D# - Chỉ tính thấy không mất:
i# - Ông A Nan được khai ngộ, còn nghi lời trước:
Ông A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật, chắp tay quỳ gối bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, như cái thấy, nghe kia hẳn không sinh diệt, làm sao Thế Tôn lại bảo rằng chúng tôi bỏ mất chân tính, làm việc điên đảo. Xin Phật mở lượng từ bi rửa sạch trần cấu(1) cho chúng tôi."(1) Trần cấu: bụi nhơ, những mê lầm làm tâm mờ tối.
ii# - Phật dạy:
Ngay lúc đó, Như Lai duỗi cánh tay, ngón tay chỉ xuống, hỏi ông A Nan: "Nay ông thấy tay tôi chính hay ngược?"Ông A Nan đáp: "Chúng sinh ở thế gian cho thế là ngược, nhưng tôi không biết thế nào là chính, là ngược."
Phật hỏi ông A Nan: "Người thế gian cho thế là ngược, vậy họ cho thế nào là chính?"
Ông A Nan bạch: "Như Lai đưa cánh tay lên, tay chỉ lên trên không, họ cho thế là chính."
Phật liền giơ cánh tay lên rồi bảo ông A Nan:
"Cái chính, cái đảo là do đầu đổi làm đuôi, người ở thế gian xem thấy như thế.
Thế thì biết thân của ông và pháp thân trong sạch của chư Phật, nếu đem so sánh, thân Phật gọi là chính biến tri(1), thân của các ông gọi là tính điên đảo(2).
(1) Chính biến tri: biết tất cả sự vật, một cách chân chính.
(2) Tính điên đảo: Trái ngược với chân lý.
Ông hãy xem xét kỹ thân ông với thân Phật, thân ông mà gọi là điên đảo, vì lẽ gì gọi là điên đảo?"
Khi ấy ông A Nan và đại chúng ngẩn ngơ nhìn Phật, không biết thân tâm điên đảo ở chỗ nào?
Phật lấy lòng từ bi, thương xót ông A Nan cùng đại chúng, phát tiếng hải triều(3), bảo cả chúng hội:
(3) Hải triều: làn nước bể.
"Các thiện nam tử, tôi thường dạy: các duyên về sắc(4), về tâm(5), và các tâm sở(6), các pháp sở duyên(7), đều biến hiện trong vòng của tâm. Thân ông, tâm ông đều là vật biến hiện trong diệu minh chân tính diệu tâm(8). Sao các ông lại bỏ mất tính minh diệu quý báu của bản diệu viên diệu minh tâm(9), nhận cái mê trong ngộ(10)."
(4) Sắc: chỉ về lục căn, lục trần.
(5) Tâm: Chỉ về đệ bát thức.
(6) Tâm sở: chỉ các tâm sở.
(7) Các sự vật duyên với tâm chúng sinh.
(8) Chân lý nhiệm màu, sáng suốt, chân thực.
(9) Bản diệu viên minh tâm: bản là từ xưa vẫn có; diệu: nhiệm màu; viên: hoàn toàn; minh: sáng, soi rõ mọi sự vật.
(10) Không nhận chân lý, chỉ nhận vọng tưởng.
Mê muội tạo thành(11) hư không, trong hư không của mê muội ấy; kết cái tối tăm làm ra có sắc(12). Sắc xen với vọng tưởng(13). Tướng của vọng tưởng làm ra thân. Nhóm các duyên(14) lung lay ở trong, theo hoàn cảnh dong duỗi ngoài. Cái tướng mờ mịt lăng xăng(15) kia, lầm nhận nó là tâm tính.
(11) Mê không biết, gây nghiệp.
(12) Có tướng, hình ảnh.
(13) Vọng tưởng: tưởng sai lầm, trí biết sai lạc của chúng sinh.
(14) Các cảm xúc, tư tưởng.
(15) Mê không biết Chân lý nên mờ mịt. Lăng xăng: động, theo trần cảnh.
Một khi lầm cái ấy làm tâm, thì quyết định lầm rằng tâm ở trong sắc thân, mà không biết sắc thân, cho đến núi, sông, hư không, đại địa bề ngoài, đều là vật ở trong diệu minh chân tâm.
Ví như bỏ cả trăm nghìn bể lớn trong lặng, chỉ nhận cái thể của một bọt nước, rồi cho rằng đó là nước của tất cả các biển. Các ông thật là người mê trong mê(1), như cánh tay chỉ xuống của tôi, không sai khác. Như Lai nói các ông đáng thương xót.
(1) Không biết chân lý là mê. Nhận lầm vọng tưởng là hai lần mê.
BÌNH LUẬN
Đó là một lối nói của Phật. Phật muốn nói chúng sinh không biết có Chân lý, cứ theo cái biết hẹp hòi của mình, hành động trái với Chân lý, nên bị khổ sở, luân hồi.
Thực ra, Chân lý bao trùm pháp giới mênh mông. Chúng sinh như hạt bụi. Chúng sinh mê thì chịu khổ. Chúng sinh thành Phật thì sung sướng. Chân lý vẫn không thêm bớt.
Danh từ "bỏ xót mất" làm ông A Nan tưởng Chân lý có thể thêm vào hay bớt đi.
Phật lấy ví dụ: đưa cánh tay xuôi xuống, rồi đưa cánh tay thẳng lên không. Thế gian cho cánh tay xuống là ngược, cánh tay thẳng lên là chính. Nhưng cánh tay vẫn là cánh tay, không vì chính, ngược mà to ra hay bé đi.
Phật và chúng sinh cũng thế.
Trí biết của Phật bao trùm pháp giới, chứng đến cảnh giới hoàn toàn, trong sạch, tuyệt đối.
Trí biết của chúng sinh hẹp hòi, nông cạn, bị ràng buộc bởi thân và cảnh. Ví như con kiến trong ổ kiến, con rùa trong mai rùa, con ốc trong vỏ ốc.
Lại ví như người có con mắt mỏi, thấy những hoa đốm lăng xăng ở hư không. Hư không bao la. Người có con mắt mỏi tưởng hư không sinh ra hoa đốm. Thực ra, hoa đốm không thực có, vì mỏi mắt nên thấy ra thế, và tưởng có. Nếu mắt khỏi mỏi, trở lại tinh tường, sẽ không thấy hoa đốm. Hư không vẫn là hư không, không có thêm, bớt. Người có con mắt lành ví như Phật. Người có con mắt mỏi ví như chúng sinh. Hoa đốm ví như cảnh đời mà chúng sinh thấy.
Hư không ví như pháp giới bao la, như Chân lý.
Khi chúng sinh đã lầm có thân, có cảnh. Phật bảo rằng chúng sinh bỏ mất Chân lý. Thực ra, Chân lý không hề mất. Tính không thêm bớt là một tính của chân lý.
No comments:
Post a Comment