Monday, October 31, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 36)

3/ - Nói chỗ được đặc biệt:
A# - Nói chung:
Bỗng nhiên siêu việt thế gian và xuất thế gian, mười phương viên minh, được 2 thứ thù thắng(1):
(1) Lạ hơn hết.
1) Một là, trên hợp với mười phương các đức Phật, bản diệu giác tâm, cùng Phật Như Lai đồng một từ lực.
2) Hai là, dưới hợp với mười phương lục đạo chúng sinh, cùng các chứng sinh đồng một lòng trông mong cho thoát khổ.
B# - Dẫn 3 khoa:
i# - 32 ứng:
Bạch Thế Tôn! Bởi tôi cúng dường đức Quán Thế Âm Như Lai, nhờ Phật dạy bảo cho tôi tu pháp "như huyễn văn huân văn tu kim cương(1) tam muội" với Phật đồng một từ lực, khiến tôi thân thành 32 ứng, vào các quốc độ.
(1) Sáng suốt, rắn chắc, phá các pháp.
Nếu có Bồ Tát vào Tam Ma Địa, tinh tiến tu vô lậu, mà muốn được thành tựu, tôi sẽ hiện Phật thân vì họ nói pháp, khiến được giải thoát.
Nếu có hàng hữu học cầu đạo tịch tịnh diệu minh, mà muốn được thành tựu, tôi sẽ hiện thân Độc giác, vì họ nói pháp, khiến được giải thoát.
Nếu có hàng hữu học cầu đoạn 12 nhân duyên, các duyên đoạn, thắng tính hiện ra tròn đầy, tôi sẽ hiện thân Duyên giác trước người đó, nói pháp, khiến được giải thoát.
Nếu có hàng hữu học, cầu chứng tính không của Tứ Đế, tu đạo nhập diệt, thắng tính hiện ra tròn đầy, tôi sẽ hiện thân Thanh Văn trước người đó nói pháp, khiến được giải thoát.
Nếu có chúng sinh nào đã tỏ biết lòng dâm dục, không phạm tới bụi nhơ của dâm dục, thân trở nên thanh tịnh, tôi hiện thân Phạm Thiên trước người đó nói pháp, khiến được giải thoát.
Nếu có chúng sinh muốn làm Thiên chủ thống lĩnh chư thiên, tôi hiện thân Đế Thích trước người đó nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có các chúng sinh muốn được thân tự tại bay đi chơi mười phương, tôi sẽ hiện thân trời tự tại nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có chúng sinh muốn được tự tại bay giữa hư không, tôi sẽ hiện thân trời Đại Tự Tại trước người đó nói pháp, cho được thành tựu.
Nếu có chúng sinh muốn thống lĩnh các quỷ thần, cứu hộ các cõi nước, tôi sẽ hiện thân Trời đại tướng quân trước người đó nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có chúng sinh muốn thống lĩnh thế giới, bảo hộ chúng sinh, tôi sẽ hiện thân Tứ Thiên Vương trước người đó nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có chúng sinh muốn sinh về cung trời, sai khiến quỷ thần, tôi sẽ hiện thân thái tử của Tứ Thiên Vương trước người đó nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có chúng sinh ưa làm vua cõi người, tôi sẽ hiện thân nhân vương trước người đó nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có chúng sinh ưa làm chủ các dòng quý tộc, mọi người tôn nhường, tôi sẽ hiện thân trưởng giả trước người đó nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có chúng sinh ưa nói chuyện đạo lý, sống đời trong sạch, tôi sẽ hiện thân cư sĩ trước người đó nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có chúng sinh ưa quản trị quốc độ, coi công việc bang ấp, tôi sẽ hiện thân Tể Quan trước người đó nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có chúng sinh ưa thuật số, thích triết lý, tôi sẽ hiện thân Bà La Môn trước người đó nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có vị nam tử nào, ưa học pháp xuất gia, giữ gìn giới luật, tôi sẽ hiện thân Tỳ Kheo trước người đó nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có vị nữ nhân nào, ưa học pháp xuất gia, giữ gìn cấm giới, tôi sẽ hiện thân Tỳ Kheo Ni trước người đó nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có vị thiện nam nào, muốn giữ năm giới, tôi sẽ hiện thân cư sĩ trước người đó nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có vị nữ nhân nào, muốn giữ năm giới, tôi sẽ hiện thân Ưu Bà Di, trước người đó nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có người đàn bà nào muốn lập thân cầm quyền trong gia đình, tôi hiện thân nữ chủ, phu nhân, mệnh phụ, đại gia trước người đó nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có chúng sinh muốn giữ trong sạch không từng dâm dục, tôi hiện thân đồng nam trước người đó nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có người con gái muốn giữ mãi trinh tiết, tôi hiện thân đồng nữ, trước người đó nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có các vị Trời nào, thích ra khỏi cảnh Trời, tôi hiện thân Trời, vì vị đó nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có các Rồng nào thích ra khỏi loài đó, tôi hiện thân rồng mà nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có loài Dược Xoa nào muốn vượt loài ấy, tôi hiện thân Dược Xoa mà nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có loài Càn Thát Bà muốn thoát khỏi loài ấy, tôi hiện thân Càn Thát Bà nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có vị A Tu La nào muốn thoát khỏi loài đó, tôi hiện thân A Tu La nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có vị Khẩn Na La nào, muốn thoát khỏi loài ấy, tôi hiện thân Khẩn Na La nói pháp, khiến được khai ngộ.
Nếu có vị Ma Hầu La Già nào muốn thoát khỏi loài ấy, tôi hiện thân Ma Hầu La Già trước vị ấy nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có người ưa ở cõi người, tôi hiện thân người nói pháp, khiến được thành tựu.
Nếu có loài không phải người, hoặc hữu hình, hoặc không hình, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, muốn thoát khỏi cõi của họ, tôi hiện giống họ nói pháp, khiến được thành tựu.
Ấy là 32 ứng thân diệu tịnh, vào các quốc độ. Đều do các pháp tam muội văn huận, văn tu, sức nhiệm màu hình như không làm gì, tùy duyên ứng cảm, tự tại thành tựu.
ii# - 14 vô úy:
Bạch Thế Tôn! Tôi lại do các pháp kim cương tam muội văn huân, văn tu, vô tác diệu lực ấy, với mười phương ba đời lục đạo, tất cả chúng sinh, đồng một cái đức bi ngưỡng, khiến các chúng sinh nơi thân tâm tôi được 14 món công đức vô úy.
Một là: Bởi tôi không tự quán theo âm thanh, do cái quán trí mà quán, khiến mười phương chúng sinh khổ não, quán nơi tiếng tăm, được giải thoát(1).
(1) Chúng sinh niệm danh hiệu ngài, ngài quán theo tiếng tăm của chúng sinh đó mà làm thoát khổ não.
Hai là: xoay tri kiến trở lại, khiến các chúng sinh, giả sử vào trong đống lửa, lửa chẳng thiêu được.
Ba là: do xoay cái nghe trở lại, khiến các chúng sinh dù gặp nước lớn trôi, mà không bị chìm đắm.
Bốn là: dứt trừ vọng tưởng, tâm không sát hại, khiến các chúng sinh vào các quỷ quốc, mà quỷ không hại được.
Năm là: huân tu thành văn tính, sáu căn đều tiêu tan, đồng với âm thanh. Có thể khiến chúng sinh sắp bị giết hại, đao kiếm gãy hỏng. Đao binh chém mình như chặt xuống nước, như thổi ánh sáng, không hề lay động.
Sáu là: cái văn huân được tinh minh, sáng khắp pháp giới, dẹp tan các u ám. Có thể khiến chúng sinh bị quỷ dữ như Dược Xoa, La Sát, Cưu Bàn Trà, Tì Xá Gia, Phú Đơn Na v.v...gần bên, mắt chúng không trông thấy.
Bảy là: âm thanh tiêu dung, xoay máy nghe vào trong, thoát ly các trần vọng, có thể khiến chúng sinh, gông cùm xiềng xích không ràng buộc được.
Tám là: diệt âm thanh, thuần một văn tính, khắp sinh từ lực, có thể khiến chúng sinh đi ngang đường hiểm, không bị giặc cướp.
Chín là: văn huân xa lìa các trần cảnh, chẳng bị cái sắc cướp, có thể khiến tất cả chúng sinh đa dâm xa lìa tham dục.
Mười là: thuần âm thanh, không có trần, căn cảnh viên dung, không năng đối sở đối, có thể khiến tất cả chúng sinh hay giận dữ xa lìa sân hận.
Mười một là: tiêu trần xoay trở lại sáng suốt, pháp giới, thân tâm dường như ngọc lưu ly, trong suốt, không ngại, có thể khiến kẻ vô thiện tâm, bị ngu độn, tối tăm, trọn xa lìa si ám.
Mười hai là: tiêu dung hình trở lại văn tính, chẳng dời đạo trường, xen vào thế gian. Dùng phương tiện trí, có thể khắp mười phương cúng dường các đức Phật nhiều như vi trần, và bên các đức Phật được làm Pháp vương tử. Có thể khiến những chúng sinh không con trong pháp giới muốn cầu con trai thì sinh con trai phúc đức, trí tuệ.
Mười ba là: sáu căn viên thông, sáng suốt mười phương thế giới. Dùng thực trí thừa thuận mười phương Như Lai nhiều như vi trần, các bí mật pháp môn đều lĩnh thụ không xót. Có thể khiến các chúng sinh không con trong pháp giới, muốn cầu con gái thì sinh con gái có tướng tốt, đoan chính, phúc đức, nhu thuận, được mọi người kính yêu.
Mười bốn là: trong tam thiên đại thiên thế giới có 62 ức hằng hà sa số vị Pháp vương tử, tu phương pháp làm mô phạm giáo hóa chúng sinh, tùy thuận chúng sinh, phương tiện, trí tuệ, vẫn chẳng đồng nhau. Do tôi tu được viên thông bản căn, phát diệu nhĩ môn, rồi sau thân tâm vi diệu, bao khắp pháp giới, có thể khiến chúng sinh trì danh hiệu tôi, so sánh với chúng sinh trì cả 62 ức hằng hà sa số các Pháp vương tử, hai người phúc đức bằng nhau không khác.
Bạch Thế Tôn, một danh hiệu của tôi so với nhiều danh hiệu kia, hai bên không khác, bởi tôi tu tập được chân viên thông.
Ấy gọi là 14 thứ thí vô úy lực, phúc làm cho chúng sinh được nhờ hết cả.
iii# - Bốn bất tư nghị:
Bạch Thế Tôn! Tôi lại được cái viên thông ấy, tu chứng tô thượng đạo, lại có thể được bốn thứ bất tư nghị(1) vô tác diệu đức.
(1) Không lấy tâm trí mà suy nghĩ được, và không thể lấy lời nói mà nói tới chỗ cùng tột.
Một là: Do tôi trước được diệu diệu văn tâm, tâm tinh thoát bỏ văn căn, kiến văn giác tri không thể phân cách, thành một viên dung thanh tịnh bảo giác, cho nên tôi có thể hiện ra nhiều diệu dụng, có thể nói vô biên bí mật thần chú.
Trong đó hoặc hiện một, cho đến 8 vạn 4 nghìn: đầu, tay, dung mạo, hoặc từ hoặc uy, hoặc định, hoặc tuệ, cứu hộ chúng sinh, được đại tự tại.
Hai là: bởi tôi tu tập văn tư, thoát khỏi sáu trần, như cái tiếng vượt qua tường, chẳng bị ngăn ngại, nên tôi thần diệu có thể hiện mỗi mỗi hình, tụng mỗi mỗi chú, hình và chú có thể lấy vô úy ban cho các chúng sinh. Cho nên mười phương quốc độ nhiều như bụi nhỏ đều gọi tên tôi là thí vô úy.
Ba là: bởi tôi tu tập bản diệu viên thông, thanh tịnh bản căn, nên đi chơi các thế giới, đều khiến chúng sinh bỏ trân bảo của mình, cầu tôi thương xót.
Bốn là: tôi được Phật tâm, chứng quả hoàn toàn, có thể lấy các trân bảo đem cúng dường mười phương Như Lai và giúp chúng sinh trong lục đạo, khắp pháp giới cầu vợ được vợ, cầu con được con, cầu tam muội được tam muội, cầu sống lâu được sống lâu, như vậy cho đến cầu Đại Niết Bàn được Đại Niết Bàn.
4/ - Kết đáp viên thông:
Phật hỏi viên thông. Tôi từ căn tai tu tam muội viên chiếu, duyên tâm(1) tự tại, bởi tu để tiếng động vào căn tai, vào rồi mất..., được tam ma địa, thành tựu Bồ Đề. Ấy là thứ nhất.
(1) Tùy duyên chúng sinh mà ứng hóa, tâm rất tự tại.
Bạch Thế Tôn! Đức Phật kia khen tôi khéo được pháp môn viên thông. Trong đại hội của ngài, tôi được thụ ký là Quán Thế Âm. Bởi tôi quán nghe cả mười phương đều viên minh, nên tên Quán Thế Âm khắp mười phương thế giới.
iii/ - Phật phóng quang:
Khi ấy đức Thế Tôn ngồi tại tòa sư tử, từ đầu và tay chân đều phóng ra ánh sáng báu chiếu trên đỉnh các Phật và các Bồ Tát, các pháp vương tử số nhiều như bụi nhỏ trong mười phương. Đầu và tay chân của các Phật kia cũng đồng phóng ánh sáng báu từ các phương khác nhiều như bụi nhỏ, chiếu trên đỉnh đầu Phật và các đại Bồ tát, các A La Hán trong hội. Những rừng, cây, ao, đầm đều vang tiếng nói pháp, ánh sáng giao dệt như lưới tơ báu. Đại chúng được chưa từng có, đều được kim cương tam muội. Lúc đó, trên trời rơi xuống những hoa sen bá bảo, xanh vàng trắng đỏ, xen lộn mười phương hư không, thành sắc bảy thứ báu. Các núi sông, đất liền trong cõi Ta Bà này đều ẩn mất. Chỉ thấy các thế giới nhiều như bụi nhỏ ở mười phương, hợp thành một thế giới, vang lừng tiếng ca hát.


BÌNH LUẬN
Sau khi đức Bồ Tát Quán Thế Âm trình bày lối tu theo nhĩ căn viên thông để vào Càn Tuệ Địa, ngài trình bày trình độ tu chứng của ngài, các năng lực của ngài để cứu độ chúng sinh.
Những lời trên chứng tỏ: nếu ta tu đúng phương pháp của ngài, ta sẽ được như ngài. Ta sẽ thành Phật, sẽ có bao năng lực, sẽ độ vô số chúng sinh.
Phật lại phóng hào quang, hiện cảnh tưng bừng chưa từng có. Phật có ý tỏ ra là những lời trình bày của đức Quán Thế Âm rất quý báu cho người tu.
Nay ta nghiên cứu xong phần:
B/ - Phật khiến các vị thánh nói.
Ta nghiên cứu sang phần:
C/ - Phật khiến ngài Văn Thù chọn.
Ngài Bồ Tát Văn Thù, một đại Bồ Tát tiêu biểu cho trí tuệ, sẽ phê bình, cân nhắc, so sánh các lối tu, và chỉ lối tu nào hoàn hảo nhất.

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 35)

b/ - Đức Quán Âm nói dài:
4 phần:
1/ - Nhân duyên tu.
2/ - Nói phương pháp tu chứng.
3/ - Nói chỗ được đặc biệt.
4/ - Kết đáp viên thông.
1/ - Nhân duyên tu:
Bấy giờ Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch:
Bạch Thế Tôn! Tôi nhớ vô số hằng hà sa kiếp về trước, có đức Phật xuất hiện ra đời, tên là Quán Thế Âm. Tôi theo Phật đó, phát Bồ Đề tâm. Đức Phật dạy tôi từ "văn, tư, tu" vào Tam Ma Địa.
2/ - Nói phương pháp tu chứng:
I. Các tiếng động ở ngoài vào căn tại.
II. Vào rồi mất. (Sinh rồi diệt, như mọi sự vật ở đời).
III. Tâm mình vẫn không động, không để ý thức phân biệt theo, chạy theo tiếng động.
IV. Tiếng động vào tai rồi mất (theo lẽ sinh diệt). Tâm mình vẫn không động, vắng lặng, phân biệt động, tĩnh (vì có phân biệt cái động, mới phân biệt cái tĩnh là trái lại cái động).
V. Không phân biệt động, tĩnh thì không còn năng, sở:
VI. Không còn năng văn, sở văn.
VII. Không còn năng giác, sở giác.
VIII. Không còn năng không, sở không.
IX. Cho đến sinh diệt cũng không có.
X. Tịch diệt hiện tiền.


BÌNH LUẬN
Đây là phần quan trọng nhất của kinh Lăng Nghiêm, cũng là phần tối quan trọng đối với người học và tu theo Phật pháp. Học và tu theo đạo Phật, cốt tu chứng, và bước đầu tiên là tu chứng vào Càn Tuệ Địa.
Nếu không, chỉ là học theo văn tự, theo vỏ ngoài.
Phật pháp ví như cái nhà rộng, ở giữa nhà có viên ngọc quý. Có một cái cửa nhỏ để vào nhà.

Đứng ngoài nhà, thì không bao giờ lấy được ngọc.

Phải qua cửa, vào hẳn trong nhà, mới thấy ngọc, và mới tiến lên lấy ngọc.
Viên ngọc là ví với quả Phật. Vào cửa là ví với tu chứng vào Càn Tuệ Địa.
Đứng ngoài là hình ảnh những người học Phật theo văn tự, theo lý thuyết xuông, chưa từng tu chứng.
Hầu hết những người học Phật xưa nay, ở Việt Nam và thế giới, là học Phật theo văn tự, không có tu chứng, ví như người đứng ngoài cửa.
Nên đến đoạn này, đa số các nhà học Phật đều nói loanh quanh, hay là nói lược đi.
NAY CHÚNG TÔI XIN TRÌNH BÀY LỜI GIẢNG CỦA BỒ TÁT HUYỀN CƠ:
Phương pháp tu của Bồ Tát Quán Thế Âm là phương pháp tu để được nhĩ căn viên thông.
ĐÂY LÀ NGUYÊN TẮC TU THEO PHƯƠNG PHÁP ĐÓ:
1) Các tiếng động ở ngoài vào căn tai.
2) Vào rồi mất. (Sinh rồi diệt, như vạn sự ở đời). Ví dụ như cái bóng trong gương:
Vật gì đưa ra trước gương, cái gương cũng hiện bóng. Nhưng vật đi thì bóng mất, cái gương không động.
3) Tâm mình vẫn không động.
Không để ý thức phân biệt theo, chạy theo tiếng động.
4) Tiếng động vào tai rồi mất (theo lẽ sinh diệt). Tâm mình vẫn không động, vắng lặng, không phân biệt động, tĩnh. (Vì có phân biệt cái động, mới phân biệt cái tĩnh là trái lại cái động).
5) Không phân biệt động, tĩnh thì không còn năng, sở:
Không còn năng văn, sở văn;
Không còn năng giác, sở giác;
Không còn năng không, sở không;
Cho đến sinh diệt cũng không có.
(Nói lý:) Tịch diện hiện tiền.
Suốt bộ kinh Lăng Nghiêm, Phật lấy bao ví dụ để giảng nguyên tắc trên:
1) Gõ chuông.
2) Gương soi bóng.
3) Nhắm mắt thấy tối và người mù.
4) Khách trần.
5) Hoa đốm hư không.
Lối tu này thích hợp hơn các lối tu khác, đối với chúng sinh ở cõi Ta Bà này.
Tuy nhiên, các lối tu khác đều có kết quả tốt đẹp, chứng cớ là các vị thánh đã tu chứng được, và đã trình bày ở trên.
Vậy tùy trình độ các chúng sinh, ai hợp với pháp môn nào, tu pháp môn đó.
Không phải nhất định chỉ có một pháp môn. Ta nên nghiên cứu kỹ cả 25 pháp môn đã trình bày trên đây.

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 34)

C# - Ông Hương Nghiêm nói hương trần:
Ông Hương Nghiêm đồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi nghe đức Như Lai dạy tôi kỹ càng quán sát các tướng hữu vi. Sau khi từ tạ Phật về nhà thanh trai, gặp lúc các Tỳ Kheo đốt hương trầm thủy. Hương thơm lặng lẽ bay vào trong mũi. Tôi quán sát mùi hương này chẳng phải gỗ, chẳng phải hư không, chẳng phải khói, chẳng phải lửa, đến không từ đâu, đi không biết đến đâu. Bởi vậy ý tiêu mất, phát minh được trí vô lậu. Đức Phật ấn chứng tôi hiệu là Hương Nghiêm. Mùi hương là trần bỗng diệt. Diệu hương được mật viên. Tôi nhờ hương nghiêm chứng A La Hán. Phật hỏi viên thông. Như tôi chứng là nhờ hương nghiêm. Đó là trên hết.
D# - Các ông Dược Vương, Dược Thượng nói vị trần:
Hai vị Pháp Vương Tử Dược Vương, Dược Thượng, cùng 500 Phạm Thiên trong hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Chúng tôi từ kiếp vô thủy làm lương y trong đời. Miệng từng nếm các loài cỏ, cây, kim thạch của thế giới Ta Bà, số đến 10 vạn 8 nghìn. Từng biết các vị đắng, chua, mặn, ngọt, cay, các món hòa hợp, chung sinh, biến dị, cho đến là nóng, là lạnh, có độc, không độc, thảy đều biết.
Sau lại nhân kính thờ đức Như Lai, rõ biết tính của vị chẳng phải không, chẳng phải có, chẳng phải nơi thân tâm, chẳng rời thân tâm.
Nhờ phân biệt các vị mà được khai ngộ. Được Phật ấn chứng anh em tôi là Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dược Thượng. Nay làm Pháp Vương Tử trong hội này. Nhân nơi vị mà được giác minh lên hàng Bồ Tát. Phật hỏi viên thông. Chúng tôi chứng nhờ quán nơi vị. Đó là trên hết.
E# - Ông Bạt Đà nói xúc trần:
Ông Bạt Đà Bà La với 16 người bạn Bồ Tát sơ phát tâm, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Chúng tôi thuở trước, nơi chỗ đức Phật Uy Âm Vương, nghe pháp xuất gia. Theo lệ chúng Tăng tắm gội, vào nhà tắm. Bỗng giác ngộ nước là trần, thân cũng là trần, trần chẳng tẩy trần, cũng chẳng tẩy thể. Giữa 2 sự đó được yên lặng, được biết cảm giác không phải có. Cái thói quen cũ không quên. Cho đến ngày nay, theo Phật xuất gia, chứng được vô học. Đức Phật kia đặt tên tôi là Bạt Đà Bà La. Do nơi diệu xúc phát minh, thành vị trụ Phật tử. Phật hỏi viên thông. Tôi chứng nhờ quán nơi xúc. Đó là trên hết.
F# - Ông Ca Diếp nói pháp trần:
Ông Ma Ha Ca Diếp và tỳ kheo ni Tử Kim Quang liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Chúng tôi nhớ kiếp trước trong thế giới này, có đức Phật xuất thế tên là Nhật Nguyệt Đăng. Tôi được thân cận, nghe pháp tu học. Sau khi đức Phật đó diệt độ, tôi cúng dường ngọc xá lỵ của Phật, thắp đèn sáng luôn. Lấy vàng tử kim quang tô thiếp hình tượng Phật. Từ ấy đến nay, đời đời kiếp kiếp, thân thường viên mãn, sáng chói như đống vàng. Vị tỳ kheo ni Tử Kim Quang này là quyến thuộc của tôi, đồng thời phát tâm.
Tôi quán sát trong đời sáu trần biến hoại, chỉ tu theo không tịch, tu nơi "diệt tận định". Thân tâm có thể vượt trăm nghìn kiếp dường như trong giây phút. Tôi do quán pháp không tịch mà chứng A La Hán. Phật nói tôi tu hạnh Đầu Đà hơn hết. Diệu pháp mở sáng, tiêu diệt các hoặc lậu. Phật hỏi viên thông. Tôi chứng là nhờ quán nơi pháp. Đó là trên hết.
2/ - Ngũ căn viên thông:
A# - Ông A Na Luật Đà nói nhãn căn:
Ông A Na Luật Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi lúc mới xuất gia, thường thích ngủ nghỉ. Phật quở tôi là loài súc sinh. Tôi khóc và tự trách, bảy ngày chẳng ngủ, hư hai con mắt. Phật dạy tôi tu phép tam muội tên là "nhạo kiến chiếu minh kim cương".
Tôi chẳng nhờ con mắt, xem thấy mười phương, cái tinh chân rỗng suốt, như nhìn cái quả cầm trong bàn tay.
Như Lai ấn chứng cho tôi thành A La Hán.
Phật hỏi viên thông. Tôi chứng là nhờ xoay kiến căn theo bản nguyên. Đó là thứ nhất.
B# - Ông Chu Lợi nói tỵ căn:
Ông Chu Lợi Bàn Đặc Ca liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi vì thiếu công phu tụng trì, nên trí ngu độn. Lúc đầu gặp Phật, nghe pháp xuất gia. Học một câu kệ của Phật trong 100 ngày mà không thuộc. Nhớ trước quên sau, nhớ sau quên trước. Phật thương tôi ngu mê, dạy tôi yên cư, cứ tập đều hơi thở ra vào. Khi đó tôi quán sát hơi thở nhỏ nhiệm, cho đến cùng tột, thấy các hạnh sinh, trụ, dị, diệt từng mỗi sát na. Tâm được rỗng thông, rất được vô ngại. Cho đến dứt hết lậu hoặc, thành A La Hán. Nơi dưới cái Phật tọa, được ấn chứng thành vô học. Phật hỏi viên thông. Tôi chứng nhờ xoay quán hơi thở theo không. Đó là thứ nhất.
C# - Ông Kiều Phạm nói thiệt căn:
Ông Kiều Phạm Bát Đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi có bị cái khẩu nghiệp, đời quá khứ khinh vị Sa Môn, đời đời kiếp kiếp có bệnh miệng nhai chóp chép như con trâu.
Phật dạy tôi tu pháp môn "nhất vị thanh tịnh tâm địa(1)". Tâm tôi được tịch diệt, vào tam ma địa. Quán sát (xem xét) cái tính biết vị chẳng phải thể, chẳng phải vật. Tức thì được siêu thoát các hoặc lậu trong thế gian. Trong thoát bỏ thân tâm, ngoài thoát bỏ thế giới. Xa lìa ba cõi, như chim ra khỏi lồng. Xa trần cấu, con mắt pháp thanh tịnh . Thành A La Hán. Như Lai ấn chứng tôi thành đạo vô học. Phật hỏi viên thông. Tôi chứng nhờ xoay lại quán sát tính biết vị. Ấy là thứ nhất.
(1) Trong tâm chỉ có 1 cái, không gì xen vào. Pháp gì cũng được: niệm Phật, đếm hơi. Thành định rồi phát tuệ.
D# - Ông Tất Lăng nói thân căn:
Ông Tất Lăng Già Bà Ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch:
Lúc tôi mới phát tâm theo học Phật học đạo, hằng nghe Phật nói trong đời, các việc không thể vui. Một buổi, tôi đi khất thực trong thành, tâm suy nghĩ Pháp môn. Chẳng ngờ giữa đường đạp phải gai độc. Cả thân thể đều đau nhức. Tôi nghĩ rằng có cái biết, biết cái đau ấy. Dù cái giác biết đau, mà cái giác là thanh tịnh tâm, không có cái đau gì làm đau được cái giác ấy. Tôi lại ngẫm nghĩ, như vậy một thân, đâu có hai thứ giác. Thu nhiếp niệm chưa bao lâu, thân tâm bỗng không. Trong 21 ngày, các hoặc lậu tiêu hết, thành A La Hán. Được Phật ấn chứng, phát minh vô học. Phật hỏi viên thông. Tôi chứng là nhờ xả bỏ thân căn, thuần tính giác. Ấy là thứ nhất.
E# - Ông Tu Bồ Đề nói ý căn:
Ông Tu Bồ Đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch:
Tôi từ nhiều kiếp đến nay, tâm được vô ngại. Tự nhớ lúc thụ sinh, thân nhiều như số cát sông Hằng. Lúc còn ở trong thai, đã liền rõ biết lý "Không tịch". Như vậy cho đến thấy mười phương toàn không, cũng khiến chúng sinh chứng được không tính. Nhờ Như Lai phát minh "tính giác chân không", không tính viên minh, chứng A La Hán. Mau vào "bảo minh không hải" của Như Lai, đồng Phật tri kiến. Được ấn chứng thành bậc vô học. Giải thoát tính không. Tôi là vô thượng. Phật hỏi viên thông, tôi chứng nhờ tiêu dung các tướng, xoay pháp về không.
Ấy là thứ nhất.
3/ - Lục thức viên thông:
A# - Ông Xá Lỵ Phất nói nhãn thức:
Ông Xá Lỵ Phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi từ nhiều kiếp đến nay, tâm kiến (nhãn thức) thanh tịnh. Như vậy thụ sinh, thân nhiều như số cát sông Hằng. Các vật biến hóa ở thế gian và xuất thế gian, hễ thấy liền thông đạt, không bị chướng ngại. Ở giữa đường, tôi gặp anh em ông Ca Diếp Ba tỏ nói nghĩa nhân duyên, rõ biết cái tâm bao la, không biên giới. Theo Phật xuất gia, cái kiến giác viên minh, được rất vô úy(1). Thành A La Hán, làm trưởng tử Phật. Từ miệng Phật mà có, từ nơi pháp Phật hóa sinh. Phật hỏi viên thông. Tôi chứng là nhờ tâm kiến phát quang, sáng cùng tột tri kiến.
(1) Rất tự tại, vì biết rõ, không sợ.
Ấy là thứ nhất.
B# - Bồ Tát Phổ hiền nói nhĩ thức:
Bồ Tát Phổ Hiền liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi đã từng làm Pháp Vương tử với hằng hà sa đức Như Lai. Mười phương các đức Như Lai dạy các đệ tử có tâm hồn Bồ Tát, tu theo hạnh Phổ Hiền, đều lấy tên tôi.
Bạch Thế Tôn, tôi dùng cái tâm nghe (nhĩ thức), phân biệt các tri kiến của chúng sinh. Nếu ở phương khác, cách xa hằng sa thế giới, có một chúng sinh trong tâm phát minh hạnh Phổ Hiền, tôi liền cỡi voi sáu ngà, phân thân cả trăm nghìn, đến chỗ người đó. Dù cho người kia bị chướng nhiều, chưa được thấy tôi. Tôi vẫn bí mật xoa đầu, ủng hộ, và an ủi, khiến cho người đó được thành tựu.
Phật hỏi viên thông, tôi nói bản nhân là tâm nghe phát minh, phân biệt tự tại. Ấy là thứ nhất.
C# - Ông Tôn Đà nói tỵ thức:
Ông Tôn Đà La Nan Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch:
Tôi ban đầu xuất gia theo Phật học đạo, dù đủ giới luật, nhưng khi tu định tam ma địa, tâm thường tản động, chưa được vô lậu. Phật dạy tôi với ông Cu Si La quán sát trên chóp mũi.
Tôi bắt đầu quán tưởng. Trải qua 21 ngày, thấy từ trong mũi hơi ra vào như khói. Thân tâm thế giới trong ngoài rỗng suốt, thảy đều trong sạch như ngọc lưu ly. Tướng khói dần tiêu, hơi thở hóa ra sắc trắng. Tâm khai ngộ, các mê lậu hết. Hơi thở hóa ra sáng chói, chiếu mười phương thế giới.
Chứng A La Hán. Phật ghi tôi sẽ được Bồ Đề.
Phật hỏi viên thông. Tôi do tiêu diệt hơi thở, quán sát lâu phát minh, sáng được viên mãn, dứt mê lậu. Ấy là đệ nhất.
D# - Ông Phú Lâu Na nói thiệt thức:
Ông Phú Lâu Na di đa la ni tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi từ nhiều kiếp đến nay, biện tài vô ngại. Tuyên nói các pháp "khổ, không", rất thông đạt thực tướng. Như vậy cho đến tất cả pháp môn bí mật của hằng sa Như Lai, tôi giữa đại chúng, nhiệm màu khai thị, được vô sở úy. Thế Tôn biết tôi có đại biện tài, nên dùng âm thanh tuyên nói pháp luân, dạy tôi đem ra truyền bá.
Tôi ở trước Phật, dùng tiếng thuyết pháp như sư tử rống, giúp Phật chuyển pháp luân, được thành A La Hán. Phật ấn chứng tôi là thuyết pháp hay nhất. Phật hỏi viên thông. Tôi do pháp âm, hàng phục ma oán, tiêu diệt các lậu. Ấy là thứ nhất.
E# - Ông Ưu Ba Ly nói thân thức:
Ông Ưu Ba Ly liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi đích thân theo Phật vượt thành xuất gia, thấy Phật sáu năm siêng khổ, thấy Như Lai hàng phục các ma, chế các ngoại đạo, giải thoát các mê hoặc, tham dục ở thế gian. Tôi nhờ Phật dạy giới luật, như vậy cho đến 3000 uy nghi, 80000 hạnh vi tế, về tính nghiệp(1), giá nghiệp(2), thảy đều thanh tịnh, thân tâm tịch diệt, thành A La Hán.
Tôi là người làm cương kỷ trong đại chúng của Như Lai, Phật ấn chứng tôi tâm trì giới tu thân, trong chúng được suy tôn hơn hết.
Phật hỏi viên thông, tôi do luật giữ gìn thân(3), thân được tự tại, lần lữa giữ gìn tâm(4), tâm được thông đạt. Rồi sau thân tâm, tất cả được thông lợi. Ấy là thứ nhất.
(1) Tính nghiệp: giữ ác.
(2) Giá nghiệp: trợ duyên cho sự ác.
(3) Phải giữ gìn thân trước, cho khỏi phạm.
(4) Cho tâm đừng khởi. Cốt giữ tâm.

F# - Ông Mục Kiền Liên nói ý thức:
Ông Đại Mục Kiền Liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi lúc ban sơ đi khất thực, gặp ba anh em ông Ca Diếp Ba, là các ông Ưu Lâu Tần Loa, Già Da, Na Đề, tỏ nói các pháp nhân duyên của Như Lai, nghĩa thâm diệu. Tôi mau phát tâm, được đại thông đạt(1). Phật ban cho tôi áo cà sa đắp nơi thân. Tôi cạo bỏ râu tóc, đi mười phương, được không chướng ngại, thần thông phát minh. Tôi được coi là hơn hết. Thành A La Hán. Chẳng cứ một mình Thế Tôn, mà mười phương Như Lai đều khen tôi thần lực viên minh thanh tịnh, tự tại vô úy. Phật hỏi viên thông, tôi do xoay cái ý thức về trạm tính, tâm quang phát minh, như lắng nước đục, lâu thành trong suốt. Ấy là thứ nhất.
(1) Trong ý thức không còn bị buộc, biết cái gì, mắc cứng trong đó. Nay rất thông đạt, hiểu biết chân lý, thông suốt, không bị ngăn ngại.
4/ - Thất đại viên thông:
A# - Ông Ô Sô nói hỏa đại:
Ông Ô Sô Sắc Ma ở trước Như Lai, chắp tay đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi thường nhớ lâu xa kiếp trước, tính nhiều tham dục. Có đức Phật ra đời tên là Không Vương. Ngài dạy: "người đa dâm thành đống lửa mạnh". Ngài dạy tôi quán sát khắp thân thể, tay chân, xương cốt, các khí nóng lạnh. Thần quang bề trong đứng lặng(1), hóa cái tâm đa dâm thành lửa trí tuệ. Chư Phật đều gọi tôi là hỏa đầu(2). Tôi do cái sức "hỏa quang tam muội" thành A La Hán. Tâm phát nguyện lớn: "Chư Phật thành đạo, tôi làm lực sỹ để dẹp phá ma oán".
(1) Bề trong tâm chuyến chú về một cảnh, đứng lặng, tâm quang thành diệu dụng phát sáng.
(2) Từ lửa dục mà chứng quả.

Phật hỏi viên thông, tôi do quán sát các xúc nóng nơi thân tâm, không ngại, lưu thông, các hoặc lậu đã tiêu hết, sinh lửa trí tuệ sáng chói, chứng vô thượng giác. Ấy là thứ nhất.
B# - Trì Địa nói địa đại:
Trì Địa Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch Phật:
Tôi nhớ thuở trước đức Phổ Quang Như Lai xuất hiện ra đời, Tôi là Tỳ Kheo thường hay sửa sang những đoạn đường, bến nước gập ghềnh, lồi lõm làm hư tổn xe ngựa. Tôi chịu khó nhọc làm cầu, đắp đường, trải qua vô lượng Phật xuất hiện ra đời.
Hoặc có chúng sinh ở chỗ chợ búa, cần người mang đồ, tôi liền vác giúp đến nơi đến chốn mà chẳng lấy tiền.
Trong thời kỳ đức Phật Tỳ Xá Phù hiện ra đời, nhằm lúc bị đói, tôi lại cõng người, không hỏi gần xa, chỉ lấy một đồng tiền. Hoặc có xe và trâu bò bị xa chỗ bùn lầy, tôi có thần lực, xô, kéo chúng ra khỏi khổ não.
Trong lúc vị Quốc Vương mời Phật đến ăn cơm chay, tôi lại sửa đường, chờ Phật. Đức Tỳ Xá Như Lai xoa đầu tôi và bảo: "Nên bình tâm địa, thì thế giới địa, tất cả đều bình".
Tâm tôi liền khai ngộ, thấy vi trần trong thân và tạo ra thế giới đều không sai khác. Tự tính của vi trần không chạm lẫn nhau, cho đến đao binh không hề đụng chạm.
Tôi nơi pháp tính(1) ngộ vô sinh nhẫn, thành A La Hán.
(1) Chân lý.
Nay tôi hồi tâm vào trong vị Bồ Tát, nghe các Như Lai nói pháp Diệu Liên Hoa để chỉ chỗ tri kiến của Phật. Tôi được chứng minh trước, làm vị thượng thủ.
Phật hỏi viên thông, tôi do kỹ càng quán sát thân và giới, hai thứ vi trần đều không sai khác, gốc Như Lai tạng, hư vọng phát trần. Trần tiêu, trí viên mãn, thành đạo vô thượng. Ấy là thứ nhất.
C# - Nguyệt Quang nói thủy đại:
Nguyệt Quang đồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch:
Tôi nhớ thuở trước, từ kiếp số hằng sa, có Phật xuất thế tên là Thủy Thiên, dạy các vị Bồ Tát tu tập phép quán nước, vào tam ma địa. Tôi quán sát trong thân, thủy tính dung thông. Bắt đầu từ đờm, nước mắt, đến những mồ hôi, tinh huyết, đại tiện, tiểu tiện, qua lại trong thân, vẫn đồng một tính nước. Thấy nước trong thân và nước ngoài thế giới, các bể Hương thủy trong cõi Phù Tràng Vương, đều không sai khác. Lúc đó tôi mới tập, chỉ thấy nước, chưa được thân vô ngại.
Đương lúc tôi làm Tỳ Kheo, tọa thiền trong nhà. Đệ tử tôi từ cửa sổ nhòm vào, chỉ thấy nước trong đầy khắp nhà, không thấy vật gì khác. Đồng tử không biết, lấy một viên ngói ném xuống nước có tiếng bõm. Xem rồi bỏ đi. Khi xuất định, tôi thấy đau bụng, như ông Xá Lợi Phất bị quỷ hại. Tôi ngẫm nghĩ, nay đã được A La Hán, khỏi bệnh duyên đã lâu, sao nay lại sinh đau bụng, hoặc là thoái thất chăng?
Khi đó đồng tử liền kể lại việc trước. Tôi dặn:
"Khi người thấy nước nữa, nên mở cửa vào trong nước đó, lấy viên ngói đi". Đồng tử vâng lời. Khi tôi nhập định, hắn lại thấy nước, viên ngói còn nguyên. Hắn mở cửa vào lấy viên đó ra. Sau tôi xuất định, thân thể an lành như trước.
Gặp vô lượng Phật, cho đến lúc gặp đức Sơn Hải Tư Tại Thông Vương Như Lai, mới được không thân(1). Với mười phương thế giới, các bể hương thủy, tính hợp chân không, không hai không khác. Nay ở chỗ Phật, được cái tên đồng chân(2), dự Bồ Tát hội.
(1) Giải thoát cái thân.
(2) Đức lớn, chân thuần như đứa trẻ.

Phật hỏi viên thông, tôi do thủy tính, một vị lưu thông, được vô sinh nhẫn, viên mãn Bồ Đề. Ấy là thứ nhất.
D# - Lưu Ly nói phong đại:
Ông Lưu Ly Quang Pháp vương tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi nhớ thuở trước, trải qua hằng sa kiếp, có Phật xuất thế tên là Vô Lượng Thanh, khai thị Bồ Tát về bản giác diệu minh(1), quán sát thế giới và chúng sinh thân, đều bị vọng duyên là sức gió chuyển. Lúc đó, tôi quán thế giới an lập, thời gian biến chuyển, quán thân đi đứng, quán tâm động niệm, các cái động không hai, đều không sai khác. Lúc đó tôi hiểu biết các động tính đến không biết từ đâu, đi không biết đến đâu. Mười phương vi trần điên đảo chúng sinh, đồng một hư vọng, như vậy cho đến tam thiên đại thiên thế giới, có những chúng sinh như trong một cái đồ đựng trăm nghìn loài mòng muỗi, loạn kêu vo vo, ở trong phân tấc phát động náo cuồng. Gặp Phật chưa bao lâu, chứng vô sinh nhẫn.
(1) Chân như.
Khi ấy tâm khai ngộ, bèn thấy quốc độ của đức Phật Bất Động ở Đông phương, được làm Pháp vương tử, thờ mười phương Phật, thân tâm phát sáng chói, thông suốt không ngại. Phật hỏi viên thông, tôi do quán sát sức gió không chỗ nương, ngộ Bồ Đề tâm, và tam ma địa, hợp mười phương Phật, truyền một diệu tâm. Ấy là thứ nhất.
E# - Không Tạng nói không đại:
Hư Không Tạng Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch:
Tôi với đức Như Lai, ở nơi Định Quang Phật, được vô biên thân(1).
(1) Hư không thân.
Khi ấy tay cầm bốn đại bảo châu, soi sáng mười phương vi trần cõi Phật, hóa thành hư không. Lại nơi tự tâm, hiện cái gương tròn lớn, trong đó phóng mười thứ ánh sáng vi diệu quý báu, tỏa khắp mười phương cùng cõi hư không. Các cõi Tràng Vương đến vào trong gương, xen vào thân tôi. Thân đồng hư không, chẳng cùng chướng ngại. Thân có thể khéo vào các cõi nước nhiều như vi trần, rộng làm việc Phật, được đại tùy thuận, có thần lực lớn lao.
Bời tôi kỹ càng quán sát bốn đại không chỗ nương, vọng tưởng sinh diệt, hư không không hai, Phật quốc vẫn đồng, nơi đồng phát minh, được vô sinh nhẫn.
Phật hỏi viên thông, tôi do quán sát hư không vô biên, vào tam ma địa, diệu lực viên minh. Ấy là thứ nhất.
F# - Di Lạc Bồ Tát nói thức đại:
Di Lặc Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi nhớ thuở trước, trải qua kiếp nhiều như vi trần, có Phật xuất thế tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Tôi theo xuất gia, tâm trọng danh trong đời, ưa đi đến nhà sang. Khi đó đức Phật dạy tôi tu tập "duy tâm thức định", vào tam ma địa. Nhiều kiếp đến nay, do cái phép tam muội ấy, thờ các đức Phật nhiều như cát sông Hằng. Cái tâm háo danh dứt hết, không có nữa.
Đến khi đức Phật Nhiên Đăng xuất hiện ra đời, mới được thành "vô thượng diệu viên thức tâm tam muội". Thấy cùng tận hư không Như Lai quốc độ, uế, tịnh, có, không, đều là tâm tôi biến hóa hiện ra.
Bạch Thế Tôn, tôi hiểu biết "duy tâm thức" như vậy, từ thức tính xuất hiện vô lượng Như Lai. Nay được thọ ký bổ xứ(1) làm Phật.
(1) Sẽ thay đức Phật Thích Ca làm giáo chủ cõi Ta Bà.
Phật hỏi viên thông, tôi do kỹ càng quán sát mười phương duy thức, thức tâm viên minh, vào viên thành thật(1), xa lìa y tha(2) và biến kế chấp(3), được vô sinh nhẫn. Ấy là thứ nhất.
(1) Chân.
(2) Dựa vào các duyên mà khởi ra.
(3) Phân biệt, so sánh, mà chấp cái này cái kia.

G# - Bồ Tát Đại Thế Chí nói kiến đại:
Đại Thế Chí Pháp vương tử cùng 52 vị Bồ Tát đồng bạn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Chúng tôi nhớ thuở trước, hằng sa kiếp, có đức Phật ra đời tên là Vô Lượng Quang. Mười hai vị Như Lai nối nhau trong một kiếp, chót sau là đức Phật tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Đức Phật ấy dạy tôi pháp "niệm Phật tam muội"(4). Ví như có hai người, một đằng chuyên nhớ, một đằng chuyên quên, dù có gặp nhau, hay không gặp, hoặc có thấy, hay chẳng thấy nhau.
(4) Do niệm Phật, được vào định.
Nếu cả hai cùng nhớ nhau, hai cái nhớ niệm càng sâu, như vậy cho đến từ đời này đến đời kia, như hình với bóng, chẳng trái khác nhau. Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con, nếu con trốn đi, dù nhớ cũng không ích gì. Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, mẹ con nhiều đời chẳng trái xa nhau.
Nếu chúng sinh tâm nhớ Phật, niệm Phật, hiện đời này hoặc đời sau, chắc chắn thấy Phật. Cách Phật chẳng xa, chẳng mượn phương tiện, tự được tâm khai ngộ. Cũng như người nhiễm mùi hương, thân có mùi thơm, như thế gọi là trang nghiêm bằng hương quang.
Chỗ bản thân của tôi lấy niệm Phật tâm, chứng vô sinh nhẫn. Nay ở cõi ngày nhiếp người niệm Phật về cõi Tịnh Độ.
Phật hỏi viên thông, tôi không lựa chọn, đều nhiếp sáu căn, tịnh niệm nối luôn, được tam ma địa. Ấy là thứ nhất.


BÌNH LUẬN
Ta đã được chứng kiến 24 vị vừa A La Hán, vừa Bồ Tát nói kinh nghiệm bản thân của mình, đã dùng phương pháp gì để tu chứng tới quả A La Hán, và từ đó tới những cảnh giới cao hơn của Bồ Tát.
Ta thấy 24 vị là tiêu biểu cho 24 lối tu, mỗi lối tu lại tiêu biểu cho 1 trong số 17 giới và 7 đại. Tóm lại, 18 giới là 6 căn, 6 trần, 6 thức, cùng 7 đại là tóm gồm hết những sự vật hữu vi và vô vi ở các thế giới trong pháp giới bao la. Đối với chúng sinh, gồm các hình tướng bên trong và bên ngoài, gồm các sự vật về vật chất và về tinh thần giới. Sau khi ta chứng kiến sự trình bày về lối tu của 24 vị trên, ta thấy là: "Mọi sự vật đều có thể là phương tiện để ta tu chứng. Các phương pháp tu có rất nhiều, tùy trình độ và ý thích của chúng sinh mà chọn một lối tu thích hợp cho mình.
Ta có thể nương theo 1 căn, 1 trần, 1 thức hay 1 đại mà tu chứng."
Nhưng ta sẽ thấy lối tu chứng của Bồ Tát Quán Thế Âm là thích hợp hơn hết cho chúng ta.
Sau khi Bồ Tát Quán Thế Âm trình bày cặn kẽ lối tu chứng của ngài, đức Bồ Tát Văn Thù là bậc trí tuệ nhất trong các hàng Bồ Tát sẽ chọn lựa trong các lối tu, và chứng minh lối tu của ngài Quán Thế Âm là thích hợp nhất cho chúng sinh ở cõi Ta Bà này. Vậy ta nên nghiên cứu kỹ càng phương pháp tu của ngài Quán Thế Âm, sắp trình bày sau đây. Chỗ này là chỗ quan hệ nhất của bộ kinh. Cũng là chỗ khó nhất. Phải là một vị Bồ Tát đã tu chứng cao mới giảng được rõ ràng phương pháp tu chứng này. May mắn cho nước Việt Nam ta, mới xuất hiện một vị Bồ Tát tu chứng rất cao.
Đó là ngài Huyền Cơ.
Đây là tài liệu của ngài Huyền Cơ, chỉ dạy rất rõ ràng phương pháp tu theo "nhĩ căn viên thông" của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Ta nên nghiền ngẫm kỹ càng, bỏ hết thành kiến, tự ái, ngã chấp. Ta sẽ có một tài liệu quý báu giúp ta tu chứng vào Càn Tuệ Địa.
Quả Càn Tuệ Địa là quả đầu tiên mà người tu phải tới. Khi chứng quả đó, ta đã thoát khỏi luân hồi sinh tử. Ta đã "vào nhà". Đã lọt vào trong nhà, không còn loanh quanh ngoài cửa. Không còn hiểu đạo Phật qua văn tự. Không còn bị thoái chuyển nữa. Chỉ còn thủng thẳng tu chứng tới những cảnh giới trên, cho tới quả Phật.
Mục đích của kinh Lăng Nghiêm này là dạy người tu chứng quả Càn Tuệ Địa. Khi đã được quả đó, người tu đã đạt được một kết quả vô cùng quan trọng, đã chắc chắn tiến tu trên con đường thành Phật, không sợ bị thoái chuyển nữa.

Chưa tu chứng vào Càn Tuệ Địa người tu dù bác học đến đâu, dù đã giải ngộ, cũng chỉ là hiểu đạo qua văn tự. Mình chết đi, sang kiếp sau lại quên hết, lại phải học lại. Nếu không gặp đủ duyên tốt, lại lưu lạc lang thang. Nhưng nếu có dịp học đạo, sẽ chóng hiểu hơn người chưa từng học.
Ta sắp sửa nghiên cứu sang phần quan trọng, đó là phương pháp tu của Bồ Tát Quán Thế Âm để chứng Càn Tuệ Địa.
Ta nên kỹ càng nghiên cứu, hết sức chú ý. Tuy nhiên, ta cũng nên nghiền ngẫm kỹ các phương pháp tu của 24 vị vừa trình bày trên đây. Ta sẽ được lợi lạc rất nhiều.

Monday, October 24, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 33)

4) - Chọn căn viên thông nhất để tu:
3 phần:
A/ - Ông A Nan thỉnh chỉ căn viên thông nhất.
B/ - Phật khiến các vị thánh nói.
C/ - Phật khiến ngài Văn Thù chọn.
A/ - Ông A Nan thỉnh:
Ông A Nan liền chắp tay đảnh lễ chân Phật mà bạch:
Nay chúng tôi được thân tâm rỗng suốt, không còn nghi hoặc. Tuy đã biết nghĩa sáu và một đều mất, hãy còn chưa đạt được "bản căn viên thông".
Bạch Thế Tôn, chúng tôi bị phiêu linh, lẻ loi từ nhiều kiếp, nay may được làm anh em với Phật, như đứa trẻ khát sữa may gặp mẹ hiền.
Nếu không tu hành, với người chưa được nghe, cũng không khác chi.
Mong Phật mở lòng đại bi, dạy tôi lời bí mật diệu nghiệm, để thành tựu lời khai thị cuối cùng của Như Lai.
Nói xong, năm vóc sát đất lễ, mong chờ lời Phật dạy.

B/ - Phật khiến các vị thánh nói:
3 phần:
i/ - Phật hỏi các vị thánh.
ii/ - Các thánh nói bản nhân.
iii/ - Phật phóng quang.
i/ - Phật hỏi các vị thánh:
Khi đó, Phật khắp bảo trong chúng, những vị Đại Bồ Tát và các bậc A La Hán đã hết những mê lậu:
Các ông Bồ Tát và A La Hán đã nhờ pháp tôi mà chứng thành bậc vô học(1). Nay tôi hỏi các ông lúc đầu phát tâm, trong mười tám giới, ai đã do thứ nào ngộ được viên thông, và do phương tiện gì vào Tam Ma Địa?
(1) Sự tu học đã hoàn toàn, không còn phải học về giải thoát ngã chấp nữa.
ii/ - Các thánh nói bản nhân:
2 phần:
a/ - Các thánh nói.

b/ - Đức Quán Âm nói dài.
a/ - Các thánh nói:
4 phần:
1/ - Lục trần viên thông.

2/ - Ngũ căn viên thông.
3/ - Lục thức viên thông.
4/ - Thất đại viên thông.
1/ - Lục trần viên thông:
A# - Ông Trần Na nói thanh trần:
Ông Kiều Trần Na trong đám năm Tỳ Kheo, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, làm lễ chân Phật, và bạch:
Tôi ở vườn Lộc Uyển, cùng nơi Kê Viên, xem thấy Như Lai lúc mới thành đạo. Nhờ âm thanh của Phật, giác ngộ được đạo lý Tứ Đế. Phật hỏi các ông Tỳ Kheo. Tôi hiểu trước hết. Phật ấn chứng(1): cho tôi tên là A Nhã Đa(2). Tôi nhờ nơi âm thanh vi diệu, hoàn toàn, bí mật(3), mà chứng A La Hán. Phật hỏi viên thông, tôi chứng do âm thanh làm đầu.
(1) Cho là phải.
(2) Hiểu biết.
(3) Trí cạn không thể hiểu.

B# - Ông Ưu Ba Ni nói sắc trần:
Ông Ưu Ba Ni Sa Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi xem Phật lúc đầu thành đạo. Tôi quán "bất tịnh"(1), sinh rất nhàm chán, mới giải ngộ các sắc tính từ nơi chất bất tịnh. Quán ra đến xương trắng, cho đến vi trần, về nơi hư không, không và sắc hai cái đều không, thành đạo vô học. Phật ấn chứng tôi tên là Ni Sa Đà. Trần sắc đã tiêu hết, diệu sắc được mật viên. Tôi từ nơi các sắc tướng chứng A La Hán. Phật hỏi viên thông, tôi chứng là nhờ quán nơi sắc, đó là trên hết.
(1) Nhơ nhớp: thân nhơ bẩn, lúc sinh, lúc hết.

BÌNH LUẬN
Chúng ta nghiên cứu sang phần rất quan trọng, đó là phần: "thực hành tu chứng."
Phật đã giảng rõ ràng nguyên tắc tu chứng. Nay là chỗ thực hành.
Phật khiến các vị Bồ Tát và các vị A La Hán, là những người đã tu chứng ít ra là quả A La Hán, kể lại kinh nghiệm sống của mình, đã tu làm sao để chứng quả.
Ta thấy là có nhiều phương pháp tu, tùy trình độ và ý thích từng người mà chọn một pháp môn.
Những lối tu này rất quý báu.

Ta nên nghiên cứu kỹ, sẽ rất lợi cho sự tu học của ta.

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 32)

3) - Thắt khăn để chỉ thứ lớp:
3 phần:
A/ - Ông A Nan thỉnh cầu.
B/ - Phật khai thị.
C/ - Đại chúng lĩnh ngộ.
A/ - Ông A Nan thỉnh cầu:
Ông A Nan chắp tay đảnh lễ Phật:
Nay tôi được nghe các câu pháp chân thật, vô giá đại bi, tính tịnh diệu thường của Phật. Nhưng tôi chưa hiểu nghĩa: "mở sáu quên một" và "mở nút thứ lớp". Mong Phật đại từ thương xót hội này và những kẻ tương lai, bố thí cho pháp âm để rửa sạch chỗ cấu nhiễm trầm trọng của chúng tôi.

B/ - Phật khai thị:
i/ - Lấy một cái khăn, thắt 6 nút:
Đức Như Lai liền từ tòa Sư Tử, sửa áo Niết Bàn tăng, kéo áo Tăng Già Lê, vịn ghế Thất bảo, đưa tay lấy cái khăn có hoa của Trời Kiếp Ba La cúng ngài. Phật buộc khăn thành một nút, ở trước đại chúng, rồi hỏi ông A Nan: "Cái này gọi là gì?"
Ông A Nan và đại chúng đều bạch:
Đó là nút.
Phật lại thắt một nút nữa, rồi hỏi ông A Nan:
Cái này gọi là gì?
Ông A Nan và đại chúng lại bạch:
Cũng gọi là nút.
Phật lần lượt thắt sáu nút cả thảy. Mỗi lần thắt, đều đưa cái nút mới ra hỏi ông A Nan:
Cái này gọi là gì?
Ông A Nan và đại chúng đều trả lời: "Đó là nút."
Phật hỏi ông A Nan:
Lúc đầu, tôi thắt cái khăn, ông gọi là nút. Cái khăn đó trước sau vẫn là một. Cớ sao lần thứ hai, thứ ba, các ông vẫn gọi là nút?
Ông A Nan bạch:
Bạch Thế Tôn! Cái khăn thêu dệt hoa kép quý này, vốn một thể. Theo ý tôi, khi Phật thắt một lần, gọi là một nút. Nếu trăm lần thắt, phải gọi là trăm nút.
Còn đây chỉ có 6 nút, không lên đến 7, không ngừng ở 5. Tại sao Phật chỉ cho lần thắt ban đầu là nút. Còn lần thứ hai, thứ ba, không gọi là nút?

ii/ - Đáp hai câu hỏi:
2 phần:
a/ - Cởi sáu mất một.
b/ - Mở nút thứ lớp.
a/ - Cởi sáu mất một:
1/ - Chỉ cái đồng và khác:
Phật hỏi ông A Nan:
Khăn hoa báu này vẫn là một. Tôi thắt sáu lần, gọi là sáu nút. Ông hãy xét kỹ, vẫn cùng một cái khăn, vì các nút mà có khác.
Ý ông nghĩ sao?
Lúc đầu nút thành, gọi là nút thứ nhất, như vậy cho đến nút thứ sáu. Nay tôi gọi nút thứ sáu là nút thứ nhất, được chăng?
Bạch Thế Tôn! Không được. Nếu còn sáu nút, cái tên thứ sáu không thể là thứ nhất. Dù tôi hết sức lý luận suốt đời, không thể làm cho sáu nút loạn tên.
Phật dạy:
Đúng đó, sáu nút không đồng, nhưng xét lại, vẫn do một cái khăn tạo nên. Muốn chúng lộn tên, không thể được.
Sáu căn của ông cũng thế. Trong chỗ đồng, sinh cái khác nhau.
2/ - Trừ khác, trở lại thành đồng:
Phật bảo ông A Nan:
Chắc ông muốn sáu nút chẳng thành, muốn thành một, thế nào được?
Ông A Nan bạch:
Nếu còn các nút, phải trái đua nhau sôi nổi, nào nút này không phải nút kia, nút kia không phải nút này.
Nếu Phật mở tất cả các nút, sẽ không còn đây, kia. Một cũng không thành, nữa là sáu.
Phật dạy:
Mở sáu mất một, là như thế đó.
b/ - Mở nút thứ lớp:
1/ - Ví dụ với bị buộc:
Bởi từ vô thủy, tâm tính ông cuồng loạn, tri kiến vọng phát ra, phát mãi hư vọng không thôi, cái thấy rối động phát ra trần. Như con mắt mỏi thấy hoa đốm lăng xăng, không nhân gì loạn phát ra giữa hư không trong suốt, yên lặng. Vậy tất cả núi, sông, đất lớn, sinh tử, Niết Bàn ở thế gian đều là hoa đốm điên đảo.
2/ - Mở thứ lớp:
A# - Ông A Nan cầu mở:
Ông A Nan bạch:
Cuồng lao giống như cái nút, làm sao mở trừ?
B# - Phật phát minh:
i# - Trước hết, chỉ phương pháp mở:
a# - Ví dụ mở:
Như Lai lấy tay kéo khăn có nút về bên trái, rồi hỏi ông A Nan:
Thế này mở được không?
Bạch Thế Tôn, không được.
Lại kéo về bên phải, rồi hỏi:
Thế này mở được không?
Bạch, không được.
Phật hỏi:
Nay tôi lấy tay kéo về hai bên, đều không mở được. Ông dùng cách gì mở được?
Ông A Nan bạch:
Phải ở chỗ nút mà mở, nút liền cởi ra.
Phật:
Phải đó, phải đúng nơi nút mà mở.
b# - Khuyến tu:
Phật bảo ông A Nan:
Tôi nói Phật pháp từ nhân duyên sinh, chẳng phải lấy các tướng thô hòa hợp trong thế gian. Như Lai phát minh các pháp thế gian và xuất thế gian, biết bản nhân của chúng theo các duyên mà ra.
Cho đến ngoài nhiều thế giới như số cát sông Hằng, mỗi giọt mưa cũng biết số lượng. Trước mắt, các thứ cây tùng thẳng, cây cước cong, chim hộc trắng, chim quạ đen, đều rõ nguyên do. Vậy nên, A Nan, theo trong tâm ông, lựa chọn sáu căn. Nếu cái nút trong căn được trừ, trần tướng tự tiêu mất. Các vọng tiêu hết, chân sẽ hiện ra.
ii# - Chỉ mở thứ lớp:
a# - Phải mở theo trước, sau:
Ông A Nan, nay tôi lại hỏi ông: cái khăn Kiếp Ba La nay có sáu nút. Đồng thời mở xong một lúc, trừ cả sáu nút, được không?
Bạch Thế Tôn, không được. Sáu nút đó trước do thứ lớp thắt lại thành, bây giờ phải theo thứ lớp mà mở. Sáu nút đồng một thể, mà khi thắt chẳng đồng thời. Vậy lúc mở, không thể cùng một lúc trừ hết được.
Phật dạy:
Cách mở trừ sáu căn cũng thế.
b# - Phác qua các giai đoạn mở thứ lớp:
1# - Trước hết, trừ ngã chấp:
Đầu tiên, mở được căn, được nhân không.
2# - Trừ pháp chấp:
Khi tính không viên mãn, sáng suốt, thành giải thoát pháp chấp.
3# - Trừ không chấp:
Giải thoát pháp rồi, hai cái nhân không và pháp không đó chẳng sinh.
c# - Chỉ tên cảnh giới tu chứng:
Đó gọi là Bồ Tát từ pháp Tam Ma Địa, chứng được vô sinh nhẫn.

C/ - Đại chúng lĩnh ngộ:
Ông A Nan và đại chúng nhờ Phật khai thị, tuệ giác được viên thông, được hết nghi hoặc.


BÌNH LUẬN
Ông A Nan hỏi thêm nghĩa: "mở sáu quên một" và "mở nút thứ lớp".
Phật lấy cái khăn, buộc làm 6 nút. Mỗi khi thắt xong một nút, lại hỏi ông A Nan:
"Đây là gì?". Ông A Nan đều trả lời: "Đó là cái nút".
Cũng một cái khăn, mà nay chia làm sáu nút, từ cái thứ nhất đến cái thứ sáu, không thể lẫn lộn được.
Nếu mở các nút, cái khăn lại là cái khăn, không còn vấn đề một hay sáu.
Chúng sinh cũng thế. Cái biết nay bị ràng buộc trong vòng 6 căn: tai, mắt rõ ràng, không thể lấy mắt thay tai.
Nếu đã tu chứng đến cảnh giới Phật, cái biết bao trùm Pháp giới, không còn bị lệ thuộc vào sáu căn. Lúc đó, 6 và 1 cũng không thành vấn đề.
Nay Phật giảng đến nghĩa: "mở nút thứ lớp".
Lúc buộc nút, Phật lần lượt thắt nút thứ nhất, rồi thứ hai, sau mới tới nút thứ sáu.
Lúc mở, cũng phải lần lượt mở từng nút, cái thứ sáu, rồi thứ năm, sau mới tới cái thứ nhất.
Về tu cũng thế, sẽ lần lượt tu chứng qua từng cảnh giới.
Trước hết, phá trừ ngã chấp, được nhân không, chứng A La Hán.
Sau, phá trừ pháp chấp, được pháp không.
Sau cùng, vượt cả hai nhân không và pháp không. Đó là cảnh giới Phật.
Ta đã nghiên cứu xong phần:
3) - Thắt khăn để chỉ thứ lớp.
Nay ta nghiên cứu sang phần:
4) - Chọn căn viên thông nhất để tu.

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 31)

3/ - Đại chúng khai ngộ:
Ông A Nan và đại chúng nghe lời Phật dạy, các câu kệ tụng diệu lý trong suốt, tâm trí họ được khai sáng, đều khen là pháp quý chưa từng có.


BÌNH LUẬN
Đến đây, là hết phần:
2) - Chứng nghiệm để giải hai sự nghi.
Nay ta nghiên cứu sang phần:
3) - Thắt khăn để chỉ thứ lớp.

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 30)

B/ - Giải riêng mối nút:
i/ - Ông A Nan cầu chỉ mối nút:
Ông A Nan bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Như Lai tuy dạy nghĩa quyết định thứ hai, song tôi xem những người mở nút trong đời, nếu chẳng biết mối, tôi tin rằng người đó không thể mở nổi.
Thưa Thế Tôn! Tôi và hàng hữu học thanh văn trong hội này cũng như vậy.
Từ hồi nào, với các vô minh chung sinh chung diệt. Dù được thiện căn đa văn, tiếng là xuất gia, nhưng cũng như người mắc bệnh sốt rét cách nhật. Mong đức đại từ thương xót kẻ chìm đắm, chỉ nơi thân tâm hiện nay, thế nào là nút? Dùng phương tiện gì để mở? Khiến cho các chúng sinh khổ nạn tương lai được khỏi luân hồi, không sa vào ba cõi.
Ông A Nan nói lời ấy rồi, cùng cả đại chúng, năm vóc gieo xuống đất, khóc lóc thành khẩn, đợi lời khai thị của đức Như Lai.
Bấy giờ đức Thế Tôn thương xót ông A Nan và các bậc hữu học trong hội, và cũng vì hết thảy chúng sinh trong đời vị lai, tạo cái nhân xuất thế, làm cái đạo nhân tương lai.
ii/ - Phật chứng không phải là vật khác:
a/ - Các Phật đồng chứng:
Phật lấy tay sáng rực rỡ như vàng Diêm Phù Đàn sờ đỉnh đầu ông A Nan. Lập tức, trong các cõi Phật mười phương, sáu thứ đều rung động. Trong các thế giới đó, các đức Như Lai nhiều như vi trần.
Mỗi vị đều có hào quang báu từ đỉnh đầu phát ra. Các hào quang ấy cùng đến rừng Kỳ Đà, rọi vào đỉnh đầu của Như Lai.
Tất cả đại chúng đều được cái chưa từng có.
Lúc đó, ông A Nan và cả đại chúng đều nghe các đức Như Lai thập phương, nhiều như vi trần, khác miệng đồng lời bảo ông A Nan:
Quý hóa thay, ông A Nan! Ông muốn biết cái cu sinh vô minh(1) là cái nút khiến ông phải luân chuyển sinh tử, đó chính là SÁU CĂN của ông chứ không có vật chi khác.
(1) Căn bản vô minh, mình sinh ra là có nó.
Ông lại muốn biết vô thượng Bồ Đề, khiến cho ông mau chứng an lạc, giải thoát, tịch tịnh, diệu thường, đó lại là sáu căn của ông, chứ không có chi khác.
b/ - Phật giải thích:
1/ - Ông A Nan dù nghe, chưa ngộ:
Ông A Nan tuy nghe giảng như vậy, chưa hiểu rõ, cúi đầu bạch Phật:
Thế nào mà khiến tôi sinh tử luân hồi, hay an vui diệu thường, cũng đều do sáu căn, không phải chi khác?
2/ - Phật giảng:
Phật bảo ông A Nan:
Căn và trần cùng một nguồn gốc. Buộc và mở không phải hai. Tính của thức là hư vọng, như hoa đốm giữa hư không.
Ông A Nan, do trần mà phát ra cái biết. Nhân căn mà thành ra có tướng. Tướng và kiến đều không có tính, giống như cây lau gác lại với nhau.
Vậy nay ông nơi tri kiến mà lập ra tri, tức là gốc vô minh. Nơi tri kiến mà không có kiến, tức là Niết Bàn vô lậu chân tịnh. Làm sao trong ấy lại dựng được vật khác.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này, đọc bài kệ:
Nơi chân tính, hữu vi là không,
Vì duyên sinh, nên giống như huyễn.
Vô vi không sinh diệt,
Chẳng thật, như hoa đốm hư không.
Nói vọng để chỉ rõ chân,
Vọng và chân đều là vọng.
Còn không phải chân với phi chân,
Làm sao có năng kiến, sở kiến.
Ở giữa không có thực tính,
Y như hình lau gác nhau.
Buộc và cởi cùng một nguyên nhân,
Thánh và phàm không có hai đường.
Ông hãy xét đặc tính của lau gác,
Chẳng phải là có hay không.
Mê mờ tức là vô minh,
Phát minh được là giải thoát.
Cởi nút phải theo thứ lớp,
Mở cả sáu thì một cũng mất.
Lựa chọn văn viên thông,
Vào dòng thành Chính giác.
Thức Đà Na vi tế khó nhận,
Tập khí thành dòng nước chảy xiết,
E mê là chân hay phi chân,
Ta thường không giảng đến.
Tự tâm chấp lấy tự tâm,
Phi huyễn thành pháp huyễn.
Không chấp trước thì không phi huyễn.
Phi huyễn mà còn không sinh,
Pháp huyễn làm sao an lập được?
Ấy gọi là Diệu Liên Hoa,
Bảo giác chắc như kim cương vương,
Như huyễn Tam Ma Đề.
Gảy móng tay, vượt hàng vô học.
Cái pháp không thể so sánh đó,
Là đường vào Niết Bàn duy nhất,
Của các đức Phật mười phương.


BÌNH LUẬN
Nay ta nghiên cứu phần:
B/ - Giải riêng mối nút.
Ông A Nan hỏi Phật: "Xin Phật chỉ cho mối nút, mới mở được. Vậy nơi thân tâm, thế nào là nút? Và dùng cách gì để mở?"
Phật liền lấy tay sờ đỉnh đầu ông A Nan. Khắp vũ trụ đều rung động, thấy hiện ra vô số thế giới Phật khắp mười phương, các đức Phật nhiều như bụi nhỏ, mỗi vị đều có hào quang phát ra từ đỉnh đầu. Các hào quang ấy đều rọi vào đỉnh đầu Phật Thích Ca.
Các đức Phật đều đồng thanh nói:
"Chính sáu căn làm ông luân chuyển.
Cũng chính sáu căn làm ông thành Phật."
Phật Thích Ca muốn tỏ rõ chân lý này, các đức Phật đều công nhận, nên Phật dùng uy thần cho đại chúng thấy Chư Phật đều nói vậy.
Phật Thích Ca lại giảng rõ ý trên:
Căn và trần cùng một nguồn gốc. Buộc và mở không phải hai. Tính của thức là hư vọng, như hoa đốm ở hư không.

Đó là đứng về mặt "chân", mặt "bình đẳng" mà nói. Đứng về mặt này, mọi sự vật đều bình đẳng.
Phật lại dạy:
Do trần mà phát ra cái biết. Nhân căn mà thành ra có tướng. Tướng và kiến đều không có tính, như cây lau gác vào nhau.
Các cây lau gác vào nhau, thành hình nọ, hình kia. Một trận gió thổi, một cây lau nghiêng ngả, hình đó mất đi ngay.
Vậy căn, trần chỉ nương nhau mà có.
Nếu ta chấp, cho căn, trần, sự vật là thực có, ta sẽ bị nô lệ cho vô minh.

Nếu ta không chấp, ta sẽ tu chứng tới Niết Bàn thanh tịnh.
Muốn nói kỹ hơn, Phật dọc bài kệ sau đây:
Đứng về mặt "chân": các pháp hữu vi, tức là bị làm ra, đều là không, vì là duyên sinh, nên giống như huyễn.
Vô vi không sinh diệt, vậy nó chẳng thật, cũng như hoa đốm giữa hư không.
Phân biệt "chân" và "vọng" nói "vọng" để chỉ "chân". Hai thứ đều tương đối, so sánh với nhau. Vậy hai thứ đều là vọng
"Chân" với "phi chân" còn không có, cái thấp hơn là cái "thấy" của chúng sinh, lại chia ra "năng", "sở": "năng kiến" là người thấy. "Sở kiến" là vật bị thấy. Hai thứ đó đều không thực có. Giữa hai thứ cũng không có thực tính, như hình lau gác nhau.
Đứng về mặt "bình đẳng": buộc và cởi cùng một nguyên nhân. Thánh và phàm cũng không có hai đường.

Ta thử quan sát hình lau gác: nói là có, tức là nhìn bề ngoài. Nói là không, tức là nhìn bề trong, xét về tính.
"Chấp" là vô minh.
Biết được lẽ chân, vọng là giải thoát."


Bây giờ nói đến phương pháp tu chứng:
Cởi nút phải theo thứ lớp. Mở cả sáu, thì một cũng mất. Tức khi đã giải thoát, không còn thấy sáu, thấy một.
Muốn tu, phải lựa chọn căn viên thông.
Lại phải biết vào dòng, sẽ tu chứng tới cảnh giới Phật.
Khi tu chứng lên cao, sẽ nhận thấy thức thứ tám, rất vi tế, như dòng nước chảy xiết.
Phật không hay giảng đến, vì sợ người học còn kém lại lầm chấp ra cái nọ, cái kia. Vì tại chấp trước nên mới bị vô minh, bị ràng buộc. Phi huyễn và pháp huyễn đều phải xa lìa.

Pháp huyễn: cho các pháp là huyễn.
Phi huyễn: xa lìa sự cho các pháp là huyễn.
Nay phải xa lìa cả hai thứ đó.
Cái định gọi tên là "Tam Ma Đề như huyễn", đó là bảo giác, chắc như Kim cương vương, đó là Diệu Liên Hoa, không bị nhiễm ô, như đóa hoa sen trong bùn mà không tanh mùi bùn.
Tu theo pháp này rất chóng, vượt xa hàng tiểu thừa A La Hán.
Cái pháp này rất cao quý, không lấy pháp gì so sánh được, là đường vào Niết Bàn của Chư Phật.

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 29)

2) - Chứng nghiệm để giải hai sự nghi:
2 phần:
A/ - Nghiệm giải thường và không thường.
B/ - Giải riêng mối nút.
A/ - Nghiệm giải thường và không thường:
2 phần:
i/ - Ông A Nan hiểu lầm lời nói của Phật.
ii/ - Phật lấy thường để giải thích lời nghi.
i/ - Ông A Nan hiểu lầm lời nói của Phật:
a/ - Nhân quả trái nhau:
Ông A Nan bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy: muốn cầu quả thường trụ, thì chỗ nhân địa và quả địa phải cân xứng với nhau.
Bạch Thế Tôn! Như trong quả vị, nào Bồ Đề, Niết Bàn, Chân Như, Phật tánh, Yêm Ma La thức, Không Như Lai tạng, Đại Viên kính trí, bảy tên tuy khác nhau, nhưng đều thể tính cứng chắc, thanh tịnh, viên mãn, như kim cương vương(1), thường trụ không nát.
(1) Thứ ngọc Kim cương quý nhất, rất cứng và sáng.
Còn các cái thấy nghe, rời các trần sáng, tối, động, tĩnh, thông, tắc, hẳn không có thể. Ví dụ như niệm tâm, xa lìa các tiền trần, vốn không thực có.
Thế nào lại đem cái sinh diệt đó làm nhân tu hành để cầu bảy quả thường trụ của Như Lai.
b/ - Trước sau nói khác:
Bạch Thế Tôn! Nếu xa lìa sáng, tối, cái thấy hoàn toàn không. Nếu không tiền trần, tự tính của niệm diệt. Tới lui xoay vần, suy tìm cặn kẽ, vốn không có tâm và tâm sở của tôi. Vậy lấy cái gì để làm nhân mà cầu quả vô thượng chính giác?
Trước Phật có nói: "cái biết yên lặng là viên thường, nhưng đã trái với lẽ thường thì kết cục chỉ thành hý luận. Làm sao nhận được lời nói của Như Lai là chân thật. Xin Phật mở lòng đại từ, chỉ dạy chỗ sai lầm của tôi."
ii/ - Phật lấy thường để giải thích lời nghi:
a/ - Hứa trừ nghi:
Phật dạy:
Ông A Nan, ông học nghe nhiều, chưa hết các mê lầm. Trong tâm chỉ biết suông cái nhân điên đảo, mà cái điên đảo hiện trước mắt, vẫn chưa biết được. E ông thật tâm hãy còn chưa tin, và chưa dẹp nghi hoặc.
Nay tôi thử đem các việc trần tục để trừ cái nghi cho ông.
b/ - Đánh chuông để nghiệm thường:
1/ - Hai phen vấn đáp:
Tức thì đức Như Lai bảo ông La Hầu La đánh một tiếng chuông, rồi hỏi ông A Nan:
Nay ông có nghe không?
Ông A Nan và đại chúng đều nói: "Chúng tôi có nghe."
Chuông hết ngân.
Phật lại hỏi: "Nay ông có nghe không?"
Ông A Nan và đại chúng đều nói: "Chẳng nghe".
Ông La Hầu La lại đánh một tiếng chuông nữa.
Phật lại hỏi:
"Nay ông có nghe không?"
Ông A Nan và đại chúng đều nói: "Đều có nghe."
Phật hỏi:
"Ông A Nan, thế nào là nghe? Thế nào là chẳng nghe?"
Ông A Nan và đại chúng cùng bạch Phật:
"Nếu đánh chuông thì chúng tôi được nghe. Khi tiếng ngân hết, thì gọi là không nghe."
Như Lai lại bảo ông La Hầu La đánh chuông, rồi hỏi ông A Nan:
"Theo ông, nay có tiếng không?"
Ông A Nan và đại chúng đều đáp:
"Có tiếng."
Giây lâu, tiếng ngân hết.
Phật lại hỏi:
"Theo ông, nay có tiếng không?"
Ông A Nan và đại chúng đáp:
"Không có tiếng."
Một lát, ông La Hầu La lại đánh một tiếng chuông nữa.
Phật lại hỏi: "Theo ông, nay có tiếng không?"
Ông A Nan và đại chúng đều nói: "Có tiếng."
Phật hỏi ông A Nan:
"Theo ông, thế nào là có tiếng? Thế nào là không có tiếng?"
Ông A Nan và đại chúng cùng bạch Phật:
"Tiếng chuông nếu đánh lên, gọi là có tiếng. Khi tiếng ngân im bặt, gọi là không tiếng."
2/ - Trách lầm lộn:
Phật bảo A Nan và đại chúng:
Nay sao các ông ăn nói lầm lộn?
Đại chúng và ông A Nan cùng hỏi Phật:
Sao Phật lại nói chúng tôi lầm lộn?
Phật đáp:
Tôi hỏi: có nghe không? Các ông đáp: có nghe. Tôi lại hỏi: có tiếng không? Các ông đáp: có tiếng. Chỉ có "tiếng" với "nghe" mà đáp không nhất định, như vậy nói là lầm lộn.
3/ - Trách mê:
Ông A Nan, cái tiếng tiêu hết, ông nói là không nghe. Nếu thực không nghe, thì tính nghe đã diệt như cây khô. Đến tiếng chuông thứ hai, làm sao ông lại biết?
Biết có, biết không, là tự tiếng hoặc không hoặc có, đâu phải tính nghe vì ông mà thành có, thành không. Nếu cái biết nghe thực là không, thì còn cái gì biết là không nữa?
Ông A Nan, vậy cái tiếng ở trong tính nghe tự có sinh diệt. Chẳng phải vì ông nghe tiếng sinh, tiếng diệt mà làm cho tính nghe của ông thành có, thành không. Ông còn điên đảo, lầm tiếng và nghe, lạ gì chẳng mê mờ, lầm cái thường làm cái đoạn.
Tóm lại, không nên nói: "xa lìa động, tĩnh, đóng, mở, bịt, thông, cái nghe không có tính."
c/ - Nói chiêm bao để nghiệm thường:
Ví dụ có người ngủ mê đương nằm trên giường. Trong nhà đồng thời có người giã gạo. Người ngủ nằm chiêm bao, lầm tiếng giã gạo thành tiếng khác, hoặc cho là tiếng trống, tiếng chuông. Người đó lấy làm lạ, sao tiếng chuông vang như tiếng gỗ đập vào đá. Lúc tỉnh dậy, mới biết là tiếng chày. Mới bảo người nhà: "Trong lúc chiêm bao, tôi lầm tiếng chày là tiếng trống."
Ông A Nan, người khi mộng đâu có nhớ những sự lặng, động, mở, đóng, thông, bịt, cái hình tuy ngủ, tính nghe không mờ.
Vậy dù hình ông tiêu tan, mạng ông dời đổi, lẽ đâu tính đó vì ông mà tiêu diệt.
d/ - Dạy giữ thường:
Bởi các chúng sinh từ vô thủy đến nay, theo mãi sắc thanh, lưu chuyển theo các niệm, chưa từng khai ngộ tính tịnh diệu thường.
Chẳng theo tính thường, dong ruổi theo sinh diệt, nên đời đời phải xoay vần trong vòng tạp nhiễm.
Nếu bỏ sinh diệt, giữ cái chân thường. Khi cái sáng suốt chân thường đã hiện tiền, những tâm niệm căn trần thức tức thời tiêu mất. Tướng vọng tưởng là trần, thức tình phân biệt là cấu, hai thứ đó đều cách xa rồi, pháp nhãn của ông liền được trong sáng, làm sao lại không thành trí giác vô thượng?


BÌNH LUẬN
Nay ta nghiên cứu sang phần:
2) - Chứng nghiệm để giải hai sự nghi.
Nay ta nghiên cứu phần đầu:

A/ - Nghiệm giải thường và không thường.
Đây là phần quan trọng, giúp ta hiểu rõ thêm về nguyên tắc tu chứng.
Ông A Nan hỏi Phật:

Phật đã dạy, phải lấy nhân đồng như quả. Vậy quả Phật là thường trụ, còn tâm chúng sinh là hư huyễn, rời căn trần, không thực có. Vậy làm sao lấy tâm đó làm nhân địa, để cầu quả Phật?
Phật lấy một ví dụ rất hay để dạy ông A Nan nguyên tắc tu chứng:
Phật sai đánh chuông. Tiếng chuông đương ngân, Phật bỗng hỏi ông A Nan: "Nay ông có nghe không?". Ông A Nan và đại chúng đáp: "Có nghe."
Khi chuống hết ngân, im lặng, Phật lại hỏi: "Nay ông có nghe không?"
Ông A Nan và đại chúng đều đáp: "Không nghe."

Phật lại sai đánh một tiếng chuông nữa.
Phật lại hỏi. Đại chúng đáp: "Có nghe."
Phật hỏi rõ: "Thế nào là nghe? Thế nào là không nghe?"
Đại chúng đáp: "Có tiếng chuông ngân, chúng tôi nghe thấy. Khi tiếng ngân hết, gọi là không nghe."
Phật lại sai đánh chuông.
Rồi hỏi: "Có tiếng không?"
Đại chúng đáp: "Có tiếng."
Khi tiếng ngân hết, im lặng.
Phật lại hỏi. Đại chúng đáp: "Không có tiếng."
Phật lại cho đánh chuông, lại hỏi.
Đại chúng đáp: "Có tiếng."
Phật lại hỏi: "Thế nào là có tiếng? Thế nào là không có tiếng?"
Đại chúng đáp: "Tiếng chuông ngân, là có tiếng. Tiếng ngân hết, là không tiếng."
Phật cố ý chứng minh điều này:
Tiếngnghe khác nhau.
Tính nghe thường còn, tiếng lúc có lúc không. Vậy ta đừng nô lệ cho tiếng, nói rộng ra, cho trần cảnh.
Tiếng đến ta, rồi mất. Ta không đắm chấp theo tiếng rồi tưởng lầm là không nghe. Tính nghe của ta vẫn có mãi, không vì tiếng động mất mà mất tính nghe.
Phật lại ví dụ người nằm ngủ, chiêm bao. Tuy ngủ, mà tính nghe vẫn còn, nên nghe được tiếng giã gạo.
Vậy, muốn tu chứng, ta phải theo tính chân thường.
Phải bỏ sinh diệt, giữ cái chân thường. Khi cái sáng suốt chân thường đã hiện tiền, các căn, trần, thức, các vọng tưởng, các trí phân biệt sẽ bị xa lìa. Ta sẽ chứng quả bất sinh diệt.

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 28)

b/ - Nhân câu hỏi, nói rõ:
1/ - Ông A Nan hỏi Phật:
Ông A Nan bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Thế nào là ngược dòng, vào sâu một cửa (thâm nhập một môn), có thể làm cho sáu căn thanh tịnh?
2/ - Phật giải thích:
A# - Tỏ cái mê hoặc còn sâu:
Phật bảo ông A Nan:
Nay ông đã chứng được quả Tu Đà Hoàn, đã dứt được các mê lầm trong lúc kiến đạo, các mê lầm của chúng sinh thế gian trong ba cõi. Nhưng ông còn chưa biết các tập khí hư vọng chứa nhóm, phát khởi từ vô thủy trong các căn. Các tập khí đó phải nhờ tu đạo mới đoạn được. Huống chi trong đó các tướng sinh, trụ, dị, diệt, phân tế, đầu số.
B# - Chỉ một và sáu do hư vọng:
Nay ông thử xét hiện tiền sáu căn, là một hay là sáu?
Ông A Nan, nếu nói là một, thì tai sao chẳng trông, mắt sao chẳng nghe, đầu sao chẳng đi, chân sao không nói.
Còn nếu sáu căn đó quyết định là sáu, vậy như trong hội này, khi tôi giảng các pháp môn vi diệu cho ông, thì trong sáu căn của ông, cái nào lĩnh thụ?
Ông A Nan đáp: "Tôi dùng tai nghe."
Phật dạy:
Tai ông tự nghe, có quan hệ gì đến thân và miệng ông, mà miệng hỏi nghĩa, thân đứng cung kính?
Vậy nên biết: "Chẳng phải là một, mà sau thành ra sáu. Chẳng phải là sáu, mà sau thành ra một. Rút cuộc, các căn của ông chẳng phải vốn là một, hay vốn là sáu."
Ông A Nan, ông nên biết: "Căn đó không phải một, không phải sáu. Chỉ vì đắm chấp điên đảo từ vô thủy, nên nơi tính viên trạm, có những nghĩa một, nghĩa sáu sinh ra."
Nay ông đã chứng quả Tu Đà Hoàn, tuy đã tiêu được cái sáu rồi, mà còn chưa dứt cái một.
Ví như thái hư không đựng trong các đồ vật, vì các đồ vật hình thù khác nhau, nên gọi là hư không khác nhau. Bỏ các đồ vật, xem hư không, nói hư không là một.
Thái hư không kia làm sao vì ông mà thành đồng, chẳng đồng, huống chi lại nói là một hay chẳng phải một.
Sáu căn hay biết, hiện ông đương thọ dụng, cũng y như vậy
C# - Chỉ rõ căn kết bởi trần:
Bởi hai thứ sáng tối phát hiện ra nhau, trong tính diệu viên, làm dính tính trạm(1), phát ra cái thấy. Tính thấy đối chiếu với sắc, kết sắc thành căn. Gốc của căn là thanh tịnh(2) tứ đại. Nhân gọi dáng của nhãn căn như quả bồ đào. Bốn trần của phù căn(3) dong ruổi chạy theo sắc.
(1) Yên lặng cùng khắp.
(2) Đứng lặng.
(3) Căn thịt.

Bởi hai thứ động và tĩnh kích thích nhau, trong tính diệu viên, làm dính tính trạm, phát ra cái nghe. Tính nghe đối chiếu với tiếng, cuốn cái tiếng thành căn. Gốc của căn là thanh tịnh tứ đại. Nhân gọi dáng của nhĩ căn như lá mới cuốn. Bốn trần của phù căn dong ruổi chạy theo tiếng.
Bởi hai thứ thông và tắc phát khởi ra nhau, trong tính diệu viên, làm dính tính trạm phát ra cái ngửi. Tính ngửi đối chiếu với hương, lĩnh nạp cái hương thành căn. Gốc của căn là thanh tịnh tứ đại. Nhân gọi dáng của tỵ căn như hai ngón tay chỉ xuống. Bốn trần của phù căn dong ruổi chạy theo hương.
Bởi hai thứ không vị và có vị tham hợp cùng nhau, trong tính diệu viên, làm dính tính trạm, phát ra cái nếm. Tính nếm đối chiếu với vị, thu hút cái vị thành căn. Gốc của căn là thanh tịnh tứ đại. Nhân gọi dáng của thiệt căn như mặt trăng mới khuyết. Bốn trần của phù căn dong ruổi chạy theo vị.
Bởi hai thứ hợp và ly can thiệp cùng nhau, trong tính diệu viên, làm dính tính trạm, phát ra cái biết xúc. Tính biết ấy đối chiếu với xúc, nắm cái xúc thành ra căn. Gốc của căn là thanh tịnh tứ đại. Nhân gọi dáng của thân căn như dáng trống lưng. Bốn trần của phù căn dong ruổi chạy theo xúc.
Bởi hai thứ sinh và diệt tiếp tục cùng nhau, trong tính diệu viên, làm dính tính trạm, phát ra cái biết. Tính biết đối chiếu với pháp, gom lấy pháp thành căn. Gốc của căn là thanh tịnh tứ đại. Nhân gọi là ý-tư như trong phòng tối thấy vật. Bốn trần của phù căn dong ruổi chạy theo pháp.
Ông A Nan, như vậy sáu căn, do tính giác minh(1) phát minh ra minh giác(2), làm mất tính tinh liễu(3), dính tính trạm mà phát ra cái biết.
(1) Tính minh của bản giác.

(2) Lấy cái minh làm giác.
(3) Tinh liễu: tính giác minh. Tính: không lẫn lộn.

D# - Chỉ rõ trần tiêu thì tướng hết:
i# - Chỉ mở thắt để đáp câu hỏi:
Vậy nay ông xa lìa tối, sáng thì không có tính thấy; xa lìa động, tĩnh, không có tính nghe; không có thông, tắc, tính ngửi không sinh; không có nhạt và vị, tính nếm không phát ra; không có ly, hợp, tính biết xúc vốn không; không diệt, không sinh, tính hay biết đâu có.
Ông hãy không theo 12 tướng hữu vi: động, tĩnh, hợp, ly, nhạt, vị, thông, tắc, sinh, diệt, sáng, tối. Rút một căn ra cho khỏi dính, trở vào trong. Trở về tính bản chân, phát ra tính sáng suốt bản lai. Tính sáng suốt đã phát minh thì năm chỗ dính khác đều được viên thoát.
ii# - Chứng nghiệm:
a# - Thoát ràng buộc, thành diệu dụng:
Không do tiền trần khởi ra hay biết. Cái sáng suốt không theo với căn. Chỉ tạm dựa vào căn mà sáng suốt phát hiện. Do đó sáu căn dùng thế cho nhau được(1).
(1) Mắt có thể nghe. Mũi có thể trông.
Ông A Nan, ông chẳng lẽ không biết hiện trong hội này, ông A Na Luật Đà không mắt mà thấy, rồng Bạt Nan Đà không tai mà nghe, cô Căng Già không mũi mà biết hương, ông Kiều Phân Bạt Đề không lưỡi mà biết vị. Thần Thuần Nhã Đa không thân mà biết xúc, vì ở trong hào quang của Như Lai nên đối chiếu tâm hiện ra thân, thức ra chỉ là chất gió, đâu có thân thể.
Các hàng Thanh Văn như Ma Ha Ca Diếp, trong hội này, đã chứng được tịch diệt, đã diệt ý căn lâu rồi, cái hay biết sáng suốt không phải do tâm niệm.
b# - Siêu việt thành thuần giác:
Ông A Nan, nếu như hiện nay các căn của ông được rút ra khỏi dính một cách hoàn toàn, thì cái trong suốt bề trong phát ra ánh sáng, làm cho các phù trần và các tướng biến hóa trong thế giới vật chất đều tiêu tan, như nước sôi làm tan nước đá. Tức thì hóa thành vô thượng tri giác.
Ông A Nan, như người trong đời dồn cái trông thấy ở mắt. Nếu người đó nhắm mắt, tướng tối hiện ra trước, sáu căn mù mịt, đầu chân như nhau. Người đó lấy tay sờ quanh, tuy không trông thấy, nhưng nhận ra được đầu và chân, vậy cái biết vẫn thế. Ông nhìn thấy nhờ sáng, nên khi tối không trông thấy. Còn nếu không nhờ sáng mà tự phát ra, các cái tối không làm mờ được. Căn và trần đã tiêu rồi, làm sao tính giác minh không thành viên diệu?


BÌNH LUẬN
Phật giảng sâu vào nguyên tắc tu chứng.
Trước kia, Phật đã giảng nguyên tắc tu theo căn, ngược dòng sinh tử.
Ông A Nan chưa hiểu, hỏi Phật:
"Thế nào là ngược dòng? Thế nào là vào sâu một cửa, có thể làm cho cả sáu căn thanh tịnh?"
Phật lấy một ví dụ rất hay để ông A Nan có một hình ảnh rõ rệt:
Kìa hư không. Ta lấy nhiều đồ vật rỗng, hình thù khác nhau, thứ vuông, thứ tròn, thứ bầu dục, thứ dài v.v... Ta thấy hư không trong mỗi đồ vật, khác nhau. Nếu ta bỏ các đồ vật, ta bảo hư không là một.
Thực ra, hư không là hư không. Vì ta lầm chấp, mới phân biệt là đồng, là khác, là một, là chẳng phải một.
Sáu căn của chúng sinh cũng ví như những đồ vật trên kia.
Ta nên biết thêm một điều nữa:

Cái thấy, nghe, hay, biết của ta dựa vào sáu căn. Sáu căn liên lạc với sáu trần.
Nếu ta muốn tu chứng, hãy xa lìa các trần. Cứ tu một căn, không cho căn đó liên lạc với trần. Đi sâu vào trong. Trở về gốc chân lý. Cái sáng suốt sẽ phát hiện. Năm căn khác cũng được viên thoát.
Vì thế, sáu căn dùng thay nhau được. Như ông A Na Luật Đa không mắt mà nhìn được. Rồng Bạt Nan Đà không tai mà nghe v.v...
Khi tu chứng, cái biết sáng suốt không nhờ sáu trần mà biết, cái biết đó bao trùm pháp giới.