2/ - Trợ chú lực:
A# - Khuyên nên trì chú:
Nếu còn có hoặc tập(1) trước, không thể trừ diệt được, ông khiến người đó phát tâm trì "Ma ha tát đắt đa, bát đắt đa(2) vô thượng thần chú". Chú ấy từ trên cái tướng vô kiến đỉnh(3) của Phật phóng quang. Vô vi tâm(4) Phật ngồi tòa sen báu nói ra chú đó.(1) Thói quen nhỏ nhiệm.
(2) Như lọng trắng: Như Lai không ô nhiễm (trắng), bao trùm che khắp (lọng).
(3) Không ai nhìn thấy.
(4) Ứng thân Phật.
B# - Chỉ rõ trừ hoặc tập không khó:
Ông với nàng Ma Đăng Già nhiều kiếp nhân duyên ân ái, thói quen chẳng phải một đời hay một kiếp.Tôi vừa tỏ nói thì ái tâm trọn cởi bỏ, thành A La Hán. Nàng kia là dâm nữ không để tâm tu hành, nhờ thần lực thầm giúp, mau chứng quả vô học.
Các ông là Thanh Văn trong pháp hội này, cầu tối thượng thừa, quyết định thành Phật. Ví dụ như vãi bụi trước gió xuôi, có chi là khó khăn.
BÌNH LUẬN
Từ đầu bộ kinh đến đây, Phật chỉ giảng phương pháp tu chứng. Người tu nương theo phương pháp đó, tự mình cố gắng sẽ đạt kết quả.
Đó là tự lực.
Nay Phật khuyên nên trì chú. Chú là tiếng nói chung của Chư Phật. Từ bi lực của Chư Phật kết tinh vào chú. Khi ta đọc chú, là cầu từ bi lực của Phật giúp đỡ. Nếu ta đầy lòng tin. Phật lực sẽ giúp ta chóng thắng những thói quen xấu kết tập từ bao đời, và chóng chứng quả, trở nên trong sạch.
Đó là nhờ tha lực.
Chứng cớ là nàng Ma Đăng Già, vốn là một dâm nữ, không để tâm tu hành. Nhờ chú của Phật, nàng bỏ được nghiệp dâm và bao thói quen của nghiệp chúng sinh, chứng quả A La Hán.
Còn những người chân tu mà tụng chú, kết quả đến dễ dàng như tung bụi trước gió. Bao đục nhỏ nhiệm sẽ bay đi dễ dàng.
No comments:
Post a Comment