Sunday, November 6, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 49)

B/ - Chỉ theo tịnh duyên thành thánh vị:
3 phần:
i/ - Chính đáp các cảnh giới tu chứng.
ii/ - Phê phán.
iii/ - Khuyên tu chính định.
i/ - Chính đáp các cảnh giới tu chứng:
10 phần:
a/ - Ba vị tiệm thứ.
b/ - Càn Tuệ Địa.
c/ - Thập tín.
d/ - Thập trụ.
e/ - Thập hành.
f/ - Thập hồi hướng.
g/ - Bốn vị gia hạnh.
h/ - Thập địa.
i/ - Đẳng giác.
j/ - Diệu giác.
a/ - Ba vị tiệm thứ:
1/ - Lập vị trừ nhiễm:
Nay ông muốn tu chứng pháp Tam Ma Đề của Phật, cũng phải do cái bản nhân điên đảo loạn tưởng ấy mà lập ra ba tiệm thứ, mới có thể trừ diệt được. Ví dụ muốn đựng nước cam lộ(1) trong một đồ sạch, phải lấy nước nóng, tro, và nước thơm súc rửa, trừ bỏ các cặn độc.
(1) Nước trong lành.
2/ - Kể tên:
Thế nào gọi là ba tiệm thứ?
Một là: tu tập để trừ trợ nhân.
Hai là: thật tu hành để bỏ cho hết chính tính.
Ba là: tinh tiến lên, trái với hiện nghiệp.
A# - Trừ trợ nhân:
i# - Đoạn tân độc:
Thế nào là trợ nhân?
Ông A Nan! Cả 12 loại sinh trong thế giới không thể tự toàn, phải nương vào 4 cách ăn mà sống còn. Đó là: ăn bằng cách chia xé(1), ăn bằng ngửi hơi(2), ăn bằng suy nghĩ(3), ăn bằng thức(4). Vậy nên Phật nói tất cả chúng sinh đều nương nơi sự ăn mà sống còn.
(1) Nhai đồ ăn.
(2) Loài quỷ thần ngửi hơi đồ ăn.
(3) Lấy sự nghĩ vui về thiền định mà no như chư thiên ở tứ thiền.
(4) Bằng thức, thức còn là sống.

Ông A Nan! Tất cả chúng sinh ăn món ngon lành được sống, ăn món độc bị chết. Cho nên chúng sinh cầu Tam Ma Địa phải dứt năm món tân thái trong đời.
ii# - Chỉ rõ phải đoạn:
Năm món tân thái(5) ấy, nấu chín mà ăn, hay phát tính dâm. Ăn sống, thêm giận dữ. Những người ăn các món ấy, dù có thể giảng 12 bộ kinh, mười phương chư thiên tiên cũng chê hơi hôi, đều tránh xa.
(5) Hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu.
Các loài quỷ đói, lúc người đó ăn, liếm môi liếm mép. Thường ở chung với quỷ, phúc đức ngày tiêu mòn, hằng không có lợi ích gì.
Người ăn món đó mà tu Tam Ma Địa, các vị Bồ Tát, Thiên Tiên, mười phương thiện thần chẳng đến thủ hộ. Đại lực ma vương tìm được phương tiện, hiện làm thân Phật mà đến thuyết pháp. Chê bỏ cấm giới, khen làm việc dâm, giận dữ, ngu si.
Sau khi chết, tự làm quyến thuộc cho ma vương, hưởng hết phúc của ma, bị đọa Vô Gián ngục.
Ông A Nan, người tu Bồ Đề, phải hoàn toàn dứt năm món tân thái.
Đó gọi là đệ nhất tinh tiến tu hành tiệm thứ.
B# - Làm cho hết chính tính:
i# - Khuyên trì giới:
Thế nào là chính tính?
Ông A Nan! Chúng sinh vào Tam Ma Địa, trước phải giữ giới luật tinh nghiêm(1) và thanh tịnh(2), phải hoàn toàn dứt tâm dâm(3), chẳng ăn thịt, uống rượu, ăn đồ nấu chín và sạch, chớ ăn món còn hơi sống.
(1) Phải nghiêm.
(2) Sạch như tuyết.
(3) Dứt hẳn tâm dâm, luôn luôn không khi nào nghĩ đến, hễ nghĩ thì phạm.

Ông A Nan, người tu hành mà chẳng đoạn dâm và sát sinh, không thể ra khỏi ba cõi.
Nên coi sự dâm dục như rắn độc, như giặc thù mình(1).
(1) Nó dính giết hại mình.
Trước hết, phải giữ giới thanh văn, bốn khí, tám khí, giữ gìn thân không động.
Sau lại tu luật nghi thanh tịnh của Bồ Tát, giữ gìn tâm chẳng khởi.
ii# - Giới thành, được lợi ích:
Cấm giới được thành tựu, thì đối với thế gian, hoàn toàn không còn nghiệp sinh nhau, giết nhau, không làm việc trộm cướp, thì không bị mắc nợ cùng nhau, không phải trả nợ trước ở thế gian.
Người thanh tịnh đó, tu Tam Ma Địa, ngay ở xác thân cha mẹ sinh, chẳng dùng phép thiên nhãn, tự nhiên xem thấy mười phương thế giới, thấy Phật, nghe pháp của Phật, phụng trì ý chỉ của Phật, được đại thần thông, dạo đi mười phương, túc mệnh(2) thanh tịnh, được không bị gian hiểm.
(2) Biết suốt ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Qua các kiếp.
Đó gọi là đệ nhị tinh tiến tu hành tiệm thứ.
C# - Trái với hiện nghiệp:
i# - Căn trần đều bỏ:
Thế nào là hiện nghiệp?
Ông A Nan! Người giữ cấm giới thanh tịnh đó, lòng không tham dâm, đối với lục trần bề ngoài, chẳng hay lưu dật. Nếu chẳng lưu dật(1), trở về chỗ bản nguyên(2). Đã chẳng duyên theo trần, căn không phối ngẫu(3). Ngược dòng trở về chân tính, sáu căn thọ dụng không hiện hành.
(1) Chạy dòng theo cảnh, lông bông.
(2) Chân tính.
(3) Căn tiêu, vì không dựa vào đâu.

ii# - Diệu tính viên minh:
Mười phương quốc độ trong sạch sáng suốt, ví như ngọc lưu ly, trong trẻo mặt trăng sáng. Thân tâm khoan khoái, diệu viên bình đẳng, được rất an lành. Tất cả các đức "mật, viên, tịnh, diệu" của Như Lai đều hiện trong lòng người tu.
iii# - Hứa mau chứng vị:
Người đó liền được vô sinh pháp nhẫn. Từ đó lần lượt tiến tu, tùy theo hạnh mà an lập thánh vị.
Đó gọi là đệ tam tinh tiến tu hành tiệm thứ.
b/ - Càn tuệ địa:
Ông A Nan! Người thiện nam đó dục ái khô khan(1), căn cảnh chẳng phối ngẫu(2) nhau. Hiện tiền cái chất tàn không còn nối sinh(3). Giữ gìn tâm trống rỗng, sáng suốt, và viên mãn chói mười phương thế giới. Có cái tuệ khô khan ấy, gọi là Càn Tuệ Địa. Dục ái, tập khí mới khô(4) chưa tiếp với dòng nước pháp(5) của Như Lai.
(1) Đoạn dứt.
(2) Phối ngẫu: cặp kè nhau như vợ chồng.
(3) Chết rồi không sinh nữa.
(4) Như hột giống rang khô không mọc được.
(5) Chân như pháp tính.



BÌNH LUẬN
Đến đây, là đến phần tối quan trọng của bộ kinh Lăng Nghiêm.
Phật thuyết kinh này, cốt để dạy ta tu chứng đến Càn Tuệ Địa.
Từ đầu bộ kinh, Phật đã cặn kẽ chỉ dạy cho ta biết phương pháp tu.
Nay đến lúc thực hành tu chứng.
Trước hết hãy lập ra ba vị tiệm thứ. Đó là:
1) Không được ăn 5 thứ tân thái là: hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu.
2) Giữ giới luật trong sạch, không còn tâm sát, đạo, dâm, vọng.
3) Tu theo nhĩ căn viên thông như đã giảng dạy kỹ ở đoạn: "Bồ Tát Quán Thế Âm trình bày lối tu".
Càn Tuệ Địa.
Quả đầu tiên tu chứng là Càn Tuệ Địa.
Rất cần tu chứng được quả này.
Tức là thoát khỏi vòng sinh tử, không bị luân hồi nữa.
Ví như trong cái nhà lớn, giữa nhà có hòn ngọc quý. Có một cái cửa hẹp.
Phải qua cửa, lọt vào trong nhà, rồi mới tiến vào giữa nhà lấy hòn ngọc.
Hòn ngọc là ví với quả Phật.
Qua cửa, vào nhà, là ví với quả Càn Tuệ Địa.
Nếu đứng ngoài cửa, không hy vọng gì lấy được ngọc. Đó là ví với những người chưa tu chứng, còn học Phật qua danh tự. Dù có giỏi giáo lý, thông suốt tam tạng, cũng chỉ là giải ngộ. Hiểu kiếp này, sang kiếp sau lại quên, phải học lại.
Vẫn bị luân hồi sinh tử, bị phiêu lưu trên biển khổ.
Chứng Càn Tuệ Địa, tức là được giải thoát khỏi bể khổ, không còn bị luân hồi, bị cảnh lôi kéo.
Như thế là không bị thoái lui nữa.
Cứ thẳng tiến qua các cảnh giới tu chứng, cho đến quả Phật.
Không còn bị khổ, trong tâm sáng suốt, an lành, vui vẻ. Trí tuệ sáng suốt, bao trùm.

No comments:

Post a Comment