Monday, October 24, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 30)

B/ - Giải riêng mối nút:
i/ - Ông A Nan cầu chỉ mối nút:
Ông A Nan bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Như Lai tuy dạy nghĩa quyết định thứ hai, song tôi xem những người mở nút trong đời, nếu chẳng biết mối, tôi tin rằng người đó không thể mở nổi.
Thưa Thế Tôn! Tôi và hàng hữu học thanh văn trong hội này cũng như vậy.
Từ hồi nào, với các vô minh chung sinh chung diệt. Dù được thiện căn đa văn, tiếng là xuất gia, nhưng cũng như người mắc bệnh sốt rét cách nhật. Mong đức đại từ thương xót kẻ chìm đắm, chỉ nơi thân tâm hiện nay, thế nào là nút? Dùng phương tiện gì để mở? Khiến cho các chúng sinh khổ nạn tương lai được khỏi luân hồi, không sa vào ba cõi.
Ông A Nan nói lời ấy rồi, cùng cả đại chúng, năm vóc gieo xuống đất, khóc lóc thành khẩn, đợi lời khai thị của đức Như Lai.
Bấy giờ đức Thế Tôn thương xót ông A Nan và các bậc hữu học trong hội, và cũng vì hết thảy chúng sinh trong đời vị lai, tạo cái nhân xuất thế, làm cái đạo nhân tương lai.
ii/ - Phật chứng không phải là vật khác:
a/ - Các Phật đồng chứng:
Phật lấy tay sáng rực rỡ như vàng Diêm Phù Đàn sờ đỉnh đầu ông A Nan. Lập tức, trong các cõi Phật mười phương, sáu thứ đều rung động. Trong các thế giới đó, các đức Như Lai nhiều như vi trần.
Mỗi vị đều có hào quang báu từ đỉnh đầu phát ra. Các hào quang ấy cùng đến rừng Kỳ Đà, rọi vào đỉnh đầu của Như Lai.
Tất cả đại chúng đều được cái chưa từng có.
Lúc đó, ông A Nan và cả đại chúng đều nghe các đức Như Lai thập phương, nhiều như vi trần, khác miệng đồng lời bảo ông A Nan:
Quý hóa thay, ông A Nan! Ông muốn biết cái cu sinh vô minh(1) là cái nút khiến ông phải luân chuyển sinh tử, đó chính là SÁU CĂN của ông chứ không có vật chi khác.
(1) Căn bản vô minh, mình sinh ra là có nó.
Ông lại muốn biết vô thượng Bồ Đề, khiến cho ông mau chứng an lạc, giải thoát, tịch tịnh, diệu thường, đó lại là sáu căn của ông, chứ không có chi khác.
b/ - Phật giải thích:
1/ - Ông A Nan dù nghe, chưa ngộ:
Ông A Nan tuy nghe giảng như vậy, chưa hiểu rõ, cúi đầu bạch Phật:
Thế nào mà khiến tôi sinh tử luân hồi, hay an vui diệu thường, cũng đều do sáu căn, không phải chi khác?
2/ - Phật giảng:
Phật bảo ông A Nan:
Căn và trần cùng một nguồn gốc. Buộc và mở không phải hai. Tính của thức là hư vọng, như hoa đốm giữa hư không.
Ông A Nan, do trần mà phát ra cái biết. Nhân căn mà thành ra có tướng. Tướng và kiến đều không có tính, giống như cây lau gác lại với nhau.
Vậy nay ông nơi tri kiến mà lập ra tri, tức là gốc vô minh. Nơi tri kiến mà không có kiến, tức là Niết Bàn vô lậu chân tịnh. Làm sao trong ấy lại dựng được vật khác.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này, đọc bài kệ:
Nơi chân tính, hữu vi là không,
Vì duyên sinh, nên giống như huyễn.
Vô vi không sinh diệt,
Chẳng thật, như hoa đốm hư không.
Nói vọng để chỉ rõ chân,
Vọng và chân đều là vọng.
Còn không phải chân với phi chân,
Làm sao có năng kiến, sở kiến.
Ở giữa không có thực tính,
Y như hình lau gác nhau.
Buộc và cởi cùng một nguyên nhân,
Thánh và phàm không có hai đường.
Ông hãy xét đặc tính của lau gác,
Chẳng phải là có hay không.
Mê mờ tức là vô minh,
Phát minh được là giải thoát.
Cởi nút phải theo thứ lớp,
Mở cả sáu thì một cũng mất.
Lựa chọn văn viên thông,
Vào dòng thành Chính giác.
Thức Đà Na vi tế khó nhận,
Tập khí thành dòng nước chảy xiết,
E mê là chân hay phi chân,
Ta thường không giảng đến.
Tự tâm chấp lấy tự tâm,
Phi huyễn thành pháp huyễn.
Không chấp trước thì không phi huyễn.
Phi huyễn mà còn không sinh,
Pháp huyễn làm sao an lập được?
Ấy gọi là Diệu Liên Hoa,
Bảo giác chắc như kim cương vương,
Như huyễn Tam Ma Đề.
Gảy móng tay, vượt hàng vô học.
Cái pháp không thể so sánh đó,
Là đường vào Niết Bàn duy nhất,
Của các đức Phật mười phương.


BÌNH LUẬN
Nay ta nghiên cứu phần:
B/ - Giải riêng mối nút.
Ông A Nan hỏi Phật: "Xin Phật chỉ cho mối nút, mới mở được. Vậy nơi thân tâm, thế nào là nút? Và dùng cách gì để mở?"
Phật liền lấy tay sờ đỉnh đầu ông A Nan. Khắp vũ trụ đều rung động, thấy hiện ra vô số thế giới Phật khắp mười phương, các đức Phật nhiều như bụi nhỏ, mỗi vị đều có hào quang phát ra từ đỉnh đầu. Các hào quang ấy đều rọi vào đỉnh đầu Phật Thích Ca.
Các đức Phật đều đồng thanh nói:
"Chính sáu căn làm ông luân chuyển.
Cũng chính sáu căn làm ông thành Phật."
Phật Thích Ca muốn tỏ rõ chân lý này, các đức Phật đều công nhận, nên Phật dùng uy thần cho đại chúng thấy Chư Phật đều nói vậy.
Phật Thích Ca lại giảng rõ ý trên:
Căn và trần cùng một nguồn gốc. Buộc và mở không phải hai. Tính của thức là hư vọng, như hoa đốm ở hư không.

Đó là đứng về mặt "chân", mặt "bình đẳng" mà nói. Đứng về mặt này, mọi sự vật đều bình đẳng.
Phật lại dạy:
Do trần mà phát ra cái biết. Nhân căn mà thành ra có tướng. Tướng và kiến đều không có tính, như cây lau gác vào nhau.
Các cây lau gác vào nhau, thành hình nọ, hình kia. Một trận gió thổi, một cây lau nghiêng ngả, hình đó mất đi ngay.
Vậy căn, trần chỉ nương nhau mà có.
Nếu ta chấp, cho căn, trần, sự vật là thực có, ta sẽ bị nô lệ cho vô minh.

Nếu ta không chấp, ta sẽ tu chứng tới Niết Bàn thanh tịnh.
Muốn nói kỹ hơn, Phật dọc bài kệ sau đây:
Đứng về mặt "chân": các pháp hữu vi, tức là bị làm ra, đều là không, vì là duyên sinh, nên giống như huyễn.
Vô vi không sinh diệt, vậy nó chẳng thật, cũng như hoa đốm giữa hư không.
Phân biệt "chân" và "vọng" nói "vọng" để chỉ "chân". Hai thứ đều tương đối, so sánh với nhau. Vậy hai thứ đều là vọng
"Chân" với "phi chân" còn không có, cái thấp hơn là cái "thấy" của chúng sinh, lại chia ra "năng", "sở": "năng kiến" là người thấy. "Sở kiến" là vật bị thấy. Hai thứ đó đều không thực có. Giữa hai thứ cũng không có thực tính, như hình lau gác nhau.
Đứng về mặt "bình đẳng": buộc và cởi cùng một nguyên nhân. Thánh và phàm cũng không có hai đường.

Ta thử quan sát hình lau gác: nói là có, tức là nhìn bề ngoài. Nói là không, tức là nhìn bề trong, xét về tính.
"Chấp" là vô minh.
Biết được lẽ chân, vọng là giải thoát."


Bây giờ nói đến phương pháp tu chứng:
Cởi nút phải theo thứ lớp. Mở cả sáu, thì một cũng mất. Tức khi đã giải thoát, không còn thấy sáu, thấy một.
Muốn tu, phải lựa chọn căn viên thông.
Lại phải biết vào dòng, sẽ tu chứng tới cảnh giới Phật.
Khi tu chứng lên cao, sẽ nhận thấy thức thứ tám, rất vi tế, như dòng nước chảy xiết.
Phật không hay giảng đến, vì sợ người học còn kém lại lầm chấp ra cái nọ, cái kia. Vì tại chấp trước nên mới bị vô minh, bị ràng buộc. Phi huyễn và pháp huyễn đều phải xa lìa.

Pháp huyễn: cho các pháp là huyễn.
Phi huyễn: xa lìa sự cho các pháp là huyễn.
Nay phải xa lìa cả hai thứ đó.
Cái định gọi tên là "Tam Ma Đề như huyễn", đó là bảo giác, chắc như Kim cương vương, đó là Diệu Liên Hoa, không bị nhiễm ô, như đóa hoa sen trong bùn mà không tanh mùi bùn.
Tu theo pháp này rất chóng, vượt xa hàng tiểu thừa A La Hán.
Cái pháp này rất cao quý, không lấy pháp gì so sánh được, là đường vào Niết Bàn của Chư Phật.

No comments:

Post a Comment