Monday, October 24, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 29)

2) - Chứng nghiệm để giải hai sự nghi:
2 phần:
A/ - Nghiệm giải thường và không thường.
B/ - Giải riêng mối nút.
A/ - Nghiệm giải thường và không thường:
2 phần:
i/ - Ông A Nan hiểu lầm lời nói của Phật.
ii/ - Phật lấy thường để giải thích lời nghi.
i/ - Ông A Nan hiểu lầm lời nói của Phật:
a/ - Nhân quả trái nhau:
Ông A Nan bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy: muốn cầu quả thường trụ, thì chỗ nhân địa và quả địa phải cân xứng với nhau.
Bạch Thế Tôn! Như trong quả vị, nào Bồ Đề, Niết Bàn, Chân Như, Phật tánh, Yêm Ma La thức, Không Như Lai tạng, Đại Viên kính trí, bảy tên tuy khác nhau, nhưng đều thể tính cứng chắc, thanh tịnh, viên mãn, như kim cương vương(1), thường trụ không nát.
(1) Thứ ngọc Kim cương quý nhất, rất cứng và sáng.
Còn các cái thấy nghe, rời các trần sáng, tối, động, tĩnh, thông, tắc, hẳn không có thể. Ví dụ như niệm tâm, xa lìa các tiền trần, vốn không thực có.
Thế nào lại đem cái sinh diệt đó làm nhân tu hành để cầu bảy quả thường trụ của Như Lai.
b/ - Trước sau nói khác:
Bạch Thế Tôn! Nếu xa lìa sáng, tối, cái thấy hoàn toàn không. Nếu không tiền trần, tự tính của niệm diệt. Tới lui xoay vần, suy tìm cặn kẽ, vốn không có tâm và tâm sở của tôi. Vậy lấy cái gì để làm nhân mà cầu quả vô thượng chính giác?
Trước Phật có nói: "cái biết yên lặng là viên thường, nhưng đã trái với lẽ thường thì kết cục chỉ thành hý luận. Làm sao nhận được lời nói của Như Lai là chân thật. Xin Phật mở lòng đại từ, chỉ dạy chỗ sai lầm của tôi."
ii/ - Phật lấy thường để giải thích lời nghi:
a/ - Hứa trừ nghi:
Phật dạy:
Ông A Nan, ông học nghe nhiều, chưa hết các mê lầm. Trong tâm chỉ biết suông cái nhân điên đảo, mà cái điên đảo hiện trước mắt, vẫn chưa biết được. E ông thật tâm hãy còn chưa tin, và chưa dẹp nghi hoặc.
Nay tôi thử đem các việc trần tục để trừ cái nghi cho ông.
b/ - Đánh chuông để nghiệm thường:
1/ - Hai phen vấn đáp:
Tức thì đức Như Lai bảo ông La Hầu La đánh một tiếng chuông, rồi hỏi ông A Nan:
Nay ông có nghe không?
Ông A Nan và đại chúng đều nói: "Chúng tôi có nghe."
Chuông hết ngân.
Phật lại hỏi: "Nay ông có nghe không?"
Ông A Nan và đại chúng đều nói: "Chẳng nghe".
Ông La Hầu La lại đánh một tiếng chuông nữa.
Phật lại hỏi:
"Nay ông có nghe không?"
Ông A Nan và đại chúng đều nói: "Đều có nghe."
Phật hỏi:
"Ông A Nan, thế nào là nghe? Thế nào là chẳng nghe?"
Ông A Nan và đại chúng cùng bạch Phật:
"Nếu đánh chuông thì chúng tôi được nghe. Khi tiếng ngân hết, thì gọi là không nghe."
Như Lai lại bảo ông La Hầu La đánh chuông, rồi hỏi ông A Nan:
"Theo ông, nay có tiếng không?"
Ông A Nan và đại chúng đều đáp:
"Có tiếng."
Giây lâu, tiếng ngân hết.
Phật lại hỏi:
"Theo ông, nay có tiếng không?"
Ông A Nan và đại chúng đáp:
"Không có tiếng."
Một lát, ông La Hầu La lại đánh một tiếng chuông nữa.
Phật lại hỏi: "Theo ông, nay có tiếng không?"
Ông A Nan và đại chúng đều nói: "Có tiếng."
Phật hỏi ông A Nan:
"Theo ông, thế nào là có tiếng? Thế nào là không có tiếng?"
Ông A Nan và đại chúng cùng bạch Phật:
"Tiếng chuông nếu đánh lên, gọi là có tiếng. Khi tiếng ngân im bặt, gọi là không tiếng."
2/ - Trách lầm lộn:
Phật bảo A Nan và đại chúng:
Nay sao các ông ăn nói lầm lộn?
Đại chúng và ông A Nan cùng hỏi Phật:
Sao Phật lại nói chúng tôi lầm lộn?
Phật đáp:
Tôi hỏi: có nghe không? Các ông đáp: có nghe. Tôi lại hỏi: có tiếng không? Các ông đáp: có tiếng. Chỉ có "tiếng" với "nghe" mà đáp không nhất định, như vậy nói là lầm lộn.
3/ - Trách mê:
Ông A Nan, cái tiếng tiêu hết, ông nói là không nghe. Nếu thực không nghe, thì tính nghe đã diệt như cây khô. Đến tiếng chuông thứ hai, làm sao ông lại biết?
Biết có, biết không, là tự tiếng hoặc không hoặc có, đâu phải tính nghe vì ông mà thành có, thành không. Nếu cái biết nghe thực là không, thì còn cái gì biết là không nữa?
Ông A Nan, vậy cái tiếng ở trong tính nghe tự có sinh diệt. Chẳng phải vì ông nghe tiếng sinh, tiếng diệt mà làm cho tính nghe của ông thành có, thành không. Ông còn điên đảo, lầm tiếng và nghe, lạ gì chẳng mê mờ, lầm cái thường làm cái đoạn.
Tóm lại, không nên nói: "xa lìa động, tĩnh, đóng, mở, bịt, thông, cái nghe không có tính."
c/ - Nói chiêm bao để nghiệm thường:
Ví dụ có người ngủ mê đương nằm trên giường. Trong nhà đồng thời có người giã gạo. Người ngủ nằm chiêm bao, lầm tiếng giã gạo thành tiếng khác, hoặc cho là tiếng trống, tiếng chuông. Người đó lấy làm lạ, sao tiếng chuông vang như tiếng gỗ đập vào đá. Lúc tỉnh dậy, mới biết là tiếng chày. Mới bảo người nhà: "Trong lúc chiêm bao, tôi lầm tiếng chày là tiếng trống."
Ông A Nan, người khi mộng đâu có nhớ những sự lặng, động, mở, đóng, thông, bịt, cái hình tuy ngủ, tính nghe không mờ.
Vậy dù hình ông tiêu tan, mạng ông dời đổi, lẽ đâu tính đó vì ông mà tiêu diệt.
d/ - Dạy giữ thường:
Bởi các chúng sinh từ vô thủy đến nay, theo mãi sắc thanh, lưu chuyển theo các niệm, chưa từng khai ngộ tính tịnh diệu thường.
Chẳng theo tính thường, dong ruổi theo sinh diệt, nên đời đời phải xoay vần trong vòng tạp nhiễm.
Nếu bỏ sinh diệt, giữ cái chân thường. Khi cái sáng suốt chân thường đã hiện tiền, những tâm niệm căn trần thức tức thời tiêu mất. Tướng vọng tưởng là trần, thức tình phân biệt là cấu, hai thứ đó đều cách xa rồi, pháp nhãn của ông liền được trong sáng, làm sao lại không thành trí giác vô thượng?


BÌNH LUẬN
Nay ta nghiên cứu sang phần:
2) - Chứng nghiệm để giải hai sự nghi.
Nay ta nghiên cứu phần đầu:

A/ - Nghiệm giải thường và không thường.
Đây là phần quan trọng, giúp ta hiểu rõ thêm về nguyên tắc tu chứng.
Ông A Nan hỏi Phật:

Phật đã dạy, phải lấy nhân đồng như quả. Vậy quả Phật là thường trụ, còn tâm chúng sinh là hư huyễn, rời căn trần, không thực có. Vậy làm sao lấy tâm đó làm nhân địa, để cầu quả Phật?
Phật lấy một ví dụ rất hay để dạy ông A Nan nguyên tắc tu chứng:
Phật sai đánh chuông. Tiếng chuông đương ngân, Phật bỗng hỏi ông A Nan: "Nay ông có nghe không?". Ông A Nan và đại chúng đáp: "Có nghe."
Khi chuống hết ngân, im lặng, Phật lại hỏi: "Nay ông có nghe không?"
Ông A Nan và đại chúng đều đáp: "Không nghe."

Phật lại sai đánh một tiếng chuông nữa.
Phật lại hỏi. Đại chúng đáp: "Có nghe."
Phật hỏi rõ: "Thế nào là nghe? Thế nào là không nghe?"
Đại chúng đáp: "Có tiếng chuông ngân, chúng tôi nghe thấy. Khi tiếng ngân hết, gọi là không nghe."
Phật lại sai đánh chuông.
Rồi hỏi: "Có tiếng không?"
Đại chúng đáp: "Có tiếng."
Khi tiếng ngân hết, im lặng.
Phật lại hỏi. Đại chúng đáp: "Không có tiếng."
Phật lại cho đánh chuông, lại hỏi.
Đại chúng đáp: "Có tiếng."
Phật lại hỏi: "Thế nào là có tiếng? Thế nào là không có tiếng?"
Đại chúng đáp: "Tiếng chuông ngân, là có tiếng. Tiếng ngân hết, là không tiếng."
Phật cố ý chứng minh điều này:
Tiếngnghe khác nhau.
Tính nghe thường còn, tiếng lúc có lúc không. Vậy ta đừng nô lệ cho tiếng, nói rộng ra, cho trần cảnh.
Tiếng đến ta, rồi mất. Ta không đắm chấp theo tiếng rồi tưởng lầm là không nghe. Tính nghe của ta vẫn có mãi, không vì tiếng động mất mà mất tính nghe.
Phật lại ví dụ người nằm ngủ, chiêm bao. Tuy ngủ, mà tính nghe vẫn còn, nên nghe được tiếng giã gạo.
Vậy, muốn tu chứng, ta phải theo tính chân thường.
Phải bỏ sinh diệt, giữ cái chân thường. Khi cái sáng suốt chân thường đã hiện tiền, các căn, trần, thức, các vọng tưởng, các trí phân biệt sẽ bị xa lìa. Ta sẽ chứng quả bất sinh diệt.

No comments:

Post a Comment