C) - Dạy tu pháp Thuyền Na:
i) - Ông A Nan tạ, và hỏi địa vị tu chứng:
Ông A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch:Chúng tôi ngu độn, ưa học hỏi nghe nhiều, đối với các tâm mê lậu, chưa hề thoát ly, nhờ Phật dạy bảo được chính đáng tu học, thân tâm nhẹ nhàng, được rất nhiều lợi ích.
Bạch Thế Tôn! Tu chứng theo pháp Tam Ma Đề của Phật như vậy, mà chưa đến Niết Bàn, thế nào gọi là Càn Tuệ Địa? 44 tâm? Thế nào tu hành tiệm thứ? Đến chỗ nào mới gọi là nhập địa? Thế nào là Đẳng giác Bồ Tát?
Nói xong, năm vóc gieo xuống đất. Đại chúng một lòng ngước mắt chờ trông, đợi nghe lời nói từ bi của Phật.
ii) - Phật dạy:
a) - Hứa nói:
Khi đó, Thế Tôn khen ông A Nan:Hay lắm! Hay lắm! Các ông có thể vì tất cả đại chúng, và mọi chúng sinh đời mạt thế tu Tam Ma Đề, cầu đại thừa, từ phàm phu đến chứng Đại Niết Bàn, con đường chính tu hành cao nhất, xin tôi chỉ rõ. Các ông nghe kỹ, tôi sẽ giảng.
Ông A Nan và đại chúng chắp tay, lắng lòng, chờ nghe Phật dạy.
b) - Chính đáp:
1) - Nói chung:
Phật nói:Ông A Nan, nên biết rằng diệu tính viên minh xa lìa các danh tướng, bản lai không có thế giới và chúng sinh. Nhân vọng mới có sinh, nhân sinh có diệt. Sinh diệt gọi là vọng. Diệt vọng, gọi là Chân. Đặt tên là vô thượng Bồ Đề và Đại Niết Bàn của Như Lai, bởi chuyển hai thứ phiền não và sinh tử mà được tên ấy.
2) - Chỉ riêng:
2 phần:A/ - Trước hết, chỉ nhiễm duyên thành luân hồi.
B/ - Sau chỉ theo tịnh duyên thành thánh vị.
A/ - Nhiễm duyên thành luân hồi:
i/ - Khuyên nên tìm để biết điên đảo:
Ông A Nan, nay ông muốn tu chân Tam Ma Địa, thẳng đến Đại Niết Bàn của Như Lai, trước hết phải biết hai nhân điên đảo là chúng sinh và thế giới. Nếu điên đảo không sinh, đó là chân Tam Ma Địa của Như Lai.
ii/ - Giải thích điên đảo:
2 phần:a/ - Chúng sinh điên đảo.
b/ - Thế giới điên đảo.
a/ - Chúng sinh điên đảo:
Ông A Nan thế nào gọi là chúng sinh điên đảo?Ông A Nan, do tính minh tâm, cái tính sáng suốt viên mãn. Nhân cái vọng minh phát ra vọng tính. Cái tính hư vọng sinh ra cái kiến tri hư vọng. Từ rốt ráo không sinh rốt ráo có. Do có cái năng hữu ấy, mới có những cái sở hữu. Chẳng phải nhân thành sở nhân. Rồi có cái tướng trụ và sở trụ. Trọn không căn bản. Gốc không có chỗ y trụ, gây dựng ra thế giới và chúng sinh.
Mê cái tính bản nguyên minh, mới sinh ra hư vọng. Vọng tính không có tự thể, chẳng phải là có chỗ sở y. Toan muốn trở lại chân. Cái muốn chân đó chẳng phải thật là chân như tính. Chẳng phải chân mà cầu trở lại chân, hóa ra thành hư vọng tướng. Chẳng phải: "sinh, trụ, tâm, pháp" lần lữa phát sinh, sinh lực tăng tiến mãi, huân tập thành nghiệp.
Đồng nghiệp cảm nhau. Nhân có cảm nghiệp, diệt nhau sinh nhau.
Do đó nên có chúng sinh điên đảo.
b/ - Thế giới điên đảo:
Ông A Nan! Thế nào gọi là thế giới điên đảo? Cái có và bị có ấy, nhân hư vọng sinh nhân đó giới lập. Chẳng phải nhân, sở nhân, không trụ và sở trụ, thiên lưu chẳng dừng. Nhân đó thế lập.Ba đời bốn phương hòa hợp xen nhau, biến hóa chúng sinh thành 12 loại.
Bởi đó thế giới nhân động có tiếng, nhân tiếng có sắc, nhân sắc có hương, nhân hương có xúc, nhân xúc có vị, nhân vị biết pháp. Sáu thứ vọng tưởng nhiễu loạn thành nghiệp tính. Mười hai thứ phân ra khác. Do đó lưu chuyển, nên ở thế gian "tiếng, hương, vị, xúc", cùng 12 biến hoá xoay vần thành một vòng lẩn quẩn.
Nhân các tướng điên đảo luân chuyển ấy, mới có thế giới: các loài sinh trứng, sinh thai, sinh chỗ ẩm ướt, vì hóa mà sinh, loài có sắc, loài không sắc, loài có tưởng, loài không tưởng, loài chẳng phải có sắc, loài chẳng phải không sắc, loài chẳng phải có tưởng, loài chẳng phải không tưởng.
Ông A Nan! Bởi nhân thế giới hư vọng luân hồi, động điên đảo, hòa hợp với khí thành tám vạn bốn nghìn loài bay, bơi loạn tưởng. Như vậy nên có loài từ trứng sinh, lưu chuyển trong các quốc độ, như loài cá, chim, rùa, rắn đầy dẫy thế giới.
Bởi nhân thế giới tạp nhiễm luân hồi, dục(1) điên đảo, hòa hợp thành tám vạn bốn nghìn loài hoành, thụ(2) loạn tưởng. Như vậy nên có loài từ thai sinh, như người, loài vật, tiên, rồng, đầy dẫy thế giới.
(1) Tình dục nhiễm ái, thấy giao hợp liền đầu thai.
(2) Hoành: đi ngang đầu. Thụ: đi thẳng đầu lên trời.
Bởi nhân thế giới chấp trước luân hồi, thù(3) điên đảo vậy, hòa hợp khí nóng thành tám vạn bốn nghìn loài phiên phúc loạn tưởng. Như vậy nên có loài từ chỗ ẩm thấp sinh, như các loài trùng, sâu bọ v.v... lưu chuyển đầy dẫy quốc độ.
(3) Không có chỗ nhất định.
Bởi nhân thế giới biến dịch luân hồi, giả điên đảo, hòa hợp xúc thành tám vạn bốn nghìn loạn tưởng tân cố(1). Như vậy có loài tự biến hóa sinh, như loài thay vỏ, thoát xác bay đi, lưu chuyển và đầy dẫy quốc độ.
(1) Thay đổi cũ hóa lại cái mới.
Bởi nhân thế giới lưu ngại luân hồi, chướng điên đảo, hòa hợp chấp trước thành tám vạn bốn nghìn tinh diệu loạn tưởng, như vậy nên có loài sắc tướng như loại tinh minh(2) xấu tốt, lưu chuyển và đầy dẫy trong quốc độ.
(2) Sáng suốt.
Bởi nhân thế giới tiêu tản luân hồi, hoặc điên đảo, hòa hợp u ám thành tám vạn bốn nghìn âm-ẩn loạn tưởng. Như vậy nên có loài vô sắc, như loại không tản tiêu trầm lưu chuyển đầy dẫy trong quốc độ(3).
(3) Do hoặc điên đảo loạn tưởng, có loài ám muội, âm thầm, ta không thấy gì hết, vô hình.
Bởi nhân thế giới vọng tưởng luân hồi, ảnh điên đảo, hòa hợp với "nhớ", thành tám vạn bốn nghìn tiềm kiết loạn tưởng. Như vậy nên có loài tưởng tướng như là thần quỷ tinh linh, lưu chuyển đầy dẫy quốc độ(4).
(4) Do ảnh tượng loạn tưởng âm thầm, kết ra loài có tưởng: quỷ thần...
Bởi nhân thế giới ngu độn luân hồi, si điên đảo, hòa hợp ngu ngoan, thành tám vạn bốn nghìn khô khao loạn tưởng. Như vậy nên có loài vô tưởng, như loài tinh thân hóa ra thảo mộc kim thạch, lưu chuyển và đầy dẫy quốc độ.
Bởi nhân thế giới tương đãi luân hồi, ngụy điên đảo(1), hòa hợp nhiễm thành tám vạn bốn nghìn nhân y loạn tưởng. Như vậy nên có các loài chẳng phải có sắc tướng, như loài thủy mẫu, lưu chuyển đầy dẫy quốc độ.(2)
(1) Sai lầm.
(2) Nương, mượn cái này, cái kia.
Bởi nhân thế giới tương dẫn luân hồi, tính điên đảo hòa hợp với phù chú mà thành tám vạn bốn nghìn hô triệu loạn tưởng. Như vậy nên có các loài chẳng phải không sắc, như loài yểm chú, lưu chuyển và đầy dẫy quốc độ(3).
(3) Tính điên đảo dắt dẫn lẫn nhau, khi ai gọi thì đến.
Bởi nhân thế giới hợp vọng luân hồi, vọng điên đảo, hòa hợp với các chất khác, thành tám vạn bốn nghìn hồi hỗ loạn tưởng. Như vậy nên có các loài chẳng phải có tưởng, như loài bồ lao, lưu chuyển và đầy dẫy quốc độ.
Bởi nhân thế giới oán hại luân hồi, sát điên đảo, hòa hợp quái thành tám vạn bốn nghìn loài tưởng ăn thịt cha mẹ. Như vậy nên có các loài chẳng phải không tưởng, mà vô tưởng, như loài thổ cưu và chim phá cảnh lưu chuyển và đầy dẫy quốc độ.
Đó gọi là 12 chủng loại chúng sinh.
Ông A Nan! Như vậy chúng sinh trong mỗi loại đều đủ 12 thứ điên đảo.
Ví như lấy tay ấn vào con mắt, thấy hoa đốm phát sinh.
Hư vọng loạn tưởng điên đảo và chân tịnh minh tâm cũng như thế.
BÌNH LUẬN
Đó là phần rất lớn:
C) - Dạy tu pháp Thuyền Na.
Trước khi dạy cách tu chứng và chỉ từng cảnh giới tu chứng, Phật nhắc lại những điều đã dạy kỹ ở các phần trên.
Đứng về mặt "chân" mà nói: "Ở cảnh giới Phật, không có thế giới và chúng sinh.
Đứng về mặt "vọng" mà nói: "Có sinh diệt, có thế giới, chúng sinh".
Trước khi Phật chỉ các quả vị tu chứng, Phật chỉ cảnh khổ của chúng sinh trong vòng luân hồi sinh tử.
Đó là phần:
A/ - Nhiễm duyên thành luân hồi.
Đứng về mặt "vọng" mà nói: "Chúng sinh bị nô lệ cho thân, cho cảnh, cho nghiệp. Vì thế nên luân hồi sinh tử".
Phật chia ra làm 12 loại chúng sinh. Những loài đó đều có thực, Phật chia tổng quát làm từng loại để dễ phân biệt.
Sau Phật lại lấy một ví dụ cổ điển để có một hình ảnh về "chân", "vọng". Ví dụ này đã được dùng nhiều lần, nó giúp ta đừng suy luận sai lầm, và tu cho đúng.
Đó là ví dụ: hoa đốm và mắt mỏi.
"Người mỏi mắt thấy có hoa đốm lăng xăng ở hư không.
Người mắt lành không thấy có hoa đốm.
Mắt mỏi là ví với trí biết sai lầm của chúng sinh.
Hoa đốm là ví với các cảnh giới mà chúng sinh thấy biết, và sinh hoạt trong đó.
Mắt lành là ví với trí biết tuyệt đối của Phật.
Mắt mỏi có thể lành.
Chúng sinh có thể tu đến cảnh giới Phật".
No comments:
Post a Comment