắc vàng.
Người nghe tin chịu, bỏ mất tâm trước, thân mệnh quy y, được chưa từng có.
Thiện nam ngu mê, lầm cho là Bồ Tát, xem xét cái tâm ấy, phá luật nghi Phật, âm thầm làm tham dục.
Người ma ưa nói: mắt, tai, mũi, lưỡi đều là tịnh độ, nam căn, nữ căn tức là chỗ Bồ Đề, Niết Bàn. Các người nghe không biết, tin lời uế ngôn ấy.
Đó là ác quỷ Cổ Độc yểm thắng lâu năm thành ma, não hại người đó.
Đến khi nhàm chán, ma bỏ xác người, đệ tử với thầy đều bị nạn vua phép nước.
Ông A Nan! Ông phải biết trước, mới khỏi luân hồi.
Mê hoặc không biết, đọa ngục vô gián.
E/ - Tham cầu minh cảm:
Lại người thiện nam, thụ ấm hư diệu chẳng mắc tà lự, viên định phát minh trong Tam Ma Địa, tâm ưa cảm ứng(1), cứu xét tinh vi chẳng dứt, tham cầu minh cảm.
1) Trong định mà tâm ưa muốn khởi lên, là hỏng.
Khi đó, Thiên ma nhân dịp tiện, nhập xác người, giảng kinh pháp. Người đó không biết là bị ma nhập, nói được Niết Bàn vô thượng.
Đến chỗ người thiện nam cầu cảm ứng, trải tọa cụ nói pháp.
Ma có thể khiến cho người nghe tạm thời thấy thân người đó như cả trăm, nghìn tuổi.
Lòng người nghe sinh yêu mến, không dời xa được, thân làm đầy tớ, cúng dường bốn thứ: ăn mặc, áo quần, thuốc men, đồ dùng, chẳng ngại khó nhọc. Khiến người nghe thấy là Tiên sư, là Thiện tri thức, hết sức mến yêu, thiết tha như keo sơn, được cái chưa từng có.
Thiện nam ngu mê, lầm cho là Bồ Tát, lòng hằng thân cận, phá luật nghi Phật, âm thầm làm tham dục.
Ma ưa nói: đời trước, ta sinh nơi đó, độ người này, người nọ, đương thời là vợ, là anh em với ta. Nay đến độ nhau. Đem nhau về thế giới của ta, cúng dường Phật ở đó. Hoặc nói riêng có trời đại quang minh, Phật ở đó, chư Phật nghỉ ở đó.
Người nghe không biết, tin lầm lời dối trá, quên mất bản tâm.
Đó là lệ quỷ lâu năm thành ma, não loạn người đó.
Đến khi nhàm chán, ma bỏ xác người, đệ tử với thầy đều bị nạn vua phép nước.
Ông A Nan! Ông phải biết trước, mới khỏi luân hồi.
Mê hoặc không biết, đọa ngục vô gián.
F/ - Tham cầu tĩnh mật:
Lại người thiện nam, thụ ấm hư diệu, chẳng mắc tà lự, viên định phát minh trong Tam Ma Địa. Tâm ưa thâm nhập, buộc mình khó nhọc, ưa ở chỗ vắng vẻ, tham cầu tĩnh mịch.
Khi đó, Thiên ma nhân dịp tiện, nhập xác người, giảng kinh pháp. Người đó không biết là bị ma nhập, nói được Niết Bàn vô thượng. Đến chỗ người thiện nam, trải tọa cụ nói pháp. Khiến người nghe đều biết bản nghiệp. Gọi một người trong chúng, bảo: "Nay ngươi chưa chết mà đã hóa làm súc sinh". Rồi sai một người đứng đằng sau đạp đuôi, làm người ấy đứng dậy không được.
Cả đám người nghe đều khâm phục, kính sợ. Có người khởi tâm nghĩ chi, nó đã biết. Ngoài luật nghi của Phật, càng thêm tinh khổ. Chê bai Tỳ Kheo, mắng nhiếc đồ chúng. Tỏ lộ việc người, chẳng tránh hiềm khích(1). Ưa nói các việc họa phúc chưa đến, sau thấy đúng không sai.
(1) Ai có lỗi, cứ nói thẳng, nói quá.
Đó là đại lực quỷ lâu năm thành ma, não loạn người đó.
Đến khi nhàm chán, ma bỏ xác người, đệ tử với thầy đều bị nạn vua phép nước.
Ông A Nan! Ông phải biết trước, mới khỏi luân hồi.
Mê hoặc không biết, đọa ngục vô gián.
G/ - Tham cầu túc mệnh:
Lại người thiện nam, thụ ấm hư diệu, chẳng mắc tà lự, viên định phát minh trong Tam Ma Địa. Tâm ưa tri kiến, siêng khổ nghiên tầm, tham cầu túc mệnh(2).
(2) Thích tìm hiểu, biết rộng, đời trước và sau mình.
Khi đó, Thiên ma nhân dịp tiện, nhập xác người, giảng kinh pháp. Người đó không biết là bị ma nhập, nói được Niết Bàn vô thượng. Đến chỗ người thiện nam, trải tọa cụ nói pháp. Người nghe bỗng nhiên được hòn ngọc báu nơi chỗ thuyết pháp. Ma đó hoặc có khi hóa làm súc sinh, miệng ngậm ngọc báu và các của báu như là sách, bùa, các vật quý lạ, trước đem trao cho người nghe, rồi sau nhập xác người đó. Hoặc cám dỗ những người nghe, chôn dưới đất hòn ngọc minh nguyệt sáng chói chỗ ấy. Các người nghe được chưa từng có. Thường ăn toàn rau, không ăn cơm.
Hoặc có khi một ngày chỉ ăn một hạt vừng hay một hạt gạo, mà thân thể vẫn béo mạnh, vì sức ma hộ trì. Chê bai Tỳ Kheo, mắng nhiếc đồ chúng, chẳng tránh hiềm khích.
Thích nói: "Phương khác có kho báu do các vị Thánh Hiền ở mười phương dấu cất". Theo sau nó thường thấy có các người kỳ dị. Đó là Sơn Lâm, Thổ Địa, Thành Hoàng, Xuyên Nhạc, Quỷ thần lâu năm thành ma. Hoặc có tỏ ra sự dâm dục, phá giới luật Phật. Với học trò, âm thầm làm sự ngũ dục. Hoặc có tinh tiến, thuần ăn cây cỏ. Những việc làm không có nhất định. Não loạn người đó. Đến khi nhàm chán, ma bỏ xác người, đệ tử với thầy đều bị nạn vua phép nước.
Ông A Nan! Ông phải biết trước, mới khỏi luân hồi. Mê hoặc không biết, đọa ngục vô gián.
H/ - Tham cầu thần lực:
Lại người thiện nam, thụ ấm hư diệu, chẳng mắc tà lự, viên định phát minh trong Tam Ma Địa. Tâm thích thần thông, các phép biến hóa, nghiên cứu cội nguồn biến hóa, tham lấy thần lực.
Khí đó, Thiên ma nhân dịp tiện, nhập xác người, giảng kinh pháp. Người đó không biết là bị ma nhập, nói được Niết Bàn vô thượng. Đến chỗ người thiện nam, trải tọa cụ nói pháp. Người ấy hoặc tay nắm lửa sáng chia để trên đầu các người nghe. Lửa sáng dài hơn vài thước trên đầu mỗi người, mà không thấy nóng, không bị cháy. Hoặc đi trên nước như đất bằng. Hoặc giữa hư không ngồi yên chẳng động. Hoặc vào trong bình, hoặc ở trong đẫy, hoặc đi qua tường vách, không hề chướng ngại. Chỉ đối với đao binh, chẳng được tự tại.
Ma tự nói là Phật. Thân mặc áo trắng, để các Tỳ Kheo làm lễ. Chê bai người tu thiền luật. Mắng nhiếc đồ chúng. Phát lộ việc người, chẳng tránh hiềm khích.
Thường nói thần thông tự tại. Hoặc khiến người ở nơi bên thấy Phật độ. Sức quỷ mê hoặc người, chẳng phải có chân thật. Khen ngợi những việc hành dâm, chẳng bỏ thô hạnh. Đem việc ô nhớp, cho là truyền pháp.
Đó là Thiên địa đại lực, Sơn tinh, Hải tinh, Phong tinh, Hà tinh, Thổ tinh, tất cả cây cối sống lâu nhiều kiếp đều có thể thành tinh mỵ, hoặc long mỵ, hoặc Tiên mãn số, sống lại làm mỵ, hoặc Tiên đến lúc chết, hình không tản, có con quái chi khác nhập vào xác, lâu năm thành ma, não loạn người đó.
Đến khi nhàm chán, ma bỏ xác người, đệ tử với thầy đều bị nạn vua phép nước. Ông A Nan! Ông phải biết trước, mới khỏi luân hồi.
Mê hoặc không biết, đọa ngục vô gián.
I/ - Tham cầu thâm không:
Lại người thiện nam, thụ ấm hư diệu, chẳng mắc tà lự, viên định phát minh trong Tam Ma Địa. Tâm ưa nhập diệt, nghiên cứu tinh biến hóa, tham cầu thâm không(1).
(1) Tịch diệt, cái không sâu hơn.
Khi đó Thiên ma nhân dịp tiện, nhập xác người, giảng kinh pháp. Người đó không biết là bị ma nhập, nói được Niết Bàn vô thượng. Đến chỗ người thiện nam, trải tọa cụ nói pháp. Giữa đại chúng hình nó bỗng biến mất, chúng không trông thấy. Lại từ nơi hư không hiện ra, còn mất tự tại. Hoặc hiện thân trong suốt như ngọc lưu ly. Hoặc đưa tay chân, có mùi hương Chiên Đàn. Hoặc đại tiểu tiện như đường phèn. Chê bai giới luật, khinh bỉ người xuất gia. Thường nói không nhân không quả. Một phen chết rồi, mất hẳn, không còn thân sau. Các phàm thánh dù được không tịch, âm thầm làm sự tham dục. Người thụ dục cũng được không tâm. Bác không nhân quả.
Đó là tinh khí nhật thực, nguyệt thực, kim thạch, chỉ thảo, hoặc lân, phụng, rùa, hạc trải qua nghìn muôn năm chẳng chết, hóa ra linh, xuất sinh trong quốc độ, lâu năm thành ma, não loạn người đó.
Đến khi nhàm chán, ma bỏ xác người, đệ tử với thầy đều bị nạn vua phép nước.
Ông A Nan! Ông phải biết trước, mới khỏi luân hồi.
Mê hoặc không biết, đọa ngục vô gián.
J/ - Tham cầu sống lâu:
Lại người thiện nam, thụ ấm hư diệu, chẳng mắc tà tự, viên định phát minh trong Tam Ma Địa. Tâm thích sống lâu, khó nhọc nghiền ngẫm, tham cầu sống lâu, bỏ thân sinh tử phân đoạn, mong được thân biến dịch, tế tướng thường còn(1).
(1) Bỏ thân phàm, được thân chỉ thay đổi tướng từ quả này sang quả khác.
Khi đó Thiên ma nhân dịp tiện, nhập xác người, giảng kinh pháp. Người đó không biết là bị ma nhập, nói được Niết Bàn vô thượng.
Đến chỗ người thiện nam, trải tọa cụ nói pháp. Thích nói phương khác, qua lại không có trệ ngại. Hoặc qua muôn dặm, nháy mắt trở lại, đến phương xa lấy đồ vật. Hoặc nơi một chỗ, trong một nhà, khoảng vài bước, khiến từ phương Đông sang phương Tây, đi mau tới nhiều năm chẳng đến.
Vì thế người nghe tin, nghi là Phật hiện tiền. Thường nói mười phương chúng sinh đều là con ta. Ta sinh các đức Phật. Ta xuất hiện ra thế giới. Ta là ông Phật đầu, xuất thế tự nhiên, chẳng nhân tu được.
Đó là Tự Tại Thiên ma ở đời, khiến các quyến thuộc như Gia Văn Tra và Tỳ Xá đồng tử của bốn Thiên Vương, họ chưa phát tâm, có sức định hư minh thụ hưởng tinh khí; hoặc có khi hiện hình cho người tu hành xem thấy. Xưng là Chấp Kim Cương, cho ngươi sống lâu. Hiện thân mỹ nữ, thịnh hành tham dục. Chưa được một năm, cân não đã khô kiệt. Nói chuyện một mình. Nghe yêu mỵ, người khác không hiểu. Nhiều khi bị nạn vua phép nước. Chưa kịp xử hình mà đã chết khô. Não loạn người cho đến chết.
Ông A Nan! Ông phải biết trước, mới khỏi luân hồi.
Mê hoặc không biết, đọa ngục vô gián.
3) - Khuyên nên cứu đời:
Ông A Nan! Nên biết rằng:
Mười thứ ma đó, nơi đời mạt pháp, ở trong pháp tôi, xuất gia tu đạo, hoặc nhập xác người, hoặc tự hiện hình, đều nói đã thành Chính Biến Tri Giác. Khen ngợi việc dâm dục, phá luật nghi Phật. Thầy ma, trò ma, truyền nhau hành dâm. Đó là tà tinh, yêu mỵ trong tâm phủ, gần thì chín đời, nhiều nữa hơn 100 đời. Khiến người chân tu hành đều làm quyến thuộc ma. Sau khi chết quyết làm dân ma, mất chính biến tri, bị đọa ngục vô gián.
Nay các ông chưa nên lấy tịch diệt trước. Dù được quả vô học, phải nguyện ở lại, vào trong đời mạt pháp, khởi tâm đại từ bi, cứu độ chúng sinh chính tâm, thâm tín, khiến chẳng bị ma, được chính tri kiến.
Nay tôi độ các ông đã vượt khỏi sinh tử, các ông phải tuân lời của Phật. Đó là đền trả ân Phật.
4) - Kết:
Ông A Nan! Mười cảnh thiền ma trên đều là tưởng ấm dụng tâm xoay vần, nên hiện ra việc ấy. Chúng sinh ngu mê, chẳng tự so lường, gặp nhân duyên ấy, mê chẳng tự biết, cho là chứng thánh. Thành tội đại vọng ngữ, bị đọa ngục vô gián.
Sau khi tôi diệt độ, trong đời mạt pháp, các ông cũng nên đem lời nói của Phật truyền thị cho chúng sinh được giác ngộ nghĩa ấy, chớ để Thiên ma tìm được phương tiện.
Nên bảo trì, che chở người tu hành đạo vô thượng.

d) - Hành ấm ma:
3 phần:
1) - Phá hành ấm.
2) - Mười chấp.
3) - Kết.
1) - Phá hành ấm:
A/ - Lúc chưa phá:
i/ - Nối tưởng ấm:
Ông A Nan! Người thiện nam kia, tu Tam Ma Đề, tưởng ấm hết rồi. Người ấy bình thường mộng tưởng tiêu diệt, ngủ và thức như một, giác minh trống rỗng, yên lặng, dường như không tạnh, không còn có ảnh thô trọng của tiền trần(1).
(1) Như trời quang, hư không vẩn chút mây.
Xem các núi sông, đại địa ở thế gian như gương soi sáng. Vật đến không bị dính, vật đi không còn dấu vết. Đến thì soi, đi thì mất, như gương soi các vật.
Rõ ràng tập khí cũ về trần cảnh không còn. Chỉ còn một thể tinh chân.
ii/ - Chỉ hành ấm:
Cái căn nguyên sinh diệt từ đó tỏ bày, thấy 12 loài chúng sinh ở mười phương, cùng tột các loài ấy. Dù chưa thông mối manh các mạng căn của họ. Thấy đồng một nền tảng sinh ra, cùng bị thiên lưu, dường như ánh sáng lóng lánh, là cái chỗ then chốt của trong thân.
Đó là bị buộc trong hành ấm.
B/ - Phá:
Như cái trạng thái ánh nắng lóng lánh, căn nguyên tính ấy, tiến nào nơi nguyên trạm.
Hễ một phen mà đã lắng hết các căn nguyên tập khí, ví dụ như hết sóng thì hóa ra nước đứng(1).
(1) Khi tâm đứng lặng, không có xao xuyến, hết hành ấm.
Đó là hành ấm hết.
Người ấy siêu việt chúng sinh trọc(2).
(2) Không bị làm chúng sinh nữa.
Xem nguyên nhân, u ẩn(3) vọng tưởng làm gốc.
(3) Âm thầm, kín đáo, mình không thấy, nhận biết rõ.
2) - Mười chấp:
A/ - Hai thứ vô nhân:
i/ - Nêu:
Ông A Nan! Nên biết: Các người thiện nam trong Tam Ma được chính tri ấy, chính tâm yên lặng, sáng suốt. Mười loại Thiên ma chẳng tìm được chỗ tiện. Mới được tinh nghiên cùng tột căn bản của 12 loài sinh. Đối trong bản loại, cái sinh cơ căn nguyên tỏ bày. Xem kia cái trạng thái u(1)-thanh viên động(2) bản nguyên. Trong cái viên nguyên, mới khởi ra cái so đọ chấp trước. Người ấy bị đọa vào hai vô nhân luận.
(1) Thăm thẳm.
(2) Rờn rợn, hơi gợn.

ii/ - Giải thích:
a/ - Gốc vô nhân:
Một là, người đó lấy gốc vô nhân. Tại sao? Người ấy đã được sinh cơ toàn phá, nhờ nhãn căn 800 công đức, thấy trong tám vạn kiếp: chúng sinh theo dòng nghiệp chảy quanh, chết chỗ đây, sinh chỗ kia. Chỉ thấy chúng sinh luân hồi trong ngần ấy. Ngoài tám vạn kiếp ra, bặt không thấy gì nữa. Bèn cho là những chúng sinh trong thế gian mười phương, ngoài tám vạn kiếp, không có nhân tự có(1).
(1) Chỉ biết đến đấy, ngoài ra không biết, chấp trong vòng đó.
Bởi so đọ, chấp trước thế, mất chính biến tri, đọa lạc vào ngoại đạo, lầm mê tính Bồ Đề.
b/ - Cuối vô nhân:
Hai là người đó thấy cuối vô nhân. Tại sao? Người ấy đối với sinh cơ, đã thấy căn nguyên, như người sinh người, chim sanh chim. Con quạ thì từ xưa nay vẫn đen, cò vẫn trắng. Người và trời vẫn đi thẳng, súc sinh vẫn đi ngang. Sắc trắng chẳng phải giặt rửa mà thành. Sắc đen chẳng phải nhuộm mà nên. Từ tám vạn kiếp, không có dời đổi. Nay hết cái hình ấy, cũng lại như vậy.
Mà tôi vẫn chẳng thấy Bồ Đề. Thế nào lại có sự thành Bồ Đề?
Mới biết ngày nay các vật tượng đều gốc không nhân.
Vì so đọ, chấp trước như thế, mất chính biến tri, đọa lạc ngoại đạo, mê lầm tính Bồ Đề.
iii/ - Kết:
Đó là thứ nhất ngoại đạo lập luận vô nhân.
B/ - Bốn thứ biến thường:
i/ - Nêu:
Ông A Nan! Các người thiện nam trong Tam Ma, chính tâm yên lặng sáng suốt. Ma chẳng tìm được chỗ tiện. Cùng tột căn bản của 12 loài sinh. Xem cái trạng thái u thanh, thường nhiễu động bản nguyên. Trong viên thường, khởi so đọ, chấp trước. Người ấy bị đọa vào luận bốn thứ biến thường.
ii/ - Giải thích:
a/ - Tâm cảnh thường:
Một là, người đó nghiên cứu cùng tột tâm cảnh, tính chất đều không có nhân. Tu tập có thể biết trong hai vạn kiếp, mười phương chúng sinh sinh diệt, đều là xoay vần, chẳng hề tan mất. Chấp cho là thường.
b/ - Tứ đại thường:
Hai là, người ấy nghiên cứu cùng tột căn nguyên của tứ đại, tính thường trụ. Tu tập có thể biết trong 4 vạn kiếp, mười phương chúng sinh sinh diệt, đều là hằng thường, chẳng hề tan mất. Chấp cho là thường.
c/ - Bát thức thường:
Ba là, người đó nghiên cứu cùng tột lục căn, Mạt Na chấp thụ, trong tâm ý thức, về chỗ bản nguyên, tính hằng thường. Tu tập có thể biết trong tám vạn kiếp, tất cả chúng sinh xoay vần chẳng mất, bản lai thường trú, đến cùng tính chẳng mất. Chấp cho là thường.
d/ - Tưởng tận thường:
Bốn là, người đó đã cùng tột cái căn nguyên của tưởng, hết cái sinh lý, lưu chỉ(1) xoay vần; sinh diệt tưởng tâm, nay đã dứt bặt, tự nhiên thành cái lý bất sinh diệt. Nhân tâm so đọ, chấp cho là thường.
(1) Lưu động xoay vần, hay đứng, đậu.
iii/ - Kết:
Vì chấp thường, mất chính biến tri, đọa lạc ngoại đạo, mê lầm tính Bồ Đề.
Đó là thứ hai ngoại đạo lập luận viên thường.
C/ - Bốn thứ điên đảo:
i/ - Nêu:
Lại các thiện nam, trong Tam Ma, chính tâm yên lặng, kiên cố. Ma chẳng tìm được chỗ tiện. Cùng tột căn bản của 12 loài sinh. Xem cái trạng thái u thanh, thường nhiễu động bản nguyên. Trong tự và tha, khởi so đọ, chấp trước. Người đó bị đọa vào bốn cái thấy điên đảo, một phần vô thường, một phần thường luận.
ii/ - Giải thích:
a/ - Ước tự tha(1):
Một là, người đó quán sát cái tâm diệu minh, khắp các cõi mười phương, trạm nhiên, cho là thần ngã hoàn toàn. Từ đó chấp là thần ngã khắp mười phương, yên lặng, sáng suốt, chẳng động. Tất cả chúng sinh trong thần ngã tâm, tự sinh, tự chết. Thì tính cách của ngã tâm là thường. Còn kia sinh diệt, thật là tính cách vô thường.
(1) Tự: thần ngã. Tha: chúng sinh.
b/ - Xét thế giới:
Hai là, người đó chẳng quán sát cái tâm, chỉ xem xét khắp cả mười phương hằng sa quốc độ, thấy cái chỗ kiếp bị hư, gọi là chủng tính vô thường hoàn toàn. Còn cái chỗ kiếp chẳng bị hư, gọi là thường hoàn toàn.
c/ - Xét trong tâm:
Ba là, người đó chỉ quan sát cái ngã tâm của mình, tinh tế nhỏ nhiệm, ví như vi trần, lưu chuyển mười phương, tính không dời đổi. Có thể khiến thân này liền sinh liền diệt, mà nó là tính chẳng hoại, gọi là ngã tính thường.
Tất cả tử sinh đều do ngã xuất sinh, gọi là tính vô thường.
d/ - Xét hành ấm và các ấm trước:
Bốn là, người đó biết tưởng ấm hết, thấy hành ấm còn lưu động. Hành ấm thường lưu động, chấp làm tính thường. Các ấm sắc, thụ, tưởng đã hết, gọi là vô thường.
iii/ - Kết:
Vì so đọ, chấp trước một phần vô thường, một phần thường như trên, đọa lạc ngoại đạo, mê lầm tính Bồ Đề.
Đó là thứ ba ngoại đạo lập luận một phần thường.
D/ - Bốn thứ hữu biên:
i/ - Nêu:
Lại các thiện nam, trong Tam Ma, chính tâm yên lặng, kiên cố. Ma chẳng tìm được chỗ tiện. Cùng tột căn bản của các loài sinh. Xem cái trạng thái u thanh, thường nhiễu động bản nguyên. Trong phận vị, khởi so đọ, chấp trước. Người đó bị đọa vào luận bốn thứ hữu biên.
ii/ - Giải thích:
a/ - Chấp quá khứ và vị lai:
Một là người đó tâm chấp cái sinh nguyên(1) lưu dụng chẳng dứt. Chấp quá khứ và vị lai, là hữu biên. Chấp tâm tương tục là vô biên.
(1) Căn nguyên.
b/ - Chấp thấy nghe:
Hai là người đó quán sát trong tám vạn kiếp thì thấy chúng sinh. Trước tám vạn kiếp bặt không thấy nghe gì. Chỗ không thấy nghe, cho là vô biên. hỗ có thấy nghe, cho là hữu biên.
c/ - Ta và người:
Ba là người đó chấp cái ngã khắp biết, được tính vô biên. Tất cả người bị ngã biết, mà ngã không hay họ có tính biết riêng. Nên cho là họ không có tính vô biên, họ chỉ là tính hữu biên.
d/ - Mọi vật trong thế giới:
Bốn là người đó cùng tột cái hành ấm không, do cái chỗ sở kiến, tâm lộ tính xem xét, so sánh tất cả chúng sinh, trong một thân đều có một nửa sinh, một nửa diệt. Rõ biết mọi vật trong thế giới đều một nửa hữu biên, một nửa vô biên.
iii/ - Kết:
Vì so đọ, chấp trước hữu biên, vô biên, đọa lạc ngoại đạo, mê lầm tính Bồ Đề.
Đó là thứ tư ngoại đạo lập luận hữu biên.
E/ - Bốn thứ kiểu loạn:
i/ - Nêu:
Lại các thiện nam, trong Tam Ma, chính tâm yên lặng, kiên cố. Ma chẳng tìm được chỗ tiện. Cùng tột căn bản của các loài sinh. Xem cái trạng thái u thanh, thường nhiễu động bản nguyên. Trong tri kiến, khởi so đọ, chấp trước. Người đó bị đọa vào bốn thứ điên đảo, bất tử kiểu loạn, biến kế hư luận.
ii/ - Giải thích:
a/ - Tám thứ "cũng" rối loạn:
Một là người đó xem xét cái bản nguyên biến hóa; thấy cái chỗ thay đổi, gọi là "biến"; thấy cái chỗ nối nhau, gọi là "hằng"; thấy chỗ bị thấy, gọi là "sinh"; chẳng thấy chỗ bị thấy, gọi là "diệt"; chỗ tương tục không đoạn, gọi là "tăng"; chỗ tương tục có gián đoạn, gọi là "giảm"; mỗi cái có chỗ sinh, gọi là "có"; mỗi cái có chỗ diệt, gọi là "không". Lấy lý xem xét, dụng tâm thấy riêng.
Có người đến cầu pháp, hỏi nghĩa, đáp:
Tôi nay cũng sinh, cũng diệt, cũng có, cũng không, cũng tăng, cũng giảm. Các thời đều nói lộn xộn. Khiến cho người nghe quên mất chương cú.
b/ - Chỉ "vô" kiểu loạn:
Hai là người đó kỹ càng xem xét cái tâm, cái chỗ xoay vần không có. Nhân không có mà chứng được.
Có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ "không". Ngoài chữ "không", không nói gì cả.
c/ - Chỉ "thị" kiểu loạn:
Ba là người đó kỹ càng xem xét cái tâm, cái gì cũng có chỗ, nhân "có" mà chứng được. Có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ "phải". Ngoài chữ "phải" ra, không nói gì cả.
d/ - "Có, không" kiểu loạn:
Bốn là người đó đều thấy hữu, vô, vì cái cảnh phân hai, tâm cũng kiểu loạn. Có người đến hỏi, đáp:
"Cũng có" tức là "cũng không", trong "cũng không" chẳng phải "cũng có".
Tất cả kiểu loạn, không thể gạn đến cùng.
iii/ - Kết:
Vì so đọ, chấp trước kiểu loạn hư vô, đọa lạc ngoại đạo, mê lầm tính Bồ Đề.
Đó là thứ năm ngoại đạo bốn tính điên đảo, bất tử kiểu loạn, biến kế hư luận.
F/ - 16 thứ hữu tướng:
i/ - Nêu:
Lại các thiện nam, trong Tam Ma, chính tâm yên lặng, kiên cố. Ma chẳng tìm được chỗ tiện. Cùng tột căn bản của các loài sinh. Xem cái trạng thái u thanh, thường nhiễu động bản nguyên. Chỗ lưu vô tận, khởi so đọ chấp trước. Người đó bị đọa vào điên đảo hữu tướng, sau khi chết.
ii/ - Giải thích:
Hoặc tự kiên cố thân, nói sắc là ngã, hoặc thấy ngã viên mãn, trùm khắp quốc độ(1). Nói ngã có sắc. Hoặc kia tiền cảnh duyên theo ngã ứng dụng. Nói sắc thuộc ngã. Hoặc ngã nương ở trong cái hành tướng tương tục, nói là ngã ở sắc.
(1) Sắc trong ngã, ngã lớn, sắc nhỏ.
Đều so đọ, chấp trước rằng sau khi chết, có tướng. Như vậy xoay vần, có 16 tướng.
Từ ấy hoặc chấp rằng rốt ráo phiền não, rốt ráo Bồ Đề, hai tính cách đều đi đôi, chẳng có xúc ngại nhau(2).
(2) Không tương quan gì với nhau.
iii/ - Kết:
Vì so đọ, chấp trước sau khi chết rồi có tướng, đọa lạc ngoại đạo, mê lầm tính Bồ Đề.
Đó là thứ sáu ngoại đạo lập luận hữu tướng điên đảo, sau khi chết.
G/ - Tám thứ vô tướng:
i/ - Nêu:
Lại các thiện nam, trong Tam Ma, chính tâm yên lặng, kiên cố. Ma chẳng tìm được chỗ tiện. Cùng tột căn bản của các loài sinh. Xem cái trạng thái u thanh, thường nhiễu động bản nguyên. Trong chỗ diệt trừ sắc, thụ, tưởng, khởi so đọ, chấp trước, sau khi chết đọa vào vô tướng điên đảo.
ii/ - Giải thích:
Thấy sắc diệt, hình không sở nhân. Xem tưởng diệt, tâm không chỗ buộc. Biết cái thụ diệt, không còn nối liền. Tính ấm tiêu tan, dù có sinh lý, mà không thụ tưởng. Đồng như cây cỏ. Cái chất ấy hiện tiền, còn không thể được, thế nào chết rồi lại có các tướng?
Nhân đó so đọ, sau khi chết, tướng không có, như vậy xoay vần, có tám vô tướng.
Từ đó chấp rằng: Niết Bàn, nhân quả, tất cả đều không, chỉ có danh từ, hoàn toàn đoạn diệt.
iii/ - Kết:
Vì so đọ, chấp trước sau khi chết không có, đọa lạc ngoại đạo, mê lầm tính Bồ Đề.
Đó là thứ bảy ngoại đạo lập luận vô tướng điên đảo, sau khi chết.
H/ - Tám cu phi:
i/ - Nêu:
Lại các thiện nam, trong Tam Ma, chính tâm yên lặng, kiên cố. Ma chẳng tìm được chỗ tiện. Cùng tột căn bản của các loài sinh. Xem cái trạng thái u thanh, thường nhiễu động bản nguyên. Đối trong hành ấm còn, và thụ tưởng diệt, chấp cả có và không, tự thể phá nhau. Sau khi chết, người đó đọa vào luận cu phi, khởi điên đảo.
ii/ - Giải thích:
Trong sắc, thụ, tưởng, thấy có và chẳng phải có. Trong cái hành ấm thiên lưu, xem không và chẳng không. Như vậy xoay vần cùng tột ngũ ấm, 18 giới. Tám cái tướng cu phi, hễ theo được một cái, đều nói: chết rồi có tướng không tướng.
Lại chấp rằng: các hành, tính chất hay dời đổi, tâm phát ra thông ngộ, có không đều không, hư thật lầm lỗi.
iii/ - Kết:
Vì so đọ, chấp trước chết rồi đều không, hậu lai mờ mịt, không thể nói được, đọa lạc ngoại đạo, mê lầm tính Bồ Đề.
Đó là thứ tám ngoại đạo lập luận luận cu phi điên đảo, sau khi chết.
I/ - Bảy chỗ đoạn diệt:
i/ - Nêu:
Lại các thiện nam, trong Tam Ma, chính tâm yên lặng, kiên cố. Ma chẳng tìm được chỗ tiện.
Cùng tột căn bản của các loài sinh. Xem cái trạng thái u thanh, thường nhiễu động bản nguyên. Đối về sau không có, khởi so đọ, chấp trước. Người đó bị đọa vào luận bảy thứ đoạn diệt.
ii/ - Giải thích:
Hoặc chấp cái thân mất, hoặc cái dục diệt, tận, hoặc cái khổ mất, hoặc cực lạc mất, hoặc cực xả mất. Như vậy xoay vần cùng tột bảy chỗ hiện tiền tiêu diệt, mất rồi không còn nữa.
iii/ - Kết:
Vì so đọ, chấp trước chết rồi đoạn diệt, đọa lạc ngoại đạo, mê lầm tính Bồ Đề.
Đó là thứ chín ngoại đạo lập luận đoạn diệt điên đảo, sau khi chết.
J/ - Năm Niết Bàn:
i/ - Nêu:
Lại các thiện nam, trong Tam Ma, chính tâm yên lặng, kiên cố. Ma chẳng tìm được chỗ tiện.
Cùng tột căn bản của các loài sinh. Xem cái trạng thái u thanh, thường nhiễm động bản nguyên. Chấp sau khi chết phải có, khởi so đọ, chấp trước. Người đó bị đọa vào luận năm Niết Bàn.
ii/ - Giải thích:
Hoặc lấy dục giới làm Niết Bàn, xem thấy viên minh, sinh ưa mến. Hoặc lấy Sơ Thiền, vì tính không lo. Hoặc lấy Nhị Thiền, tâm không khổ. Hoặc lấy Tam Thiền, rất vui đẹp. Hoặc lấy Tứ Thiền, khổ vui đều mất, chẳng bị luân hồi, sinh diệt. Mê Trời hữu lậu, cho là vô vi. Năm chỗ an ổn, cho là thắng tịnh. Như vậy xoay vần năm chỗ.
iii/ - Kết:
Vì so đọ, chấp trước năm Niết Bàn, đọa lạc ngoại đạo, mê lầm tính Bồ Đề.
Đó là thứ mười ngoại đạo lập luận năm Niết Bàn điên đảo.
3) - Kết:
Ông A Nan! Mười thiền na cuồng giải trên đầu là hành ấm dụng tâm xoay vần, nên hiện ra các cái hiểu biết ấy. Chúng sinh ngu mê, chẳng tự đo lường, gặp cảnh ấy hiện tiền, lấy mê làm giải, cho là chứng thánh. Thành tội đại vọng ngữ, bị đọa ngục vô gián.
Sau khi tôi diệt độ, trong đời mạt pháp, các ông phải đem lời của Như Lai truyền thị cho chúng sinh rõ biết nghĩa ấy. Chớ để tâm ma tự khởi thâm nghiệp(1). Giữ gìn che chở, tiêu dứt tà kiến, khiến cho thân tâm mở mang hiểu biết nghĩa chân thật. Đối với vô thượng đạo, chẳng đi lạc đường, chớ để tâm vừa được chút ít, lấy làm đủ(2). Đó là tiêu chỉ(3) thanh tịnh của đấng Đại Giác Vương.
(1) Ma trong tâm: khó hàng phục hơn ma ở ngoài.
(2) Còn tinh tiến phá thức ma nữa, tinh tiến mãi.
(3) Ngón tay chỉ mặt trăng.


e) - Thức ấm ma:
3 phần:
1) - Phá thức ấm.
2) - Mười chấp.
3) - Kết.
1) - Phá thức ấm:
A/ - Lúc chưa phá:
i/ - Nối hành ấm:
Ông A Nan! Người thiện nam kia, tu Tam Ma Đề, hành ấm hết, các tính thế gian, u thanh(2) nhiễu động, đồng phận sinh cơ(3), bỗng nhiên phá hư giềng mối trầm tế, thân trung hữu(4) đền nghiệp trước thâm mật, cảm ứng huyền tuyệt.
(1) Các chúng sinh.
(2) Hình trạng lóng lánh.
(3) Máy móc sinh chung các loài, rất nhỏ nhiệm, vi tế: hành nghiệp.
(4) Thân trung ấm đi thụ thai trả sâu hơn hết (sâu lắm, không thấy, tìm nổi) cái nghiệp trước.

ii/ - Chỉ thức ấm:
Trời Niết Bàn đã gần sáng nhiều, ví dụ như gà gáy lần chót, nhìn về phương Đông đã có tinh sắc(5). Sáu căn hư tịnh, không còn dong duổi nữa. Trong ngoài đứng lặng và sáng suốt, tiến vào chỗ không bị vào(6). Rất thông đạt nguyên do(7) thọ mạng của 12 loại trong mười phương. Quán sát cái nguyên do ấy, chấp(8) làm chỗ bản nguyên. Các loại không cảm triệu, đi thụ thai. Nơi mười phương cõi, đã được đồng một(9). Tinh sắc chẳng trầm(10), phát hiện cái u uẩn(11).
(5) Rạng đông.
(6) Không còn chỗ nương để vào.
(7) Đó là thức, nằm yên không thoát khỏi.
(8) Còn chấp, mắc nơi thức.
(9) Các loài đồng như một, không khác gì hết.
(10) Càng tiến tới. Hết tối, đã sáng, càng sáng rõ. Trầm: bị tối nuốt.
(11) Càng sáng, càng tỏ hiện cái u uẩn.

Đó là bị buộc trong thức ấm.
B/ - Phá:
Như các loài thụ sinh cảm triệu đã nhận thấy cái chỗ đồng, tiêu ma sáu môn, khai hợp thành tựu, thấy nghe thông suốt(1), đắp đổi dụng thanh tịnh. Mười phương thế giới cùng với thân tâm như ngọc lưu ly, trong ngoài trong suốt.
(1) 1 căn là 6.
Đó là thức ấm hết.
Người đó siêu việt mệnh trọc(2)
(2) Hết sinh tử luân hồi.
Xem nguyên nhân, võng tượng(3) hư vô, điên đảo vọng tưởng làm gốc.
(3) Mơ hồ, trống rỗng, không nhận thấy.
2) - Mười chấp:
A/ - Chấp nhân và sở nhân:
Ông A Nan! Phải biết, người thiện nam đó nghiên cùng hành ấm tiêu không, đối với thức đã trở về chỗ đầu(4). Đã dứt sinh diệt(5), mà đối với tịch diệt tinh diệu chưa được viên. Có thể khiến cái thân căn của mình, căn cách hợp ly(6). Với các loại mười phương thông biết. Hiểu biết đã thông hợp(7), có thể vào nơi viên nguyên(8).
(4) Phá xong hành ấm, dứt bỏ hành động bề ngoài, dầm tiến sâu vào chỗ phát nguyên đầu của cái thức.
(5) Vọng tưởng.
(6) Chưa phá thì căn cách, phá rồi thì 1 là 6, 6 là 1.
(7) Tri giác chúng sinh thông hợp với mình, cùng đồng như nhau.
(8) Vào nơi biển thức tạng, đồng một với chúng sinh.

Nếu đối với chỗ sở quy, lập cái nhân chân thường(1), cho là thắng giải(2), thì người ấy đọa về cái chấp nhân, sở nhân. Thành bạn lữ của phái Ca Tỳ Ca La chấp "minh đế" là chỗ sở quy, mê Bồ Đề của Phật(3), bỏ mất tri kiến.
(1) Bắt đầu lầm: chấp chỗ sở nhân.
(2) Hơn nhất.
(3) Bồ Đề là trí, chứ không phải thức. Mình mê nên cho thức là chân thường, chỗ về của mình.

Đó là cái chấp thứ nhất lập tâm sở đắc, thành quả sở quy(4), trái xa viên thông, ngược với thành Niết Bàn, sinh giống ngoại đạo.
(4) Thức vi tế như nước lụt, chảy từ từ, mình thấy lặng, hết sóng gió (hành ấm hết, không động). Nhưng còn lặng lẽ chảy từ từ. Mình cứ tưởng yên, cho là đắc. Chủng tử nó vẫn huân tập, ngầm động, điên đảo.
B/ - Chấp năng phi năng:
Ông A Nan! Lại người thiện nam nghiên cùng hành ấm tiêu không, đối với thức đã trở về chỗ đầu. Đã dứt sinh diệt, mà đối với tịch diệt tinh diệu chưa được viên. Nếu đối với chỗ sở quy, ôm làm cái thể của mình, cùng tận cõi hư không, trong 12 loại chúng sinh, đều là trong thân ta một loại lưu xuất ra. Cho là thắng giải.
Người ấy đọa về cái chấp năng và phi năng(1).
(1) Tưởng làm được, thực ra không làm được.
Thành bạn lữ của phái Ma Hê Thủ La(2), hiện cái thân vô biên, mê Bồ Đề của Phật, bỏ mất tri kiến.
(2) Đầu cõi sắc.
Đó là cái chấp thứ hai, lập tâm năng vi, thành quả năng sự, trái xa viên thông và thành Niết Bàn, sinh trời đại mạn(3), cho rằng ta trùm khắp tất cả.
(3) Ngã mạn nhất.
C/ - Chấp thường phi thường:
Lại người thiện nam nghiên cùng hành ấm tiêu không, đối với thức đã trở về chỗ đầu. Đã dứt sinh diệt, mà đối với tịch diệt tinh diệu chưa được viên. Nếu đối với chỗ sở quy, có cái chỗ nương về, thì tự nghi thân tâm từ đó lưu xuất, mười phương hư không đều do đó phát khởi(4). Cứ nơi sinh khởi, đó là chỗ tuyên lưu ra, làm cái thân chân thường(5), cho là không sinh diệt. Ở trong sinh diệt, đã chấp là thường trú. Đã lầm cái bất sinh(6), lại mê cái sinh diệt(7). An trụ nơi trầm mê. Cho là thắng giải.
(4) Từ thức khởi thân tâm và thế giới.
(5) Cho thức là chân thường.
(6) Không đạt lý tịch diệt.
(7) Cho thức (sinh diệt) là không sinh diệt.

Người đó đọa về chấp thường phi thường(1).
(1) Cho là thường, chính ra thức không thường.
Làm bạn của Trời Tự Tại, mê Bồ Đề của Phật, bỏ mất tri kiến.
Đó là cái chấp thứ ba lập cái tâm nhân y, thành quả vọng chấp, trái xa viên thông và thành Niết Bàn, sinh điên đảo viên(2).
(2) Không viên cho là viên.
D/ - Chấp tri vô tri:
Lại người thiện nam nghiên cùng hành ấm tiêu không. Đã dứt sinh diệt, mà đối với tịch diệt tinh diệu chưa được viên. Nếu đối với chỗ bị biết(1), cái biết nó khắp và hoàn toàn(2). Nhân cái biết đó lập ra kiến giải rằng: "Mười phương thảo mộc đều gọi là hữu tình, với người không khác. Cỏ cây là người, người chết lại thành mười phương cỏ cây. Không lựa riêng cái biến tri"(3). Cho là thắng giải. Người ấy đọa về cái chấp tri vô tri.
(1) Cảnh.
(2) Trí biết (năng trí).
(3) Biết khắp. Thấy thức biến nên chấp, chính ra cỏ cây không biết.

Thành bạn lữ của phái Ba Tra Tiện Ni, chấp tất cả có giác, mê Bồ Đề của Phật, bỏ mất tri kiến. Đó là cái chấp thứ tư, lập cái tâm viên tri, thành quả hư vọng, trái xa viên thông và thành Niết Bàn, sinh giống biết điên đảo.
E/ - Chấp sinh vô sinh:
Lại người thiện nam nghiên cùng hành ấm tiêu không. Đã dứt sinh diệt, mà đối với tịch diệt tinh diệu chưa được viên. Nếu đối trong cái tính viên dung, các căn hỗ dụng, đã được tùy thuận. Bèn đối với viên dung biến hóa, tất cả phát sinh(1), cầu lửa sáng chói, ưa nước thanh tịnh, ưa gió chu lưu, xem trần thành tựu(2), mỗi mỗi phụng sự. Lấy các trần ấy, phát làm bản nhân, lập cho là thường trụ.
(1) Năng tạo, sở tạo: 4 đại.
(2) Bốn đại làm thành mọi vật.

Người đó đọa về cái chấp sinh vô sinh(). Là bạn lữ của Ca Diếp Ba và Bà La Môn, tâm siêng năng ép xác thờ nước lửa, cầu ra khỏi sinh tử, mê Bồ Đề của Phật, bỏ mất tri kiến.
(3) Cho là sinh, chính không sinh.
Đó là cái chấp thứ năm: chấp trước thờ phụng, bỏ tâm theo vật, lập cái nhân vọng cầu, cầu cái quả vọng ký(1), trái xa viên thông và thành Niết Bàn, sinh giống điên đảo.
(1) Ký: mong cầu.
F/ - Chấp quy vô quy:
Lại người thiện nam nghiên cùng hành ấm tiêu không. Đã dứt sinh diệt, mà đối với tịch diệt chưa được viên. Nếu đối với viên minh, họ chấp trong viên minh ấy trống rỗng phá bỏ các cái biến hóa, lấy cái vĩnh diệt(2) làm chỗ quy y, sinh thắng giải.
(2) Diệt hết, không trở lại.
Người đó đọa về cái chấp quy vô quy(3).
(3) Về chỗ không phải về, không đáng về.
Làm bạn lữ của phái chấp "vô tưởng thiên" là Thuấn Nhã Đa, mê Bồ Đề của Phật, bỏ mất tri kiến.
Đó là cái chấp thứ sáu, lập tâm viên hư vô, thành quả không vong, trái xa viên thông và thành Niết Bàn, sinh giống đoạn diệt.
G/ - Chấp tham phi tham:
Lại người thiện nam nghiên cùng hành ấm tiêu không. Đã dứt sinh diệt, mà đối với tịch diệt tinh diệu chưa được viên. Nếu đối với viên thường(1), họ kiên cố thân thường trú, đồng với cái tinh viên hằng chẳng mất, sinh thắng giải.
(1) Thức tinh viên minh.
Người ấy đọa về cái chấp tham phi tham(2).
(2) Tham cái không đáng tham.
Làm bạn lữ của phái chấp A Tư Đà tiên, cầu sống lâu, mê Bồ Đề của Phật, bỏ mất tri kiến.
Đó là cái chấp thứ bảy chấp trước nơi sống lâu, lập cái nhân cố vọng, đến quả sống lâu mà khổ, trái xa viên thông và thành Niết Bàn, sinh giống vọng sống lâu.
H/ - Chấp chân phi chân:
Lại người thiện nam nghiên cùng hành ấm tiêu không. Đã dứt sinh diệt, mà đối với tịch diệt chưa được viên. Quán sát căn mệnh với trần cảnh dung thông lẫn nhau, sợ phải tiêu hết, cố gắng làm cho căn cảnh bền chắc(3). Nơi đó ngồi cung Liên Hoa, biến hóa rất nhiều đồ quý báu đẹp đẽ, buông lung tâm mình, sinh thắng giải.
(3) Khởi niệm sai, muốn giữ thân cảnh lại.
Người đó đọa về cái chấp chân phi chân.
Làm bạn lữ của phái Tra Chỉ Ca La(1), mê Bồ Đề của Phật, bỏ mất tri kiến.
(1) Cõi dục, còn dâm.
Đó là cái chấp thứ tám, phát nhân nghĩ sai, lập quả trần lao hưng thịnh, xa trái viên thông và thành Niết Bàn, sinh giống Thiên ma.
I/ - Định tính Thanh Văn:
Lại người thiện nam nghiên cùng hành ấm tiêu không. Đã dứt sinh diệt, mà đối với tịch diệt chưa được viên. Đối với trong mệnh minh, phân biệt tinh, thô, thẩm quyết chân, ngụy. Nhân quả báo đáp nhau, chỉ cầu cảm ứng, trái với đạo thanh tịnh. Đó là thấy quả khổ, đoạn tập nhân, chứng tịch diệt, tu đạo lý, ở tịch diệt rồi thôi, chẳng tiến tới nữa. Sinh thắng giải.
Người đó đọa về định tính Thanh Văn(2).
Làm bạn lữ của các tăng ít học, tăng thượng mạn(2), mê Bồ Đề của Phật, bỏ mất tri kiến.
(2) Mắc vào cảnh giới A La Hán, không tinh tiến nữa, cho là đủ.
Đó là cái chấp thứ chín, cố làm đầy đủ công hạnh, cầu quả tịch diệt, xa trái viên thông và thành Niết Bàn, sinh giống bị buộc nơi cái không.
J/ - Định tính độc giác:
Lại người thiện nam nghiên cùng hành ấm tiêu không. Đã dứt sinh diệt, mà đối với tịch diệt chưa được viên. Nếu đối với viên dung thanh tịnh giác minh, nghiên cùng phát ra thâm diệu. Bèn lập Niết Bàn, mà chẳng tiến nữa. Sinh thắng giải.
Người đó bị đọa về định tính bích chi(1).
Làm bạn lữ với cái Duyên Giác, chẳng hồi tâm(1), mê Bồ Đề của Phật, bỏ mất tri kiến.
Đó là cái chấp thứ mười, tâm hợp với viên giác của Duyên Giác, thành quả trạm minh, xa trái viên thông và thành Niết Bàn, sinh giống giác viên minh, chẳng hóa viên(1).
(1) Chứng mà mắc cứng trong đó, không phải tâm tu Đại thừa.
3) - Kết:
Ông A Nan! Như vậy mười thứ Thuyền Na, giữa đường thành điên, nhân vì nương theo mê hoặc, đối với việc chưa đủ đã cho là đầy đủ. Đều là thức ấm dụng tâm xoay vần, nên sinh các điều đó.
Chúng sinh ngu mê, chẳng tự so lường, gặp cảnh ấy hiện tiền, đều lấy chỗ sở ái tập quán trước, mê tâm, mà tự thôi dứt, cho là cái chỗ quy ninh hoàn toàn, tự nói đầy đủ vô thượng Bồ Đề. Tội đại vọng ngữ, thành ngoại đạo tà ma. Hết nghiệp báo, bị đọa ngục vô gián(1). Thanh Văn, Duyên Giác chẳng thành tăng tiến.
(1) Tám cái chấp đầu bị đọa.
Sau khi tôi diệt độ, trong thời mạt pháp, các ông phải hết lòng theo đạo của Như Lai, phải đem pháp môn này truyền thị cho chúng sinh rõ biết nghĩa ấy. Chớ để kiến ma tự làm trầm nghiệp(2). Phải bảo hộ nhau, thương giúp nhau, làm dứt hết duyên tà. Khiến cho thân tâm vào tri kiến của Phật, do đó mới thành tựu, chẳng bị lạc đường.
(2) Nghiệp vi tế khó nhận ra, khó dứt.

iii) - Chỉ chung siêu chứng hộ trì:
a) - Siêu chứng:
Pháp môn như thế(3), trong vô số kiếp như cát sông Hằng, vô số Như Lai như bụi nhỏ nhờ pháp đó mà tâm khai ngộ, được đạo vô thượng. Nếu thức ấm hết thì ông dùng được lẫn lộn các căn, và vào được quả Càn Tuệ kim cương Bồ Tát, viên minh tinh(4) tâm do đó phát hóa ra, ví như ngọc lưu ly trong suốt, trong có vừng trăng sáng. Như vậy siêu việt mười tín, mười trụ, mười hành, mười hồi hướng, bốn tâm gia hạnh, Bồ Tát tu kim cương mười địa, Đẳng giác viên minh(5), vào bể Diệu trang nghiêm của Như Lai, viên mãn Bồ Đề, về chỗ vô sở đắc.
(3) Phần Phật chỉ ngũ ấm ma.
(4) Tinh: vi tế tạp nhiễm không còn.
(5) Phá trừ vô minh.

b) - Hộ trì:
Đó là chư Phật thời quá khứ, trong Sa Ma Tha Tỳ Bà Xá Na(1), được giác ngộ rõ ràng, phân tích các việc ma vi tế, ma cảnh hiện tiền.
(1) Định tuệ viên dung.
Ông có thể hiểu biết, tâm cấu trừ sạch(2), chẳng lạc tà kiến, ấm ma tiêu diệt, thiên ma vỡ nát, đại lực quỷ thần khiếp vía chạy trốn, những loài ly mỵ vọng lượng không còn xuất sinh. Thẳng đến Bồ Đề, không chút thiếu sót. Hạ liệt(3) tiến lên, đối với đại Niết Bàn, tâm chẳng mê muội.
(2) Tâm cấu: cầu trường thọ v.v...
(3) Tiểu thừa.

Chúng sinh ngu độn đời sau chưa biết thiền na, không hiểu rõ về thuyết pháp, ưa tu tam ma, e đồng tà kiến. Ông nên một lòng khuyên trì chú Phật đỉnh của tôi. Nếu chưa thể tụng, nên viết vào giấy để ở chỗ tu học, hoặc mang trong người, tất cả các ma không thể động tới.
Ông nên cung kính vâng theo lời khuôn phép sau cùng của mười phương Như Lai, triệt để tiến tu.

2 - Nhân hỏi, lại nói ngũ ấm sinh diệt:

A) - Ông A Nan hỏi:
Ông A Nan nghe Phật dạy, ghi nhớ không sót, đứng dậy lễ Phật, giữa đại chúng lại bạch Phật:
Như Phật dạy: trong tướng ngũ ấm, năm thứ hư vọng làm gốc tưởng tâm. Chúng tôi chưa được Như Lai giảng giải kỹ càng.
Có thể nào một lượt trừ hết năm ấm đó?
Hay là thứ lớp trừ hết?
Năm lớp đó, đến đâu là giới hạn?
Mong đức Như Lai phát lòng đại từ, vì đại chúng này, dạy cho tâm mục trong suốt, để làm con mắt tương lai cho tất cả chúng sinh trong đời mạt thế.
B) - Phật đáp:
4 phần:
i) - Đáp sinh khởi vọng tưởng.
ii) - Giới hạn của ấm.
iii) - Diệt trừ đốn tiệm.
iv) - Kết.
i) - Đáp sinh khởi vọng tưởng:
a) - Nêu vọng tưởng:
Phật bảo ông A Nan:
Tinh chân diệu minh, bản giác viên tịnh chẳng phải sinh ra sinh tử và các trần cấu, cho đến hư không. Thảy đều nhân vọng tưởng sinh khởi.
Ấy gốc nơi bản giác diệu minh tinh chân, hư vọng phát sinh các thế giới. Như ông Diễn Nhã Đa nhìn hình mình trong gương, pháp cuồng cho là mình hông có đầu. Vọng vẫn không nhân. Trong vọng tưởng lập tính nhân duyên. Mê nhân duyên, nói là tự nhiên.
Tính hư không kia thật là huyễn sinh. Nhân duyên và tự nhiên đều là vọng tâm của chúng sinh so đọ chấp trước.
Ông A Nan! Biết hư vọng khởi ra, nói là vọng nhân duyên. Nếu hư vọng vẫn không có, thì nói cái vọng nhân duyên vẫn là không phải có. Huống chi chẳng biết mà cho là tự nhiên.
Vậy nên Như Lai cùng ông phát minh bản nhân của ngũ ấm, đồng là vọng tưởng.
b) - Biện năm lớp vọng tưởng:
1) - Sắc ấm vọng tưởng:
Thân thể của ông, trước hết nhân cái tưởng(1) của cha mẹ sinh ra. Cái tâm của ông không phải tưởng thì không thể đến trong tưởng ấy mà truyền mệnh.
(1) Dục tưởng lúc giao cấu, cộng với cái tưởng của đứa con chạy đến.
Như tôi trước đã nói: tâm tưởng vị chua, nước miếng chảy ra, tâm tưởng trèo cao thấy rợn. Bờ cao chẳng có, vật chua chưa đến, thân thể của ông quyết định không đồng loại với hư vọng được, tại sao nước dãi lại nhân nói chua mà ra?
Bởi thế nên biết: ông hiện có sắc thân, đó là kiên cố, vọng tưởng thứ nhất.
2) - Thụ ấm vọng tưởng:
Như trên đã nói: trèo cao, tưởng tâm có thể khiến hình ông thấy rợn, bởi nhân lĩnh thụ sinh ra, có thể động đến thân thể. Nay rõ ràng: thuận thì được lợi ích, nghịch thì chịu tổn hại, hai thứ dong duổi nhau.
Đó là hư minh, vọng tưởng thứ hai.
3) - Tưởng ấm vọng tưởng:
Bởi cái suy nghĩ nó sai sử sắc thân của ông. Thân chẳng phải đồng loại với niệm, thân ông nhân đâu bị theo các niệm sai sử? Đó là do mỗi thứ đều dùng hình dạng, tâm sinh ra thì thân dùng lấy, thân và tâm tương ứng.
Thức là tưởng tâm, ngủ là chiêm bao, thì tưởng niệm của ông nó lay động cái vọng tình(1).
(1) Rồi phát ra các hành động.
Đó là dung thông, vọng tưởng thứ ba.
4) - Hành ấm vọng tưởng:
Lý biến hóa không ngừng, trong mỗi niệm âm thầm dời đổi, móng tay dài, tóc mọc, khí hao mòn, hình dạng nhăn nhó, ngày đêm thay nhau(1), không hề hiểu biết.
(1) Cũ mất, mới lên thay.
Ông A Nan! Việc đó, nếu không phải là ông thì thế nào thân thể thay đổi? Còn nếu là ông, sao ông không biết? Các hành(2) của ông niệm niệm không nghỉ.
(2) Hành động về tâm lý, vật chất.
Đó là u uẩn, vọng tưởng thứ tư.
5) - Thức ấm vọng :
Cái tinh minh trạm tịch(3), không lay động của ông, gọi là hằng thường. Đối với thân không vượt ngoài cái kiến văn giác tri.
(3) Đối với hành tướng thô, nên tưởng là trạm tịch.
Nếu nó thực là tinh chân thì không dung để tập khí hư vọng. Nhân sao các ông đã từng năm trước, thấy một cái vật lạ, trải qua nhiều năm, nhớ và quên đều không còn. Về sau bỗng dưng lại thấy cái vật lạ trước, ghi nhớ rõ ràng, chẳng hề sót mất. Trong cái tinh trạm liễu chẳng lay động, mỗi niệm bị huân luyện(4), đâu có tính lường được.
(4) Các chủng tử trong tâm mình, chúng huân luyện mãi.
Ông A Nan! Nên biết rằng cái tinh trạm ấy chẳng phải chân, như dòng nước chảy mạnh, xem qua như yên lặng. Chảy mau chẳng thấy, chứ không phải không chảy. Nếu chẳng phải tưởng căn nguyên(1), thì đâu lại chịu hư vọng tập khí.
(1) Vọng tưởng đầu.
Chẳng phải ông dùng được lẫn lộn cả sáu căn, thì vọng tưởng đó không bao giờ dứt được.
Cho nên hiện tại, trong kiến văn giác tri của ông, quán tập nhỏ nhiệm(2), thì trong cái trạm liễu(3), mường tượng hư vô.
(2) Liên tiếp theo nhau, tăng trưởng.
(3) Thức.

Đó là điên đảo thứ năm, vi tế tinh tưởng.
c) - Kết:
Ông A Nan! Năm ấm đó là do năm vọng tưởng thành.
ii) - Giới hạn của ấm:
Nay ông muốn biết giới hạn sâu nông:
Sắc với không là giới hạn của sắc.
Xúc với ly là giới hạn của thụ.
Nhớ với quên là giới hạn của tưởng.
Diệt với sinh là giới hạn của hành.
Trạm tịch(1) vào hợp với trạm là giới hạn của thức.
(1) Phá 4 cái lưu động trước đi, dìu dịu, êm đềm vào thức (nước hết sóng)
iii) - Diệt trừ đốn, tiệm:
Năm ấm ấy nguyên trùng diệp sinh khởi, sinh thì nhân thức mà có. Diệt thì bắt đầu nơi sắc mà trừ.
Tuy lý là ngộ chóng, nhưng phải theo ngộ mà trừ dần.
Tuy thực hành phải trừ dần, nhưng không còn thứ lớp trước sau.
Tuy là đốn, mà phải tiệm.
Tuy là tiệm, mà phải đốn.
Tôi đã chỉ cho ông cái khăn thắt nút, sao chẳng rõ biết, lại còn hỏi nữa.
iv) - Kết:
Ông nên đem cái tâm được tỏ ngộ căn nguyên vọng tưởng ấy, truyền thị cho các người tu hành trong đời mạt pháp tương lai, khiến họ biết hư vọng, nhàm chán tử sinh, biết có Niết Bàn, không lưu luyến ba cõi.


BÌNH LUẬN
Chúng ta vừa nghiên cứu một phần rất quan trọng, đó là phần:
"Ngũ ấm ma".
Ta nên nghiềm ngẫm kỹ phần này để khi thực hành tu chính định, khỏi bị lạc vào đường tà.
Điều nghi nhận thứ nhất, là tu chứng là những phương pháp khoa học rõ ràng.
Phá được sắc ấm, sẽ thấy biết ra sao?
Đúng đường thì được những khả năng gì?
Nếu lạc đường, sẽ thấy những gì?
Phá được lần lượt năm ấm, cũng lại như thế.
Đây là khoa học về nội tâm, chỉ có thể chứng nghiệm.
Điều ghi nhận nữa là đừng cho mình chứng thánh. Đã tự cho là thánh, bị ma kéo đi lạc đường, không tỉnh ngộ được.
Chứng đến quả nào cũng cho là huyễn, đừng cho là quan trọng. Đừng sinh tự phụ, kiêu mạn.
Điều ghi nhận nữa là đừng tự mãn.
Bệnh nặng của chúng sinh là chứng một ít, đã cho là tới đích, không cầu tiến nữa.
Vì thế mà không bao giờ giải thoát, không bao giờ thành Phật.
Ta phải lập chí lớn, phát nguyện lớn, tiến mãi với thời gian, tu chứng cao bao nhiêu cũng cho là huyễn.
Cầu hiểu Chân lý, và tu đúng chính pháp, độ sinh, tiến mãi trên đường muôn dặm.
Nếu muốn tu chính định mà không bị ma phá, phải có nhiều phúc báo. Vậy phải độ sinh thật nhiều. Bố thí tiền của, giúp người sung sướng về vật chất. Bố thí pháp. Truyền bá chính pháp.
Lại phải giới luật tinh nghiêm. Tâm không sát, đạo, dâm, vọng. Tâm không tham, sân, si, mạn, nghi, thiên kiến. Hoàn toàn giải ngộ. Thâm hiểu chính pháp. Giỏi duy thức.
Lại nên trì chú Lăng Nghiêm. Mang chú trong người. Để chú ở nơi tu.
Nay ta đã nghiên cứu xong phần rất lớn, gồm hầu hết bộ kinh.
Đó là phần:
B - Chính Tôn.
Phần này là phần chính của toàn bộ kinh Lăng Nghiêm.
Nay ta nghiên cứu sang phần kết luận, tức là:
C - Lưu Thông