Sunday, November 6, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 54)

ii - Phật dạy tránh những lầm lẫn, tu lạc sang đường tà:

2 phần:
a - Nói bảy thú, để răn.
b - Nói ma ấm, để giúp.

a - Nói bảy thú, để răn:

2 phần:
1 - Ông A Nan thỉnh.
2 - Phật đáp.

1 - Ông A Nan thỉnh:

A) - Thuật ích:
Ông A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ chân Phật, chắp tay cung kính, và bạch:
Bạch đức Thế Tôn đại uy đức! Tiếng từ quý báu khôn khéo khai ngộ cho chúng sinh các hoặc vi tế, khiến tôi ngày nay thân tâm được nhẹ nhàng vui vẻ, rất được lợi ích.
B) - Lại thỉnh:
i) - Lĩnh ngộ chân lý:
Bạch Thế Tôn! Nếu cái diệu minh chân thật diệu tâm ấy, bản lai viên mãn và khắp cả, như vậy cho đến đại địa, cỏ cây, trùng và hàm linh, vẫn gốc là Chân như, tức là chân thể của đức Như Lai tu thành.
ii) - Hỏi sao có các thú?:
Phật thể chân thực, thế nào lại có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A Tu La, nhân, thiên các đạo?
Bạch Thế Tôn, các đạo ấy vì là bản lai tự có, hay là vì chúng sinh hư vọng tập mà sinh ra?
iii) - Riêng hỏi về địa ngục:
Bạch Thế Tôn! Như Tỳ Kheo Ni Bảo Liên Hương, trì giới Bồ Tát, lén làm sự dâm dục, rồi lại nói dối: "Dâm không phải là sát sinh, trộm cắp, không có tội báo gì".
Nói rồi, trước hết nơi nữ căn phát ra lửa, lần lần từng đốt xương. Lửa cháy hực lên, người đó bị đọa ngục Vô Gián.
Lại vua Lưu Ly và Thiện Tinh Tỳ Kheo. Lưu Ly thì giết dòng họ Cù Đàm.
Ông Thiện Tinh nói xuyên tạc: tất cả pháp là không.
Mấy người đó thân đương sống bị đọa địa ngục A Tỳ.
Các địa ngục đó vì là có các chỗ quyết định, hay là tự nhiên?
Các người kia phát nghiệp, mỗi mỗi người đều riêng phải chịu?
Chỉ mong đức Đại Từ khai phát kẻ đồng môn, khiến cho các chúng sinh trì giới nghe nghĩa quyết định, vui mừng kính phụng, giữ gìn kỹ càng không phạm.

2 - Phật đáp:

A) - Khen:
Phật bảo ông A Nan:
Hay thay lời hỏi ấy, khiến các chúng sinh khỏi vào tà kiến.
Ông hãy lắng tai, tôi sẽ giảng.
B) - Phật dạy:
3 phần:
i) - Nói đủ các thú.
ii) - Kết: Khuyên nên xa lìa.
iii) - Phê bình tà chính.
i) - Nói đủ các thú:
2 phần:
a) - Nói qua nguyên do lên xuống.
b) - Nói rõ nhân quả lên xuống.
a) - Nói qua nguyên do lên xuống:
3 phần:
1) - Ước tích tập để chia tình tưởng.
2) - Ước lâm chung để chỉ lên xuống.
3) - Kết luận.
1) - Ước tích tập để chia tình tưởng:
A/ - Nương chân vọng chia trong ngoài:
Ông A Nan, tất cả chúng sinh thật gốc chân tịnh, nhân cái thấy hư vọng, nên cái tập hư vọng sinh. Do đó mới chia ra nội phận và ngoại phận.
B/ - Giải nguyên nhân lên xuống:
i/ - Giải bị xuống:
Ông A Nan, nội phận là phần trong của chúng sinh. Nhân các ái nhiễm(1), khởi ra tình hư vọng. Tình chất chứa mãi, mới sinh ra nước ái. Cho nên chúng sinh tâm nhớ món ăn ngon, trong miệng chảy nước. Tâm nhớ người, hoặc thương hay giận, dưng nước mắt. Tham cầu của báu, tâm phát ra thèm, lộ ra ngoài thân thể. Tâm đắm sự dâm dục, hai căn nam nữ tự nhiên chảy nước.
(1) Ưa muốn cái gì, nhiễm cái đó.
Ông A Nan! Các ái dục, dù riêng khác, nước chảy đọng vẫn đồng nhau. Thấm ướt chẳng lên được, tự nhiên phải xa xuống.
Đó gọi là nội phận.
ii/ - Giải được lên:
Ông A Nan, ngoại phận tức là phần bên ngoài của chúng sinh. Nhân các khao khát mới phát minh các tư tưởng(1). Tưởng chứa mãi mới sinh ra cái khí hơn bồng bột. Cho nên chúng sinh tâm giữ cấm giới, cả thân nhẹ nhàng, trong sạch, tâm trì chú ấn, đáng diệu mạnh dạn. Tâm muốn sinh cõi Trời, mộng tưởng bay lên.
(1) Khổ quá mới khao khát thoát khổ.
Tâm muốn nước Phật, thắng cảnh thầm hiện. Thờ vị Thiện Tri Thức, tự khinh thân mệnh.
Ông A Nan, các tưởng dù khác nhau, nhẹ bay vẫn đồng. Bay lên chẳng chìm, tự nhiên siêu việt.
Đó gọi là ngoại phận.
2) - Ước lâm chung để chỉ lên xuống:
A/ - Lúc chết:
Ông A Nan! Tất cả thế gian, sinh tử nối luôn, sinh thì thuận theo tập nghiệp(1), tử thì thuận theo sự biến lưu(2). Lúc sắp chết, còn chút khí nóng(3), một đời nghiệp thiện và ác đồng thời hiện ra. Hai cái tập nghiệp: chết nghịch, sinh thuận xen nhau.
(1) Ưa, ham sống.
(2) Biến đổi tướng hình.
(3) Một chỗ sau cùng còn khí nóng: thuần thức chưa dời hết: hiện ra nghiệp. Ta có thể căn cứ vào đó để biết người ấy đầu thai ra sao. Nóng bụng: sinh cõi người. Trên bụng: từ cõi Trời trở lên. Dưới bụng trở xuống: các cõi dưới.

B/ - Xét lên xuống:
i/ - Lên:
a/ - Chỉ thuần tưởng, lên:
Thuần tưởng thì bay lên, quyết sinh lên cõi Trời. Nếu trong tâm bay lên gồm có Phúc và Tuệ, với Tịnh Nguyện, tự nhiên tâm khai thấy mười phương Phật, tất cả tịnh độ theo nguyện vãng sinh.
b/ - Chỉ tạp tưởng:
Tình ít tưởng nhiều, bay không được bao xa, bèn làm Phi Tiên, Đại Lực Quỷ Vương, Phi Hành Dạ Xoa, Địa Hành La Sát, dạo đi trong Bốn Thiên, đến đâu cũng không bị chướng ngại.
Trong đó nếu có nguyện tốt, tâm lành, hộ trì Pháp Phật, hoặc hộ trì cấm giới, theo người giữ giới. Hoặc ủng hộ thần chú, theo người trì chú. Hoặc ủng hộ thiền định, giữ yên pháp nhẫn. Các vị ấy gần ở chung quanh tọa của Phật.
ii/ - Không lên không xuống:
Tình và tưởng bằng nhau. Không bay lên, không rơi xuống, sinh trong nhân gian. Tính chất thông minh, bởi có tưởng. Tính chất ngu độn, bởi có tình.
iii/ - Xuống:
a/ - Tạp tình:
Tình nhiều tưởng ít, thiên lưu vào loài đi ngang, nặng thì làm loài có lông, nhẹ thì làm loài có cánh.
Nếu có bảy tình ba tưởng, chìm xuống thủy luân, đến nơi hỏa tế, chịu khí lửa dữ, thân làm quỷ đói, thường bị thiêu đốt. Bị nước hại mình, không ăn, không uống. Trải qua trăm nghìn kiếp.
Nếu có chín phần tình, một phần tưởng, sinh chỗ toàn lửa cháy, thân vào trong chỗ gió và lửa giáp nhau. Nhẹ hơn sinh về địa ngục Hữu Gián. Nặng hơn sinh về địa ngục Vô Gián.
b/ - Thuần tình:
Nếu chỉ thuần tình, chìm xuống vào nơi A Tỳ địa ngục. Nếu trong tâm đó, lại có các tội:
Chê bai pháp Đại Thừa và cấm giới của Phật, lầm lộn, xuyên tạc khi nói pháp, tham của tín thí, lạm nhận sự cung kính, phạm tội ngũ nghịch, mười trọng, phải sinh vào địa ngục A Tỳ khắp mười phương.
3) - Kết luận:
Theo tạo ác nghiệp, dù là tự mình chiêu cảm, nhưng trong chúng đồng phận, cũng có chỗ nhất định.

b) - Nói rõ nhân quả lên xuống:
7 phần:
1) - Địa ngục.
2) - Quỷ thú.
3) - Súc sinh.
4) - Nhân thú.
5) - Tiên thú.
6) - Thiên thú.
7) - A Tu La thú.
1) - Địa ngục:
2 phần:
A/ - Phát minh nhân tập quả giao.
B/ - Phân tích nhân thù quả biệt.
A/ - Phát minh nhân tập quả giao:
i/ - Nêu.
ii/ - Khai thị nhân quả.
iii/ - Kết luận.
i/ - Nêu:
Ông A Nan, những việc ấy, đều là các chúng sinh tự nghiệp cảm ra, tạo mười tập nhân, chịu sáu giao báo.
ii/ - Khai thị nhân quả:
2 phần:
a/ - Chỉ tập nhân để chỉ rõ cảm chiêu.
b/ - Chỉ sáu giao quả để rõ báo ứng.
a/ - Chỉ tập nhân:
Thế nào là mười nhân?
1/ - Dâm tập:
Ông A Nan! Một là: dâm tập giao tiếp, phát ra từ nơi cọ xát, mãi không thôi. Như vậy nên lúc chết thấy có lửa sáng, trong đó phát động. Ví dụ như người lấy tay cọ xát nhau, thấy có nóng.
Hai cái tập nương nhau khởi(1), nên có các việc giường sắt, trụ đồng(2).
(1) Nhân duyên. Tính ưa muốn sẵn có (nhân) và làm việc dâm (duyên).
(2) Ôm trụ đồng, giường sắt nóng dưới địa ngục.

Cho nên mười phương các đức Phật nói chành dâm là lửa dục. Bồ Tát thấy sự dâm dục như tránh hầm lửa.
2/ - Tham tập:
Hai là: Tham tập giao kê(1), phát ra thu hút mãi không thôi. Như vậy nên có chứa cái giá lạnh, trong đó lạnh lẽo: Ví dụ người lấy miệng hít gió, thấy có hơi lạnh.
(1) Tính toán, so lường.
Hai cái tập xô đẩy nhau, nên có những việc ba ba, tra tra, la la, như băng lạnh, hoa sen trắng, đỏ, xanh(2).
(2) Gây mãi nghiệp, nuôi mãi hạt giống dần thành lớn, thành nghiệp. Khi chết sinh chỗ bị lạnh. Lạnh quá, thân mình nứt nẻ, rã như hoa sen tàn.
Vì thế, mười phương các đức Phật nói tham cầu như là nước tham.
Bồ Tát tránh tham như tránh biển độc.
3/ - Mạn tập:
Ba là: Mạn tập giao lấn, phát ra ỷ nhau(3), tuôn chảy mãi không thôi. Như vậy nên có cuồn cuộn chảy, chứa sóng thành nước.
(3) Ỷ mình đẹp, giỏi, mạnh, lấn, khinh người khác.
Như lưỡi nếm vị, chảy nước dãi.
Hai tập cổ động nhau, nên có các việc sông huyết, tro cát nóng, biển độc, nước đồng v.v... Vì thế, mười phương Phật gọi ngã mạn là uống nước si.
Bồ Tát tránh ngạo mạn như tránh chỗ sa lầy lớn.
4/ - Sân tập:
Bốn là: sân tập xung đột xen nhau, phát từ nơi giận nhau, kết mãi không thôi. Tâm nóng nảy phát ra lửa, un đúc khí kết lại, thành loại kim(1).
(1) Ghét nhau, bề ngoài như lửa, trong hết lại thành kim (chất cứng).
Như vậy nên có các việc đao sơn, kiếm thụ, phủ việt(2).
(2) Núi đao; cây bằng gươm, trèo lên bị gai đâm; bua.
Như người bị hàm oan, sát khí đằng đằng. Hai tập kích thích nhau, nên có các việc bị hình, chém, đâm, đánh, đập.
Vì thế, mười phương Phật nói nóng giận tên là đao kiếm sắc.
Bồ Tát tránh sân như tránh sự tàn sát.
5/ - Trá tập:
Năm là: Trá tập dụ nhau, phát từ nơi dỗ nhau, dắt dẫn không thôi(3). Vì vậy nên có như cái giây quấn cây, nước tưới ruộng: cây cỏ sinh trưởng(4).
(3) Phỉnh phờ, dụ dẫn, nịnh hót.
(4) Lúc đầu không biết, bị mắc, sau bị hại.

Hai tập nhân nhau, nên có các việc gông, xiềng, cùm, xích, roi, đánh v.v...
Vì thế, mười phương Phật gọi gian ngụy là giặc hiểm.
Bồ Tát tránh gian trá như tránh lang, sói.
6/ - Cuốn tập:
Sáu là: Cuốn tập dối nhau, phát từ nơi dối gạt nhau, dối và vu khống mãi không thôi, buông tâm làm gian. Như vậy nên có đồ bẩn thỉu, bụi bặm ô uế, như bụi theo gió, đều không thấy(1).
(1) Dối gạt, mãi làm gian, lúc đầu không biết, gây mãi ô uế.
Hai tập gia nhau, nên có các việc chìm đắm, vụt, bay.
Vì thế, mười phương Phật gọi lừa gạt là cướp giết.
Bồ Tát tránh dối gạt như tránh rắn độc.
7/ - Oan tập:
Bảy là: Oan tập hiềm nhau, phát từ nơi hàm hận(2). Như vậy nên có những việc ném đá, ném gạch, nhốt cũi, rọ, như người âm độc(3), lòng chất chứa các sự ác.
(2) Cưu mang chất chứa việc giận, thành thù hại nhau.
(3) Thầm nuôi các sự ác, ngoài không thấy.

Hai tập lấn át nhau, nên có những việc ném, bắt, đánh, bắn.
Vì thế, mười phương Phật gọi oan gia là quỷ phá hoại. Bồ Tát tránh oan gia như rượu độc.
8/ - Kiến tập:
Tám là: Kiến tập giao minh(1), như thân kiến, kiến thủ(2), giới cấm thủ(3), tà giải(4), các nghiệp. Phát từ nơi chống trái, sinh ra trái nhau. Như vậy nên có sứ vua, chủ lại, cầm văn tịch làm chứng. Ví như người đi đường qua lại gặp nhau.
(1) Tà kiến càng tập càng nặng.
(2) Trí thức của mình cho là hơn.
(3) Theo ý riêng giữ giới.
(4) Hiểu sai.

Hai tập giao nhau, nên có các việc tra hỏi, gian trá, xét gạn, khám tra, vạch cứu, soi rõ, và thiện ác đồng tử tay cầm quyển sổ để biện bạch.
Vì thế mười phương Phật gọi ác kiến là hầm ái kiến.
Bồ Tát tránh các sự thiên chấp hư vọng(5) như xa vũng nước độc.
(5) Khăng khăng cho mình là phải.
9/ - Uổng tập:
Chín là: Uổng tập xen nhau, phát từ nơi vu báng(1). Như vậy cho nên có các việc hai hòn núi đá ép lại, nghiền, xay. Ví dụ đứa giặc dèm pha, hại người lương thiện.
(1) Gia tăng cho người đó, vu, phao, báng, nói thêm.
Hai tập xô đẩy nhau, nên có các việc vắng, ép, đè, nén, lọc, cân.
Vì thế, mười phương Phật gọi vu oan là cọp biết nói dèm.
Bồ tát tránh sự vu oan như tránh sét đánh.
10/ - Tụng tập:
Mười là: Tụng tập giao huyên(2), phát từ che giấu. Như vậy nên có những việc gương soi thấy tỏ rõ, ví như giữa mặt trời không thể giấu hình ảnh.
(2) Che lỗi mình, vạch lỗi, nói vu cho người, kiện.
Hai tập bày ra, nên có các bạn ác tố cáo, nghiệp cảnh hỏa châu, vạch rõ và đối nghiệm nghiệp đời trước.
Vì thế, mười phương Phật gọi che giấu là âm tặc. Bồ Tát tránh che giấu, như bị đội núi cao đi trên biển cả.
b/ - Chỉ 6 giao quả:
1/ - Nêu:
Thế nào là lục báo?
Ông A Nan! Tất cả chúng sinh vì lục thức tạo nghiệp, bị chiêu lấy ác báo theo sáu căn ra.
2/ - Kể sáu báo:
Thế nào là ác báo, theo sáu căn ra?
A# - Kiến báo:
Một là: kiến báo chiêu dẫn ác nghiệp. Kiến nghiệp này giao kết thì lúc chết, trước hết thấy lửa đầy mười phương. Thần thức của người chết nương bay theo khói, sa vào địa ngục vô gián, phát hiện ra hai tướng: Một là thấy sáng, thì có thể thấy khắp nơi các ác vật, sinh sợ vô cùng. Hai là thấy tối, lặng lẽ chẳng thấy gì cả, sinh sợ vô cùng.
Như vậy thấy lửa đốt nơi thính căn, có thể làm những nước sôi trong chảo đồng.
Đốt nơi tỷ căn, có thể làm khói đen, hơi lửa.
Đốt nơi tri vị căn, có thể làm những viên sắt nóng.
Đốt nơi xúc căn, có thể làm cái lò tro than nóng.
Đốt nơi tâm căn, có thể sinh ra đống lửa tung ra bay cả không giới.
B# - Văn báo:
Hai là: văn báo chiêu dẫn ác quả. Văn nghiệp này giao kết, lúc chết thấy sóng chìm ngập trời đất, thần thức nương theo sóng trôi vào ngục vô gián. Phát hiện ra hai tướng:
a) Một là nghe rõ, nghe nhiều tiếng ồn làm rối loạn tinh thần.
b) Hai là không nghe thấy gì, vắng lặng u trầm.
Sóng nghe như thế chảy vào cái nghe làm thành sự trách phạt, gạn hỏi. Chảy vào cái thấy, làm thành sấm, sét và khí ác độc. Chảy vào hơi thở, làm thành mưa, sương tưới các trùng độc khắp cả thân thể. Chảy vào vị, làm thành mủ, huyết và những đồ uế tạp. Chảy vào xúc, làm thành súc sinh, ma quỷ và phân. Chảy vào ý, làm thành sét và mưa đá phá hoại tâm phách.
C# - Khứu báo:
Ba là: Khứu báo chiêu dẫn ác quả. Khứu nghiệp này giao kết, lúc chết thấy độc khí đầy nhãy xa gần. Thần thức nương theo khí vào vô gián địa ngục.
Phát hiện ra hai tướng:
a) Một là thông: bị các khí độc nhiễu loạn tâm thần.
b) Hai là tắc: Khí không thông, bức tức mà té xỉu xuống đất.
Khi ngửi như thế xông vào hơi thở, làm thành nghẹt và thông. Xông vào cái thấy, làm thành lửa và đuốc. Xông vào cái nghe, làm thành chìm, đắm, sôi, trào. Xông vào vị, làm thành vị ương, vị thối. Xông vào xúc làm thành nát, rũ, thành núi đại nhục có trăm nghìn con mắt mà vô số trùng ăn. Xông vào cái nghĩ, làm thành tro nóng, chướng khí, và cát bay mà đập nát thân thể.
D# - Vị báo:
Bốn là: Vị báo chiêu dẫn ác quả. Vị nghiệp này giao kết, lúc chết thấy lưới sắt phát ra lửa dữ, cháy lừng lẫy khắp thế giới.
Thần thức mắc lưới vào ngục vô gián.
Phát hiện ra hai tướng:
a) Một là hít khí vào, kết thành băng, thân bị nứt nẻ.
b) Hai là thở khí ra, bốc lên thành lửa dữ cháy tan cốt tủy.
Thứ vị nếm ấy trải qua cái nếm, làm thành sự thừa lĩnh, nhẫn chịu. Trải qua cái thấy, làm thành vàng đá nóng đỏ. Trải qua cái nghe, làm thành gươm đao sắc. Trải qua hơi thở, làm thành lồng sắt lớn trùm cả quốc độ. Trải qua xúc, làm thành cung, tên, nỏ. Trải qua ý, làm thành thứ sắt nóng bay trên hư không rưới xuống.
E# - Xúc báo:
Năm là: Xúc báo chiêu dẫn ác quả. Xúc nghiệp này giao kết, lúc chết thấy núi lớn bốn phía họp lại, không có đường đi ra. Thần thức thấy thành lớn bằng sắt, các rắn lửa, chó lửa, cọp gấu, sư tử, những lính đầu trâu, quỷ La Sát đầu ngựa cầm thương đao, lùa người vào thành đến ngục vô gián.
Phát hiện ra hai tướng:
a) Một là xúc hợp lại: núi giáp lại ép thân thể, xương thịt tuôn máu.
b) Hai là xúc ly: gươm đao đâm chém vào người, tim gan tan nát.
Thứ xúc hợp ấy trải qua cái xúc, làm thành đường, quán, sảnh, án. Trải qua cái thấy, làm thành thiêu đốt. Trải qua cái nghe, làm thành đập, đánh, đâm, bắn. Trải qua hơi thở, làm thành túi, đẫy, tra khảo, trói buộc. Trải qua cái nếm, làm thành kìm, kẹp, chém, chặt. Trải qua cái ý, làm thành xa xuống, bay lên, nấu, nướng.
F# - Tư báo:
Sáu là: Tư báo chiêu dẫn ác quả. Tư nghiệp này giao kết, lúc chết thấy gió dữ thổi hư nát quốc độ. Thần thức bị thổi bay lên hư không, theo gió rơi vào ngục vô gián.
Phát hiện ra hai tướng:
a) Một là không biết: mê muội vô cùng, chạy mãi không thôi.
b) Hai là không mê: biết cái khổ bị nấu, bị thiêu, đau đớn vô cùng.
Cái nghĩ bậy đó kết cái nghĩ, làm thành phương hướng, xứ sở. Kết cái thấy, làm thành nghiệp cảnh và đối chứng. Kết cái nghe, làm thành hòn đá lớn chụm lại, làm băng, làm sương, đất, ngút. Kết hơi thở, làm thành xe lửa lớn, thuyền lửa và cũi lửa. Kết cái nếm, làm thành tiếng la, hét, khóc, than. Kết cái xúc, làm thành thân lớn, thân nhỏ, và trong một ngày vạn lần chết đi sống lại, cúi xuống, ngước lên.
iii/ - Kết luận:
Ông A Nan! đó gọi là mười nhân, sáu quả của Địa ngục, đều là chúng sinh mê vọng tạo ra.
B/ - Phân tích quả báo nặng nhẹ:
Nếu chúng sinh hoàn toàn gây ác nghiệp, sau khi chết bị đọa vào ngục vô gián, chịu vô lượng khổ, qua vô lượng kiếp.
Trong sáu căn, mỗi căn tạo, và căn, cảnh bị tạo tác, người đó vào tám ngục vô gián.
Chúng sinh nào thân khẩu ý làm người ác "sát, đạo, dâm v.v...", bị đoạ vào 18 địa ngục. Chúng sinh nào không tạo hết ba nghiệp, mà chỉ tạo một nghiệp sát, hay một nghiệp đạo, bị đọa vào 36 địa ngục.
Chúng sinh nào năng kiến sở kiến, mỗi căn riêng phạm một nghiệp, vào 108 địa ngục. Bởi chúng sinh ấy riêng tạo tác nghiệp, vào chỗ đồng phận trong thế giới. Đó là vọng tưởng phát sinh, không phải sẵn có.

2) - Quỷ thú:
A/ - Nêu:
Lại nữa, ông A Nan! Các chúng sinh ấy phá luật nghi, phạm giới Bồ Tát, chê Niết Bàn của Phật, và các tạp nghiệp khác, bị khổ nhiều kiếp đốt cháy. Sau khi hết tội, mắc báo làm các thứ quỷ.
B/ - Liệt các quỷ:
Nếu cứ bản nhân tham tài vật gây tội, khi hết tội địa ngục rồi, gặp vật thành hình, làm các loài quỷ quái.
Tham sắc gây tội, gặp gió thành hình, làm các loài Bạt quỷ.
Tham các việc mê hoặc người mà gây tội, gặp súc vật thành hình, làm các loài Mỵ quỷ. Tham sân hận gây tội, gặp loài trùng thành hình, làm các loài quỷ cổ độc.
Tham sự nhớ thù xưa gây tội, gặp chỗ suy biến thành hình, làm các loài Lệ quỷ.
Tham sự kiêu ngạo gây tội, gặp khí thành hình, làm các loài Ngã quỷ.
Tham sự vu báng gây tội, gặp chỗ tối tăm thành hình, làm các loài yểm quỷ.
Tham trí thông minh gây tội, gặp loài tinh linh thành hình, làm các loài quỷ vọng lượng.
Tham sự thành công gây tội, gặp loài minh tinh thành hình, làm các loài quỷ Dịch sử.
Tham kết bè đảng gây tội, gặp người thành hình, làm các loài quỷ Truyền tống.
C/ - Kết:
Ông A Nan! Người đó bởi thuần tình, bị đọa lạc, lửa nghiệp đốt cháy. Sau khi ra địa ngục, làm quỷ. Thảy đều là nghiệp vọng tưởng dẫn mắc quả báo khổ.
Hễ giác ngộ Bồ Đề, thì trong diệu viên minh, vẫn không có các việc ấy.

3) - Súc sinh:
A/ - Nêu:
Lại nữa, ông A Nan! Quỷ nghiệp đã hết rồi, tình và tưởng đều không, mới nơi thế gian cùng với người mắc nợ trước, oan nối gặp nhau, thân làm súc sinh để trả nợ trước.
B/ - Liệt các súc:
Loại quái quỷ, khi đã hết báo, vật mà chúng nương bị tiêu hoại, sinh ở thế gian, phần nhiều làm loài chim cưu.
Loại quỷ phong bạt, báo hết, gió tiêu, sinh ở thế gian, phần nhiều làm loại chim báo điềm xấu như chim cú, chim quạ.
Loại mỵ quỷ, báo hết, súc chết, sinh ở thế gian, phần nhiều làm loài chồn.
Loại Cổ Độc quỷ, báo hết, trùng chết, sinh ở thế gian, làm loài độc hại như rắn rết.
Loại Lệ quỷ, báo hết, suy mất, sinh ở thế gian, làm loài giun, sán.
Loại ngã quỷ, báo hết, khí tiêu, sinh ở thế gian, làm loài để người ta ăn thịt, như gà, vịt, lợn.
Loại yểm quỷ, báo hết, u tiêu, sinh ở thế gian, làm loài để người ta mặc, như con tằm, con cừu.
Loại quỷ vọng lượng, báo hết, tinh tiêu, sinh ở thế gian, làm loài biết thời tiết thứ tự, như chim yến.
Loại quỷ Dịch sử, báo hết, minh diệt, sinh ở thế gian, làm loài báo điềm tốt như chim phụng.
Loại quỷ Truyền Tống, báo hết, người chết, sinh ở thế gian, làm loài tùng phục người như mèo chó.
C/ - Kết:
Ông A Nan! Các loại ấy đều do lửa nghiệp đốt khô, trả nợ trước, làm loài súc sinh, cũng đều do nghiệp hư vọng chiêu cảm quả báo khổ.
Nếu ngộ Bồ Đề, thì các vọng duyên ấy vốn không phải có.
Như ông nói các vị Bảo Liên Hương, Lưu Ly Vương, và Thiện Tinh Tỳ Kheo, như vậy ác nghiệp, gốc từ mình phát hiện, chẳng phải từ trên trời xuống, từ dưới đất ra, hay từ người làm cho. Tự vọng nghiệp mình chiêu cảm, rồi mình trở lại chịu các khổ báo ấy.
Trong Bồ Đề tâm, đều là vọng tưởng giả dối kết lại.

4) - Nhân thú:
A/ - Nêu:
Lại nữa, ông A Nan! Loài súc sinh trả nợ trước, nếu bắt trả quá phần, thì chúng sinh bị trả trở lại làm người để đòi nợ thừa. Như người kia có sức và phúc đức, thì chẳng bỏ thân người, chỉ trả lại nợ cũ. Nếu vô phúc, phải trở lại làm súc để trả nợ kia.
Ông A Nan nên biết, nếu dùng tiền, hoặc dùng sức loài vật, chúng trả đủ thì thôi. Nếu giết, hay ăn thịt chúng, qua bao kiếp giết nhau, ăn nhau, luân hồi như bánh xe xoay vần không dứt.
Trừ pháp Sa Ma Tha và Phật xuất thế, không thể nào dứt hết.
B/ - Liệt các loại người:
Nay ông nên biết:
Loài chim cưu, khi trả xong nợ, sinh làm người, là loại ngu si hung dữ.
Loài báo trước điềm xấu, khi trả xong nợ, sinh làm người, là loại quỷ quyệt.
Loài chồn, là loại tầm thường.
Loài độc, là loại bạo ngược.
Loài giun sán, là loại đê tiện.
Loài để người ta ăn thịt, là loại nhu nhược.
Loài để người ta mặc, là loại lao động.
Loài biết thời tiết, là loại có văn học.
Loài báo trước điềm tốt, là loại thông minh.
Loài tùng phục người, là loại thông thạo.
C/ - Kết:
Các loại ấy đều do trả hết nợ, lại sinh trong nhân đạo, đều bởi vô thủy nghiệp điên đảo sinh nhau, giết nhau, chẳng gặp Phật, nghe chính pháp, trong cảnh trần lao cứ luân chuyển mãi. Thật đáng thương.

5) - Tiên thú:
A/ - Nêu:
Ông A Nan! Lại có người trong loài người, không nương Chính Giác tu Tam Ma Địa, riêng tu theo vọng niệm, giữ tư tưởng tồn tại, kiên cố hình hài, dạo chỗ rừng núi, nơi người không đến.
Có mười loại Tiên.
B/ - Liệt các loại Tiên:
Có người tu phép hòa luyện đồ ăn kiên cố chẳng thôi, khi đạo ăn thành hoàn hảo, gọi là Địa Hành Tiên.
Có người luyện thuốc bằng cây cỏ, luyện mãi, khi thành hoàn hảo, gọi là Phi Hành Tiên.
Có người hóa luyện loại kim, loại đá, kiên cố chẳng thôi, khi thành hoàn hảo, gọi là Du Hành Tiên.
Có người luyện tinh khí, động chỉ hô hấp, kiên cố chẳng thôi, khi thành hoàn hảo, gọi là Không Hành Tiên.
Có người luyện nuốt nước miệng, luyện mãi, khi thành hoàn hảo, gọi là Thiên Hành Tiên.
Có người hô hấp tinh hoa mặt trời, mặt trăng, luyện mãi, khi thành hoàn hảo, gọi là Thông Hành Tiên.
Có người tu luyện theo chú thuật, luyện mãi, khi thành hoàn hảo, gọi là Đạo Hạnh Tiên.
Có người tu phép tập trung tư tưởng, luyện mãi, khi thành hoàn hảo, trí sáng suốt(1), gọi là Chiếu Hạnh Tiên.
(1) Biết quá khứ, vị lai.
Có người tu phép luyện giao cầu, luyện mãi, đến khi cảm ứng thành hoàn hảo, gọi là Tinh Hạnh Tiên.
Có người tu luyện theo biến hóa, luyện mãi, khi thành hoàn hảo, gọi là Tuyệt Hạnh Tiên.
C/ - Phê phán:
Ông A Nan! Các loại ấy đều là người luyện tâm, chẳng tu Chính Giác, riêng được sinh lý, sống lâu nghìn muôn năm, nương ở núi cao, đảo vắng, tuyệt nhân cảnh. Họ vẫn luân hồi, vọng tưởng lưu chuyển. Chẳng tu tam muội, tiên báo hết, lại tản vào các thú.

6) - Chư Thiên:
2 phần:
A/ - Liệt các cõi Trời.
B/ - Kết luận.
A/ - Liệt các cõi Trời:
3 phần:
i/ - 6 cõi dục.
ii/ - Bốn cõi thiền.
iii/ - Bốn cõi không.
i/ - Sáu cõi dục:
a/ - Tứ thiên vương:
Ông A Nan! Những người ở thế gian không cầu thường trụ, chưa bỏ được ân ái thê thiếp, tâm không chạy theo tà dâm, lòng yên lặng, sáng sủa, sau khi chết, sinh gần mặt trời, mặt trăng.
Gọi là Trời Tứ Thiên Vương.
b/ - Trời Đao Lợi:
Rất ít dâm dục, mà lúc tịnh cư, chưa được hoàn toàn trong sạch. Sau khi chết vượt khỏi mặt trời, mặt trăng, ở đỉnh nhân gian.
Gọi là Trời Đao Lợi.
c/ - Trời Tu Diệm Ma:
Thỉnh thoảng có gặp cảnh dục, tạm thời có giao, qua rồi thì tâm không nhớ nghĩ đến nữa. Ở trong đời, động ít tĩnh nhiều. Sau khi chết, được rỡ ràng an trụ trong hư không. Ánh sáng mặt trời mặt trăng chiếu lên chẳng tới. Tự sáng chói.
Gọi là Trời Tu Diệm Ma.
d/ - Trời Đâu Xuất:
Thường thường yên tĩnh. Có cảnh dục đến, chưa thể dứt hẳn. Sau khi chết, sinh lên trên nữa, không tiếp hạ giới cảnh nhân thiên. Đến kiếp hoại, ba tai họa là nước, lửa, gió không tới được.
Gọi là Trời Đâu Xuất.
e/ - Trời Lạc Biến Hoá:
Người không có dục tâm, đối với sự dục thấy vô vị không thiết. Lúc chết, sinh lên cảnh siêu việt biến hóa.
Gọi là Trời Lạc Biến Hóa.
f/ - Trời Tha Hóa Tự Tại:
Không có tâm thế gian, mà làm việc ở thế gian. Siêu việt không làm sự giao(1). Lúc chết siêu xuất cảnh biến hóa và không biến hóa.
(1) Hết làm việc dâm dục, chỉ còn cười, nhìn nhau.
Gọi là Trời Tha Hóa Tự Tại
Ông A Nan, như vậy, sáu cõi Trời, hình dù khỏi động, tâm tích còn giao kết. Từ đây trở xuống, gọi là Dục giới.
ii/ - Bốn cõi thiền:
2 phần:
a/ - Nói bốn thiền.
b/ - Kết về sắc giới.
a/ - Nói bốn thiền:
1/ - Sơ thiền:
A# - Nói về ba Thiên:
i# - Phạm chúng Thiên:
Người tu hành không mượn Thuyền Na, không có trí tuệ. Chỉ giữ thân không dâm dục. Khi đi, khi ngồi, không có tưởng nhớ. Ái nhiễm chẳng sinh, không còn lưu luyến cõi dục. Họ làm bạn với phạm thiên. Gọi là Phạm chúng Thiên.
ii# - Phạm phụ Thiên:
Thói quen dục đã trừ, tâm ly dục hiện, an vui tùy thuận các luật nghi. Năng làm Phạm đức.
Gọi là Phạm phụ Thiên.
iii# - Đại phạm Thiên:
Thân và tâm được diệu viên, uy nghi chẳng thiếu, cấm giới thanh tịnh, lại sáng suốt tỏ ngộ. Thống lĩnh cả Phạm chúng, làm Đại phạm Vương.
Gọi là Đại phạm Thiên.
B# - Kết:
Ông A Nan! Ba bậc thắng lưu ấy, tất cả khổ não không thể bức bách. Dù chẳng phải chính tu Tam Ma Địa, trong tâm thanh tịnh, các mê lậu(1) chẳng động.
(1) Của cõi dục.
Gọi là Sơ Thiền.
2/ - Nhị thiền:
A# - Nói về ba Thiên:
i# - Thiểu Quang Thiên:
Ông A Nan! Từ Phạm Thiên tăng tiến lên, phạm hạnh viên mãn, tâm không động, phát sáng.
Gọi là Trời Thiểu Quang.
ii# - Vô Lượng Quang Thiên:
Cái sáng chói rực rỡ vô cùng, chiếu cả mười phương cõi, thành như Ngọc Lưu Ly.
Gọi là Trời Vô Lượng Quang.
iii# - Quang Âm Thiên:
Hấp thụ và giữ gìn cái ánh sáng hoàn toàn, thành tựu được giáo thể, phát ra sự hóa đạo thanh tịnh, ứng dụng vô cùng.
Gọi là Trời Quang Âm.
B# - Kết:
Ông A Nan! Ba bậc thắng lưu đó, tất cả lo âu không thể bức bách. Dù chẳng phải chính tu Tam Ma Địa, trong tâm thanh tịnh đã dẹp hoặc lậu về phần thô(1).
(1) Đẻ xuống, chưa dứt.
Gọi là Nhị Thiền.
3/ - Tam thiền:
A# - Nói về ba Thiên:
i# - Thiểu Tịnh Thiên:
Cái sáng hoàn toàn thành âm, phát lộ màu nhiệm, phát thành tịnh hạnh, thông với cái vui tịch diệt.
Gọi là Trời Thiểu Tịnh.
ii# - Vô Lượng Tịnh Thiên:
Cái cảnh tịnh không(1) hiện tiền, dẫn phát vô cùng, thân tâm nhẹ nhàng, yên lành, thành cái vui tịch diệt(2).
(1) Rỗng thông.
(2) Thành vui thực sự, vui hơn hết thế gian.

Gọi là Trời Vô Lượng Tịnh.
iii# - Biến Tịnh Thiên:
Thế giới và thân tâm, tất cả đều viên tịnh(3). Thành tựu thịnh đức. Thắng cảnh hiện tiền. Về nơi tịch diệt lạc.
(3) Nay muốn thế giới đều cũng viên tịnh.
Gọi là Trời Biến Tịnh.
B# - Kết:
Ông A Nan! Ba bậc thắng lưu đó, đầy đủ đại tùy thuận(4), thân tâm yên lành, được vui vẻ vô lượng. Dù chẳng phải chính được Tam Ma Địa, trong tâm an lành, hoan hỷ gồm đủ.
(4) Muốn chi được nấy.
Gọi là Tam Thiền.
4/ - Tứ thiền:
2 phần:
A# - Bốn thắng lưu.
B# - Năm Tịnh Cư Thiền.
A# - Bốn thắng lưu:
i# - Phúc sinh Thiên:
Ông A Nan! Lại nữa, người tu thiền khổ nhân đã hết, không bức thân tâm. Cái vui chẳng phải thường trụ, lâu ngày phải hoại. Kíp bỏ hai thứ khổ, vui. Tướng thô trọng bị diệt. Sinh tính tịnh phúc.
Gọi là Trời Phúc Sinh.
ii# - Phúc Ái Thiên:
Vì sự xá trước đã viên dung, thắng giải(1) thanh tịnh, được phúc rất tùy thuận(2), cùng đời vị lai(3).
(1) Hiểu biết chắc chắn.
(2) Tùy ý nguyện.
( 3) Của cõi Thiền.

Gọi là Trời Phúc Ái.
iii# - Quảng Quả Thiên:
Từ cõi Trời ấy, tiến lên, có hai đường:
Đối với tâm diệu tùy thuận trước, được tịnh quang vô lượng, phúc đức viên minh(1), tu chứng mà an trụ.
(1) Trí tuệ và phúc đức hoàn toàn: đó là chính đạo.
Gọi là Trời Quảng Quả.
iv# - Vô Tưởng Thiên:
Nếu đối với cái tâm trước, nhàm chán khổ và vui, cứu xét không hề gián đoạn, tròn đủ đạo xả, thân tâm đều dứt, tâm lự như tro lạnh. Trải qua 500 kiếp(2). Đã lấy sinh diệt làm nhân, không biết phát minh tính không sinh diệt. Trong nửa kiếp trước, ý lo nghĩ diệt, trong nửa kiếp sinh.
(2) Đi cong. Hết là bị luân hồi.
Gọi là Trời Vô Tưởng.
Ông A Nan!
Bốn thắng lưu ấy, tất cả trong đời các cảnh khổ và vui không thể lay động. Dù chẳng phải thật là chỗ vô vi bất động, có tâm sở đắc. Công dụng thuần thục.
Gọi là Tứ Thiền.
B# - Năm tịnh cư Thiền:
Ông A Nan! Trong bốn Thiền lại có năm bất hoàn thiên, đã dứt hết 9 phẩm tập khí cõi dưới. Hết sự khổ vui. Nơi xả tâm(1) chúng đồng phận an lập chỗ ở.
(1) Xả hết khổ vui, từ Quảng Quả Thiên tiến lên thẳng tắp, không an trụ, không rẽ.
i# - Vô Phiền Thiên:
Ông A Nan! Khổ và vui đã diệt, tâm chẳng bận rộn(2).
(2) Đệ tam quả: A Na Hàm.
Gọi là Trời Vô Phiền.
ii# - Vô Nhiệt Thiên:
Chỉ một cái xả niệm. Về khởi chỉ, cơ quan không giao nạp nữa(3).
(3) Xả ly, máy móc khởi lên, tắt đi không có.
Gọi là Trời Vô Nhiệt.
iii# - Thiện Kiến Thiên:
Mười phương thế giới trông thấy suốt, không có trần tượng, trần cấu(4).
(4) Mắt sáng suốt, thấy cảnh đều không tịch. Tâm cũng không bị nhiễm ngại.
Gọi là Trời Thiện Kiến.
iv# - Thiện Hiện Thiên:
Tinh kiến hiện tiền, được biến hóa tự tại(1).
(1) Thấy rỗng thông, suốt. Diệu dụng hiện ra cái gì cũng được.
Gọi là Trời Thiện Hiện.
v# - Sắc Cứu Cánh Thiên:
Đã rốt ráo các cơ quan, cùng tột tính chất của sắc tính. Tiến tới không giới hạn.
Gọi là Trời Sắc Cứu Cánh.
Ông A Nan! Với các cõi Bất Hoàn Thiên này, các cõi bốn Thiền, bốn Thiên, chỉ cung kính nghe, không thể thấy và biết. Như nay trong thế gian, đồng rộng núi thẳm, chỗ đạo trường của thánh nhân, đều là các vị A La Hán trụ trì. Người thô trong đời không thể thấy được.
b/ - Kết về sắc giới:
Ông A Nan! 18 cõi Trời ấy, thuần một hạnh, không giao tình, chưa thoát khỏi hình lụy.
Gọi là Sắc giới.
iii/ - Bốn cõi không:
4 phần:
a/ - Nếu tu thẳng lên.
b/ - Liệt 4 cõi.
c/ - Phê phán.
d/ - Kết.
a/ - Nếu tu thẳng lên: thành A La Hán:
Lại nữa, ông A Nan! Từ trên đỉnh cõi Sắc, lại có hai đường rẽ:
Nếu đối với xả tâm, phát minh trí tuệ. Tuệ sáng suốt viên thông, ra khỏi trần giới, thành A La Hán, vào Bồ Tát thừa.
Như vậy một loại, gọi là Hồi tâm Đại A La Hán(1).
(1) Nếu tu đúng, vào A La Hán. Nếu không, đi lạc về 4 cõi không (độn căn).
b/ - Liệt bốn cõi:
1/ - Không xứ:
Nếu ở trong xả tâm, chán cả xả, công dụng được thành tựu. Biết thân là ngại. Bỏ ngại vào không(2).
(2) Không cảnh hiện ra.
Gọi là Không xứ.
2/ - Thức xứ:
Các ngại tiêu hết rồi, trong đó chỉ còn A Lại Đa Thức với nửa phần vi tế của Mạt Na.
Gọi là Thức Xứ.
3/ - Vô sở hữu xứ:
Sắc và không đã mất, thức tâm đều diệt, mười phương yên lặng, không còn chỗ đến.
Gọi là Vô Sở Hữu xứ.
4/ - Phi tưởng phi phi tưởng xứ:
Thức tính không động(1), nghiên cùng để dứt(2). Đối với trong cái không tận, tỏ ra tính các tận(3). Ví như còn mà chẳng còn, mất mà chẳng phải mất.
(1) Chủng tử không khởi lên.
(2) Cố dứt.
(3) Còn cái tưởng rất nhỏ nhiệm, nằm trong đệ bát thức, không thể dứt. Chính ra phải chuyển (xoay), thì hóa ra hay. Vậy cố làm hết, không thể hết.

Gọi là Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
c/ - Phê phán:
Từ ngũ bất hoàn thiên, thánh đạo nghiên cứu cùng tột(4) cùng tột cái không, không tới được lý bản lai không. Như vậy một loại.
(4) Cố bỏ, để đến không: sắc, thân, thức, không.
Gọi là Độn A La Hán, không hồi tâm về Đại thừa.
Hoặc từ vô tưởng thiên, các ngoại đạo nghiên cứu cùng tột lý không, mê lậu vô văn(1), bèn vào nơi luân chuyển.
(1) Trí đa văn không tới.
Trên các cõi Trời ấy, cứ mỗi thiên nhân là kết quả hạnh nghiệp của phàm phu. Hễ quả báo hết, lại vào luân hồi.
Các vị Thiên Vương là các Bồ Tát tu Tam Ma Địa, lần lữa tiến lên con đường tu hành, hồi hướng về thánh vị.
d/ - Kết:
Ông A Nan! Bốn cõi không thiên ấy, thân tâm dứt hết, định tính hiện tiền, không có sắc, quả báo thuộc về nghiệp.
Gọi là Vô Sắc Giới.
B/ - Kết luận:
Đó đều là chẳng hiểu rõ diệu giác minh tâm chất chứa hư vọng phát ra, hư vọng có ba cõi. Trong đó hư vọng theo nhau, bảy thú đắm chìm. Thân trung ấm thụ sinh đều theo các loại.

7) - A Tu La thú:
Lại nữa, ông A Nan! Trong ba cõi, lại có bốn thứ A Tu La:
A/ - Nhiếp về quỷ thần:
Thứ nương Quỷ đạo, dùng sức hộ pháp, thừa thần thông mà vào hư không. A Tu La đó do trứng sinh ra, thuộc về quỷ thú.
B/ - Nhiếp về nhân thú:
Thứ ở cõi Trời, mất đức bị đọa vào chỗ gần mặt trời, mặt trăng. A Tu La đó do tha sinh ra, thuộc về loài người.
C/ - Nhiếp về cõi Trời:
Thứ A Tu La Vương gìn giữ thế giới, sức mạnh không kinh sợ, hay tranh quyền với Phạm Vương, Trời Đế Thích và Tứ Thiên Vương. A Tu La đó do biến hóa sinh ra, thuộc về cõi Trời.
D/ - Nhiếp về súc sinh thú:
Ông A Nan! Riêng có một thứ A Tu La hạ tiện ở đáy biển, dưới hang nước. A Tu La đó do thấp khí sinh, thuộc về súc sinh thú.

ii) - Kết: Khuyên nên xa lìa:
a) - Thuốc chữa bệnh:
1) - Vọng bệnh:
Ông A Nan! Xét kỹ trong bảy thú Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh, Người, Thần tiên, Trời, A Tu La đều là tối tăm, chìm đắm. Các tướng hữu vi vọng tưởng thụ sinh, vọng tưởng theo nghiệp, đối với nơi bản tâm diệu viên minh vô tác, đều như hoa đốm, vẫn không có chỗ đứng. Chỉ một loại hư vọng không có mối mang.
Ông A Nan! Các chúng sinh đó chẳng biết rõ bản tâm, bị luân hồi trải qua vô số kiếp.
Không được Chân tịnh, đều bởi tùy thuận sát, đạo, dâm. Nếu trái nghịch với ba chướng đó, tức là không sát, đạo, dâm.
Nếu có, là quỷ.
Không, là trời.
Có và không lấn nhau, khởi tính luân hồi.
2) - Thuốc trừ:
Nếu được nhiệm màu phát Tam Ma Địa, thì được diệu thường tịch. Có và không, hai nghiệp ấy đều không. Vượt lên nữa, hãy còn không có những việc bất sát, bất đạo, bất dâm, huống chi lại theo những sự sát, đạo, dâm.
b) - Đồng diệt đều vọng:
Ông A Nan! Chẳng đoạn ba nghiệp, thì mỗi thú đều có nghiệp riêng. Nhân nghiệp riêng đó, trong chúng đồng phận, chẳng phải là không có định xứ.
Tự hư vọng phát sinh. Cái sinh ra hư vọng không có nhân. Không có thể tìm kiếm được.
c) - Khuyên nên trừ:
Các ông gắng tu hành, muốn chứng được Bồ Đề, phải trừ ba hoặc.
Chẳng hết ba hoặc đó dù được thần thông, đều là công dụng của thế gian hữu vi. Tập khí(1) chẳng hết, lạc về ma đạo. Dù muốn trừ vọng, càng thêm hư ngụy. Như Lai nói: thật đáng thương xót. Các ông hư vọng tự tạo, chẳng phải lỗi tại Bồ Đề.
(1) Thói quen. Nghiệp gồm nhiều thói quen.

iii) - Phê bình tà chính:
Nói như vậy là nói chính đáng.
Nói khác là ma thuyết.


BÌNH LUẬN
Chúng ta nghiên cứu sang phần:
ii - Phật dạy tránh những lầm lẫn, tu lạc sang đường tà.
Phần này rất quý, giúp ta thấy rõ đường tu, và giúp ta tránh tu lạc.
Ta nên nghiền ngẫm kỹ.
Phần này lại chia làm hai phần lớn:
a - Nói bảy thú, để răn.
b - Nói ma ấm, để giúp.
Nay ta nghiên cứu xong phần rất lớn:
a - Nói bảy thú, để răn.
Phật vừa tả cho ta bảy cảnh giới của chúng sinh, đó là: Địa ngục, Quỷ, Súc sinh, Người, Tiên, Trời và A Tu La.
Ta ghi nhận mấy điều sau đây:
1) Càng ác, càng nặng nghiệp, càng sa đọa, càng làm khổ người, làm khổ mình.
2) Càng thiện, càng lên, nghiệp càng nhẹ, càng sung sướng.
Dễ giải thoát. Ta thấy rõ đường giải thoát. Ta thấy rất dễ phát triển tâm hồn mình tới chỗ sung sướng, tươi vui thực.
Không biết thì rất khổ, hại mình, hại người. Biết thì rất sướng, thấy cuộc đời nhẹ nhàng, tương lai đầy hứa hẹn.
Ta nên nghiền ngẫm kỹ phần này, sẽ thấy rất ích lợi cho sự tu học.
Nay ta nghiên cứu sang phần rất lớn, rất quan trọng đó là:
b - Nói ma ấm, để giúp.
Phần này giúp người tu khỏi tu sai lầm. Nếu không, bị lạc đường tà, không biết kiếp nào ra khỏi.

No comments:

Post a Comment