Friday, November 4, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 37)

C/ - Phật khiến ngài Văn Thù chọn:
i/ - Phật khiến chọn căn:
Khi đó, Như Lai bảo Pháp vương tử Văn Thù Sư Lợi: "Nay ông xem xét 25 vị vô học, các đại Bồ Tát và A La Hán đều nói phương tiện tối sơ thành đạo. Hết thảy đều tỏ rằng tu tập chân thật viên thông. Các người tu hành thực không ai hơn ai(1). Nay tôi muốn khiến A Nan khai ngộ 25 hành, cái hành nào xứng với căn A Nan, và sau khi tôi diệt độ, chúng sinh thế giới này vào Bồ Tát thừa, cầu vô thượng đạo, môn phương tiện nào để được thành tựu?"
(1) Tu phương pháp nào cũng được.
ii/ - Ngài Văn Thù nói bằng kệ:
Pháp vương tử Văn Thù Sư Lợi vâng theo lời Phật, liền đứng dậy đảnh lễ chân Phật, thừa uy thần của Phật, nói bài kệ sau đây:
a/ - Phát nguyện chọn lựa:
Cái giác tính đứng lặng,
Viên mãn vẫn là nguyên diệu.
Cái nguyên minh tính nó vẫn sáng suốt,
Hư vọng sinh cái chiếu thành ra sở.
Cái sở đã lập, thì tất nhiên sáng suốt bị ẩn khuất.
Y nơi hư vọng, mê hoặc đó,
Lần lần hiện ra hư không, thế giới, quốc độ, chúng sinh.
Vậy biết rằng đại giác tùy duyên biến hiện.
Ra hư không và các nước nhiều như vi trần,
Như biển cả nổi lên một bọt sóng.
Hễ cái bọt đó dứt đi,
Hư không sẽ không có,
Và ba cõi cũng diệt.
Cái lẽ quay về bản nguyên chân tính là một, không hai,
Nhưng các phương tiện có nhiều, hoặc thuận, hoặc nghịch.
Đối với các bậc thánh thì môn nào cũng thông, nhưng với người mới tu, thì có mau chậm khác nhau.
Nên phải lựa chọn.
b/ - Lựa các môn:
1/ - Lựa 6 trần:
A# - Sắc trần:
Sắc trần cấu kết thành là bởi vọng tưởng.
Cái tâm tinh không có thể thấu triệt được.
Làm sao y nơi đó chứng viên thông?
B# - Thanh trần:
Âm thanh lẫn lộn với lời nói,
Chỉ y nơi cái tên, câu nghĩa,
Chứ không trùm tất cả.
Làm sao chứng viên thông?
C# - Hương trần:
Hương do hợp mà biết,
Ly ra thì không có,
Chỗ biết chẳng phải thường còn,
Làm sao được viên thông?
D# - Vị trần:
Tính biết vị chẳng phải bản nhiên,
Nhân nếm vị mới có,
Nếm biết chẳng phải hằng có,
Làm sao được viên thông?
E# - Xúc trần:
Xúc do sờ mà biết,
Không có chỗ sờ, không thể biết,
Hợp ly tính không định,
Làm sao được viên thông?
F# - Pháp trần:
Pháp gọi là nội trần,
Nương trần tất có sở,
Năng sở chẳng khắp thiệp,
Làm sao được viên thông?
2/ - Lựa năm căn:
A# - Nhãn căn:
Tính thấy dù thông suốt,
Nhưng không bao quát trước sau,
Bốn góc thiếu một nửa,
Làm sao được viên thông?
B# - Tỵ căn:
Hơi thở mũi ra vào thông,
Giữa hai hơi thở có chặng giữa,
Chia lìa chẳng nối liền nhau,
Làm sao được viên thông?
C# - Thiệt căn:
Lưỡi không vị không biết,
Nhân vị thành tính biết,
Vị mất, biết cũng mất,
Làm sao được viên thông?
D# - Thân căn:
Thân với xúc đồng nhau, nhờ nhau,
Không phải viên quán,
Rời nhau không biết hội,
Làm sao được viên thông?
E# - Ý tri căn:
Ý tri căn lẫn lộn với tưởng,
Không có thể thoát đi,
Để mà chứng tính trạm liễu,
Làm sao được viên thông?
3/ - Lựa sáu thức:
A# - Nhãn thức:
Nhãn thức nhờ căn trần hòa hợp,
Vốn không có tướng,
Tự thể không định,
Làm sao được viên thông?
B# - Nhĩ thức:
Nhĩ thức nghe thông suốt mười phương,
Là nhờ nhân lực lớn,
Người mới tu không vào được,
Làm sao được viên thông?
C# - Tỵ thức:
Quán chóp mũi là quyền cơ
Để thu nhiếp tâm được an trụ,
Hễ phàm có trụ thì tâm bị buộc một chỗ,
Làm sao được viên thông?
D# - Thiệt thức:
Thuyết pháp là dựa theo âm thanh với văn chương,
Đều không thuộc về vô lậu.
Khai ngộ là nhờ túc duyên từ trước,
Làm sao được viên thông?
E# - Thân thức:
Giữ giới cốt để giữ cái thân đừng cho phạm,
Chỉ bó buộc được thân,
Khi quán vô thân, thì không bó buộc được,
Chẳng khắp được tất cả.
Làm sao được viên thông?
F# - Ý thức:
Ông Lục Liên thành được, là do túc duyên trước,
Chứ không phải do ý mà thành.
Ý bị buộc nơi cảnh duyên
Làm sao được viên thông?
4/ - Lựa bảy đại:
A# - Địa đại:
Địa tính thuộc về hữu vi,
Ngăn ngại, không thông đạt,
Không phải là thánh tính,
Làm sao được viên thông?
B# - Thủy đại:
Thủy tính do tưởng niệm thành,
Chứ không phải là chân thực chân như,
Như như không giác quán,
Làm sao được viên thông?
C# - Hỏa đại:
Hỏa tính do nhàm chán cái có,
Không phải thuộc về chân lý,
Không phải là phương tiện của người mới tu,
Làm sao được viên thông?
D# - Phong đại:
Phong tính là động tĩnh tương đối,
Đối chẳng phải vô thượng giác,
Làm sao được viên thông?
E# - Không đại:
Nếu lấy tính không mà quán,
Hôn-độn là không giác,
Không giác khác Bồ Đề,
Làm sao được viên thông?
F# - Thức đại:
Nếu quán thức tính,
Quán thức chẳng thường trụ,
Giữ tâm là hư vọng,
Làm sao được viên thông?
G# - Kiến đại:
Các hạnh là vô thường.
Tính của niệm gốc là sinh diệt,
Nhân quả không đồng nhau,
Làm sao được viên thông?
c/ - Chỉ căn viên thông:
Nay tôi bạch Thế Tôn:
Phật xuất hiện cõi Ta Bà này,
Trong cõi này chân giáo thể
Thanh tịnh ở nơi văn căn và âm thanh.
Muốn chứng Tam Ma Đề,
Nên thật nơi văn căn mà vào.
Hay thay, ngài Quán Thế Âm,
Đã xa lìa các sự khổ, được giải thoát,
Đã từng vào vô số Phật độ.
Từ hằng sa kiếp.
Được sức rất tự tại,
Ban cho chúng sinh cái đức vô úy.
Tiếng nói pháp nhiệm màu,
Quán theo cái tiếng để cứu khổ chúng sinh.
Tiếng trong trẻo thanh nhã, đúng thời cơ.
Cứu người đời được an lành,
Độ kẻ xuất thế được quả thường trụ.
Nay xin bạch Như Lai:
Cái pháp của ngài Quán Âm nói hay lắm:
Ví như người ở một nhà yên tĩnh,
Mười nơi chung quanh đều đánh chuông, trống,
Thì cả trong mười chỗ đồng thời nghe cả.
Thế mới là chân thật viên.
Con mắt chẳng thấy vật ngoài chỗ bị che,
Miệng, mũi và thân do các vật họp lại mới biết.
Còn ý (tâm niệm) lăng xăng không có mối manh.
Tai cách vách đều nghe tiếng,
Xa gần đều nghe thấy,
Thế mới chân thật là thông.
Cái tính âm thanh động tĩnh,
Trong văn căn nó hoặc có, hoặc không.
Không có tiếng, gọi là không nghe,
Chẳng phải thật cái văn căn không có tính.
Lúc không có tiếng, thì cái văn căn đã không bị diệt.
Khi có tiếng, thì văn căn cũng chẳng phải sinh.
Cả sinh diệt đều xa lìa,
Thế mới là thường chân thật.
Dù trong lúc mộng tưởng,
Chẳng bị vô tư mà không văn tính(1);
Cái trí giác quán thuộc về văn tính
Vượt ra ngoài cái suy nghĩ,
Thân tâm đều không kịp nó.
Nay ở cõi Ta Bà này,
Thanh giáo được phát minh(2).
Chúng sinh mê tính bản văn (văn căn),
Theo âm thanh nên bị lưu chuyển(3).
Ông A Nan dù có ghi nhớ nhiều,
Mà cũng không khỏi lạc về tà tư.
Bởi theo tiếng mà bị đắm đuối.
Xoay căn nghe trở lại thì hết vọng(4).
Ông A Nan, nghe cho kỹ:
Tôi nương oai lực của Phật,
Tỏ nói pháp "Kim Cương vương
Như huyễn bất tư nghị,
Phật mẫu chân tam muội",
Ông nghe tất cả các pháp môn
Bí mật của các đức Phật nhiều như vi trần.
Các dục lậu chẳng bị gạt bỏ trước(5).
Chất chứa nghe thành lầm lỗi.
Đem cái căn nghe mà thọ trì
(1) Lúc nào văn tính cũng có, dù khi ngủ, không suy nghĩ.
(2) Giáo pháp của Phật tỏ ra bằng tiếng nói.
(3) Khi bị chê, buồn. Khi được khen, vui.
(4) Coi khen chê như gió thoảng, không có hư vọng, không động tâm.
(5) Đầu tiên phải bỏ dục lậu, tham dục.

Phật pháp của nhiều đức Phật
Sao chẳng tự nghe cái văn tính của mình(1)
Văn căn không phải tự nhiên sinh,
Nhân tiếng mà có danh tự
Xoay cái căn nghe với bỏ thanh trần(2),
Ấy là cởi bỏ danh tự.
Một căn đã xoay về nguồn,
Thì sáu căn thành giải thoát.
Thấy nghe như mắt mỏi,
Cảnh ba cõi như hoa đốm hư không.
Cái văn tính mình xoay trở lại,
Tất nhiên cái văn căn bị mỏi, khỏi mỏi,
Và trần cảnh tiêu hết.
Lúc ấy cái giác tính viên mãn thanh tịnh.
Thanh tịnh cùng cực rồi,
Thì cái sáng thông suốt.
Tịch và chiếu(3) trùm hư không.
Ngộ rồi trở lại xem cảnh trong thế gian,
Dường như cảnh trong chiêm bao.
Ma Đăng Già cũng trong cảnh chiêm bao,
Ai có thể lưu giữ ông?
Người thức sao bị người trong chiêm bao ảnh hưởng?
Như ông huyễn sư khéo trong đời,
Hóa ra cái hình trai gái,
Dù nhìn thấy các hình đó chuyển động,
Chỉ do một cái máy dật.
Hễ tắt máy thì yên lặng(4).
Các vật huyễn đó thành ra vô tính.
Sáu căn cũng như vậy,
Vẫn nương nơi một thể tính minh,
Phân ra thành sáu món hòa hợp.
Một chỗ thành trở lại,
Sáu tác dụng đều chẳng thành.
Trần cấu tức thì tiêu,
Thành cái viên minh tịnh diệu.
Còn các cái trần cấu nhỏ nhiệm, còn sót lại,
Còn là người tu học.
Sáng suốt hoàn toàn là Phật.
(1) Khuyên nên xoay trở lại nghe văn tính mình, như gương soi vật. Các vật hiện hết, xong không nhiễm. Khen, chửi không động tâm.
(2) Thoát tiếng, đừng vướng.
(3) Tịch: tĩnh, bất động. Chiếu: như ánh sáng mặt trời.
(4) Nay ví như điện ảnh.

d/ - Khuyên tu:
Này ông A Nan và đại chúng
Các ông nên xoay ngược cái máy nghe
Trở lại nghe trong tự tính(1).
Hễ tính thành thì chứng đạo vô thượng
Viên thông thật như vậy.
Ấy các đức Phật vô số
Một đường tiến thẳng vào cửa Niết Bàn,
Quá khứ các đức Như Lai,
Môn ấy đã thành tựu.
Hiện tại các Bồ Tát,
Nay đều vào viên minh.
Vị lai các người tu học
Sẽ nương pháp như vậy.
Tôi cũng nhờ môn đó mà được chứng.
Không phải chỉ riêng ngài Quán Thế Âm.
(1) Y nơi tự tính đó mà tu, quyết định thành Phật.
e/ - Kết luận:
Đức Thế Tôn hỏi tôi các phương tiện.
Để cứu đời mạt kiếp.
Người cầu xuất thế gian,
Thành tựu tâm Niết Bàn,
Theo phương pháp của đức Quán Thế Âm
Đó là hơn hết.
Còn các phương tiện khác
Đều nhờ uy thần của Phật,
Hay là y nơi sự bỏ trần lao,
Không phải là lối thường tu học.
Các lối nông, sâu, các thánh đã trình bày.
Kính lễ Như Lai tạng
Vô lậu chẳng thể nghĩ bàn,
Nguyện giúp đỡ đời sau.
Với môn này không lầm,
Phương tiện dễ thành tựu.
Có thể để dạy ông A Nan
Và đời mạt kiếp trầm luân,
Chỉ do căn này tu,
Chứng viên thông hơn các căn khác.
Chân thật tâm như vậy.


BÌNH LUẬN
Sau khi các vị thánh trình bày các lối tu. Phật bảo ngài Bồ Tát Văn Thù chọn lựa lối tu nào thích hợp cho người mới tu.
Sau khi cân nhắc, phê phán các lối tu của các vị thánh. Bồ Tát Văn Thù cho lối tu của đức Bồ Tát Quán Thế Âm là thích hợp hơn hết cho người mới tu.
Đó là lối tu theo căn tai, như đã trình bày ở trên.
Tuy vậy, các lối tu khác đều có kết quả, chứng cớ là đều có người tu chứng.
Ta nên nương theo lối tu của đức Quán Âm, nhưng các lối tu khác có thể thích hợp cho từng hạng, từng trình độ người tu.
Nay ta đã nghiên cứu xong phần:
4) - Chọn căn viên thông nhất để tu.
Và xong cả phần:
b) - Phật dạy.
Nay ta nghiên cứu sang phần:
c) - Đại chúng chứng nhập.
Tức là phần kết luận của phần lớn:
i) - Chọn căn viên thông nhất.

No comments:

Post a Comment