C# - Thập nhị xứ:
i# - Hỏi chung:
Lại nữa, ông A Nan, vì sao bản tính của thập nhị xứ là Như Lai tạng diệu chân như tính?
ii# - Giảng riêng:
a# - Nhãn sắc xứ:
Ông xem rừng Kỳ Đà và các suối ao. Ý ông nghĩ sao? Vì là sắc tướng sinh ra mắt thấy, hay là mắt sinh ra sắc tướng?Ông A Nan, nếu nhãn căn sinh các sắc tướng, vậy khi nhìn hư không, không phải là sắc tướng, cái tính sinh sắc tướng phải tiêu diệt, tiêu rồi thì rõ ràng là hết thảy các sắc tướng đều không. Sắc tướng đều không, lấy gì mà so sánh mà biết là hư không?
Đối với hư không, cũng lại như vậy.
Lại nếu sắc trần sinh ra cái thấy. Khi nhìn hư không, không phải là sắc, cái thấy phải tiêu mất. Cái thấy đã mất thì mọi thứ đều không, lấy chi mà rõ là không hay là sắc.
Vậy nên biết: cái thấy với sắc không, đều không có xứ sở. Hai xứ: "thấy và sắc" đều hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên.
b# - Nhĩ thanh xứ:
Ông A Nan, ông lại nghe trong vườn Kỳ Đà, lúc thức ăn dọn rồi thì đánh trống, lúc nhóm chúng thì đánh chuông. Tiếng chuông, tiếng trống trước sau nối nhau. Ý ông nghĩ sao? Như thế là tiếng đến bên tai, hay tai đến chỗ tiếng?Ông A Nan, nếu là tiếng đến bên tai, ví dụ tôi đi khất thực trong thành Thất La Phiệt, ở rừng Kỳ Đà chắc không có tôi nữa; tiếng đã đến bên tai ông A Nan, lẽ ra ông Mục Liên, ông Ca Diếp không thể cùng nghe một lần, huống chi trong này có đến một nghìn hai trăm năm mươi vị Sa Môn đều nghe tiếng chuông cùng một lúc, cùng đến chỗ ăn cơm.
Nếu là tai đến bên tiếng, ví dụ tôi đã trở về trong rừng Kỳ Đà rồi, ở thành Thất La Phiệt không có tôi nữa; nay ông nghe tiếng trống, tai ông đã đi đến chỗ đánh trống, thì khi tiếng chuông phát ra, lẽ ra ông không thể cùng nghe một lần. Thế mà ông lại nghe được bao tiếng khác trong rừng này, nào các tiếng voi, ngựa, trâu, dê.
Còn như nếu không đi qua đi lại, lý ưng không nghe. Vậy nên biết: cái nghe cùng cái tiếng, đều không có xứ sở. Hai xứ: "nghe và tiếng" đều hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên.
c# - Tỵ hương xứ:
Ông A Nan, ông lại ngửi hương Chiên Đàn(1) trong lư này. Hương đó chỉ đốt một ít, cả thành Thất La Phiệt trong vòng bốn mươi dặm đều ngửi thấy. Ý ông nghĩ sao? Mùi thơm đó ở gỗ Chiên Đàn ra, ở mũi ông ra, hay ở hư không ra? Ông A Nan, nếu ở mũi ông ra, gọi là mũi sinh mùi, thì mùi phải từ mũi ra. Song mũi không phải là Chiên Đàn, vì sao trong mũi lại có mùi Chiên Đàn? Đã gọi là ngửi mùi, mùi thơm phải từ ngoài vào mũi, chứ ở trong mũi bay ra mùi thơm, không gọi là ngửi.(1) Thứ gỗ rất thơm ở Ấn Độ.
Nếu ở hư không ra, tính hư không có mãi, mùi thơm cũng phải có mãi, sao lại phải đốt gỗ Chiên Đàn khô trong lư mới có?
Nếu ở gỗ ra, mùi thơm do gỗ đốt thành khói, khói bay tới mũi mới ngửi thấy. Sao khói kia bay lên hư không chưa được bao xa mà trong vòng bốn mươi dặm đã ngửi thấy cả?
Vậy nên biết: ngửi và mùi hương, đều không có xứ sở. Hai xứ: "ngửi và mùi hương" đều hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên.
d# - Thiệt vị xứ:
Ông A Nan, ông thường hai buổi ở trong chúng cầm bình bát đi khất thực, có khi gặp món ăn ngon.Ông nghĩ sao? Vị đó sinh từ hư không, từ lưỡi, hay từ món ăn.
Ông A Nan, nếu vị đó sinh từ lưỡi ông, trong miệng ông chỉ có một lưỡi, lưỡi đã thành vị ngon rồi, gặp món hắc thạch mật, lẽ ra không dời đổi được. Nếu không dời đổi, không gọi là biết vị. Còn nếu dời đổi được, lưỡi không phải có nhiều thể, làm sao lại biết nhiều vị? Nếu sinh từ món ăn, món ăn không có tính biết, sao biết vị mình. Nếu tự biết, cũng như người khác ăn, có quan hệ gì với ông mà nói rằng ông biết vị?
Nếu sinh từ hư không, ông thử nếm hư không, xem là vị gì? Nếu là vị mặn, hư không đã làm mặn lưỡi ông, cũng làm mặn mặt ông, vậy người ở thế giới này giống như cá biển, quen với mặn, không biết nhạt. Nếu không biết nhạt, lại cũng không biết mặn. Như thế là không biết gì, sao gọi là vị?
Vậy nên biết: nếm và vị đều không có xứ sở.
Hai xứ: "nếm và vị" đều hư vọng, vốn chẳng phải tính tự nhiên hay tính nhân duyên.
e# - Thân xúc xứ:
Ông A Nan, ông thường buổi sáng lấy tay xoa đầu. Ý ông nghĩ sao? Cái biết có xoa như vậy, ở đâu ra?Ở tay hay ở đầu?
Nếu ở tay, chắc đầu không biết, sao lại thành ra xúc?
Nếu ở đầu, chắc tay không cần đến, sao gọi là xúc?
Nếu ở cả 2 nơi, chắc ông A Nan phải có hai thân.
Nếu một xúc sinh ra cái biết ở đầu và ở tay, hai thứ đó phải cùng một thể. Nếu cùng một thể, cái nghĩa xúc lại không còn. Nếu là hai thể, cái xúc ở bên nào? Ở bên năng không có sở, ở bên sở không có năng. Chẳng lẽ hư không làm xúc cho ông.
Vậy nên biết: cái biết khi sờ mó, đụng chạm và thân, đều không có xứ sở.
Hai xứ: "xúc và thân" đều hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên.
f# - Ý pháp xứ:
Ông A Nan, ông thường trong ý duyên với ba tính: thiện, ác và vô ký, sinh ra các phép tắc. Các phép đó do tâm sinh ra, hay là dời tâm, riêng có nơi chỗ?Ông A Nan, nếu do tâm, các pháp không phải là trần, không phải là cái sở duyên của tâm, sao thành xứ được?
Nếu dời tâm, riêng có nơi chỗ, thì cái tự tính của pháp là có biết hay không biết?
Nếu có biết, phải gọi là tâm.
Nếu nó khác với ông, và không phải là trần, thì nó đồng với tâm lượng của người khác.
Nếu nó tức là ông và cũng tức là tâm, sao ở ông lại có hai tâm?
Còn nếu không biết, thì cái pháp trần ấy đã chẳng phải là sắc, thanh, hương, vị, ly, hợp, lạnh và nóng, và tướng hư không, vậy nó ở đâu? Nay nơi sắc không kia, đều không thể chỉ cái gì là pháp trần, không lẽ ở nhân gian lại có những cái ngoài vòng hư không.
Nếu nó chẳng phải là cái sở duyên của tâm, từ đâu lập ra có xứ?
Vậy nên biết: pháp và tâm đều không có xứ sở.
Hai xứ: "ý và pháp" đều hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên.
D# - Thập bát giới:
i# - Hỏi chung:
Lại nữa, ông A Nan, vì sao bản tính của thập bát giới là Như Lai tạng diệu chân như tính?
ii# - Giảng riêng:
a# - Nhãn sắc thức giới:
Ông A Nan, ông đã rõ: con mắt và sắc làm duyên, sinh ra nhãn thức. Cái thức đó nhân mắt sinh, lấy mắt làm giới, hay nhân sắc sinh, lấy sắc làm giới?Ông A Nan, nếu nhân mắt sinh, không có sắc và không, không thể phân biệt; dù có thức dùng để làm gì?
Cái thấy của ông, nếu phi các màu xanh, vàng, đỏ, trắng, không thể chỉ bày ra, vậy từ đâu lập ra giới hạn.
Nếu nhân sắc sinh, khi nhìn hư không, không có sắc, đáng lẽ thức diệt, sao lại biết hư không?
Nếu khi sắc tướng thay đổi, ông cũng biết nó thay đổi, mà thức của ông không thay đổi, thì đâu lập được giới?
Nếu theo sắc thay đổi, thức là cái thay đổi, không thể có giới hạn.
Nếu không thay đổi, nhãn thức là cái thường hằng, vậy đã từ sắc sinh ra, lẽ không biết được hư không là gì?
Nếu gồm cả hai thứ mắt, sắc cùng sinh, nói hợp, chặng giữa lại phải ly, nói ly, hai bên phải hợp, thể tính tạp loạn, làm sao thành giới?
Vậy nên biết: mắt và sắc duyên sinh nhãn thức giới ba chỗ đều không thực có. Ba giới mắt, sắc và nhãn thức vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên.
b# - Nhĩ thanh thức giới:
Ông A Nan, ông đã rõ: tai và tiếng làm duyên, sinh ra nhĩ thức. Cái thức đó nhân tai sinh, lấy tai làm giới, hay nhân tiếng sinh, lấy tiếng làm giới?Ông A Nan, nếu nhân tai sinh, hai tướng động tĩnh đã không hiện tiền, cái căn không thành tri giác. Tri giác không thành, cái thức hóa ra hình tướng gì? Nếu cái tai không có động tĩnh, không thành cái nghe, làm sao hình cái tai xen với sắc, chạm với trần, mà gọi được là thức giới. Cái nhĩ thức giới lại từ đâu mà lập ra được?
Nếu nhân tiếng sinh, thức nhân tiếng mà có, không quan hệ gì đến cái nghe, như thế chính cái tướng của tiếng sẽ mất. Thức do tiếng sinh, dù cho tiếng nhân nghe mà có tướng, thì cái nghe phải nghe được thức.
Nếu không nghe được, thức giống như tiếng. Thức đã bị nghe, thì cái gì biết nghe cái thức? Còn nếu không biết, hóa ra như cỏ cây.
Không lẽ tiếng và nghe xen lộn thành trung giới. Giới đã không có địa vị giữa, thì tướng trong và ngoài từ đâu mà thành lập được?
Vậy nên biết: tai và tiếng làm duyên sinh nhĩ thức giới, ba chỗ đều không thực có. Ba giới tai, tiếng và nhĩ thức vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên.
c# - Hương tỵ thức giới:
Ông A Nan, ông đã rõ: mũi và mùi làm duyên, sinh ra tỵ thức. Cái thức đó nhân mũi sinh, lấy mũi làm giới, hay nhân mùi sinh, lấy mùi làm giới?Ông A Nan, nếu nhân mũi sinh, ý ông lấy gì là tỵ căn? Cái mũi bằng thịt hay cái tính ngửi biết?
Nếu lấy cái mũi bằng thịt, thịt tức là thân căn, thân biết gọi là xúc. Thân không phải là mũi. Xúc là trần của thân. Vậy không có cái gì đáng gọi là mũi, sao lập được giới? Nếu lấy tính biết ngửi là tỵ căn, ý ông muốn lấy cái gì làm biết ngửi? Nếu lấy chất thịt làm biết ngửi thì cái mà thịt biết được là xúc chứ không phải tỵ căn.
Nếu lấy hư không làm biết ngửi thì hư không tự có biết, còn chất thịt lẽ ra không có biết. Như vậy đáng lẽ hư không mới thực là ông. Thân ông không phải có biết, thì ông A Nan biết nương vào đâu?
Nếu lấy mùi làm biết ngửi, cái biết thuộc về mũi, nào có quan hệ gì đến ông?
Nếu các mùi thơm thối sinh ở mũi của ông, không phải ở cây y lan hay thiên đàn mà ra, vậy khi không có hai vật ấy, ông thử ngửi mũi ông xem thơm hay thối?
Mùi thối không phải thơm. Thơm không phải thối. Nếu ngửi được cả hai mùi thơm thối, thì một mình ông lẽ ra phải có hai mũi, và đứng trước tôi hỏi đạo, phải có hai A Nan, vậy ai là ông?
Nếu mũi có một, thơm thối không phải hai, thối là thơm, thơm thành thối, hai tính không có, vậy theo đâu lập giới?
Nếu nhân mùi sinh, cái tỵ thức nhân mùi mà có. Như con mắt thấy được, không nhìn được con mắt. Vậy tỵ thức nhân mùi mà có, lẽ ra không biết được mùi. Nếu biết được, không phải do mùi sinh. Còn nếu không biết, không phải là thức. Nếu mùi không có cái biết mùi thì không thành được giới hạn cái thức. Nếu không biết mùi, thì không phải do mùi mà lập ra nhân giới. Không có tỵ thức là chặng giữa, thì nội căn, ngoại trần không thể thành lập, và cái tính ngửi biết chỉ là hư vọng. Vậy nên biết: mũi và mùi làm duyên, sinh tỵ thức giới, ba chỗ đều không thực có. Ba giới mũi, mùi và tỵ thức vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên.
d# - Thiệt vị thức giới:
Ông A Nan, ông đã rõ: lưỡi và vị làm duyên, sinh ra thiệt thức. Cái thức đó nhân lưỡi sinh, lấy lưỡi làm giới, hay nhân vị sinh, lấy vị làm giới?Ông A Nan, nếu nhân lưỡi sinh, thì các vị trong thế gian ngọt như mía, chua như me, đắng như huỳnh biển, mặn như thạch diêm, cay như gừng và quế, mấy thứ đó đều không có vị. Ông thử tự nếm lưỡi ông, xem ngọt hay đắng? Nếu đắng, thì cái chi đến nếm lưỡi. Lưỡi đã không tự nếm, thì lấy cái chi mà biết vị? Nếu không đắng, lưỡi không sinh ra được vị, sao lập thành giới?
Nếu nhân vị sinh, thì thiệt thức tự mình đã là vị, giống như lưỡi, không thể tự nếm vị mình được, sao biết là vị hay không phải vị?
Lại tất cả các vị không phải do một vật sinh ra. Các vị đã do nhiều vật sinh ra, lẽ ra thức có nhiều thể.
Nếu thức thể là một, và thể do vị sinh ra, thì đáng lẽ những vị mặn, nhạt, chua, cay hòa hợp cùng nhau sinh ra các tướng sai khác, đồng là một vị, không có phân biệt. Đã không phân biệt, không gọi là thức, sao còn gọi là thiệt vị thức giới? Chẳng lẽ hư không sinh ra tâm thức của ông.
Còn nói lưỡi và vị hòa hợp nhau mà sinh, thì cái chặng giữa căn trần đã không có tự tính, làm sao sinh được giới?
Vậy nên biết: lưỡi và vị làm duyên sinh thiệt thức giới, ba chỗ đều không thực có. Ba giới lưỡi, vị và thiệt thức vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên.
e# - Thân xúc thức giới:
Ông A Nan, ông đã rõ: thân và xúc(1) làm duyên, sinh ra thân thức. Cái thức đó nhân thân sinh, lấy thân làm giới hạn, hay nhân xúc sinh, lấy xúc làm giới? Nếu nhân thân sinh, tất không có hai cái duyên giác quán hợp ly, thân còn biết gì nữa.(1) Cảm giác nóng, hay lạnh, trơn, v.v... Khi sờ mó, đụng chạm với vật khác.
Nếu nhân xúc sinh, chắc không có thân ông, ai không có thân mà biết hợp, biết ly được?
Ông A Nan, vật không thể biết xúc, thân mới biết có xúc. Xúc biết thân, thân biết xúc. Đã là xúc thì không phải là thân. Đã là thân, không phải là xúc. Hai tướng thân và xúc vốn không có xứ sở. Hợp với thân thì thành ra tự thể tính của thân. Ly với thân thành ra những tướng hư không.
Nội căn và ngoại trần đã không thành, cái giữa là thức làm sao lập được?
Giữa đã không lập được, tính trong ngoài là không, vậy từ đâu mà lập được cái giới sinh ra thức của ông?
Vậy nên biết: thân và xúc làm duyên sinh thân thức giới, ba chỗ đều không thực có. Ba giới thân, xúc và thân thức vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên.
f# - Ý pháp thức giới:
Ông A Nan, ông đã rõ: ý và pháp làm duyên, sinh ra ý thức. Cái thức đó nhân ý sinh, lấy ý làm giới, hay nhân pháp sinh, lấy pháp làm giới?Ông A Nan, nếu nhân ý sinh, trong ý ông chắc có nghĩ suy mới phát minh ý ông. Nếu không có sự vật ở ngoài, ý không sinh ra được. Lìa các pháp duyên, ý không có hình tướng. Vậy thức dùng làm gì?
Thức tâm của ông giống hay khác các tư tưởng và các sự rõ biết. Nếu đồng với ý tức là ý. sao gọi là do ý sinh. Nếu khác với ý, đáng lẽ không biết gì. Nếu thế, sao nói là do ý sinh. Nếu có biết, sao lại chia ra thức và ý? Nguyên đồng và khác còn không lập được, sao lập được giới?
Nếu nhân pháp sinh, các pháp trong thế gian không dời năm trần. Ông hãy xem các sắc pháp, thanh pháp, hương pháp, vị pháp và xúc pháp, các tướng trạng đều phân minh, để đối với năm căn, các thứ đó đều không phải về phần trần cảnh của ý căn.
BÌNH LUẬN
6 căn cộng với 6 trần, cộng với 6 thức, gọi là 18 giới.
Đó là:
1) Nhãn (mắt)
2) Nhĩ (tai)
3) Tỵ (mũi)
4) Thiệt (lưỡi)
5) Thân (thân thể)
6) Ý (ý phân biệt)
7) Sắc
8) Thanh
9) Hương
10) Vị
11) Xúc
12) Pháp
13) Nhãn thức
14) Nhĩ thức
15) Tỵ thức
16) Thiệt thức
17) Thân thức
18) Ý thức
Phật chỉ cho biết những thức đó đều là hư vọng.
Căn, trần, thức nương vào nhau mà có.
Ví dụ: mắt nhìn thấy sự vật. Nhãn thức biết các sự vật đó. Ba thứ hòa hợp nhau mà có.
Thật ra, tất cả những cái thấy, nghe, hay, biết của chúng sinh đều là hoa đốm ở hư không.
Muốn tu, muốn chứng được cảnh giới Phật, chúng sinh phải biết rõ điều đó.
No comments:
Post a Comment