B) - Dạy tu pháp Tam Ma
2 phần:i) - Chọn căn viên thông nhất.
ii) - Lập đạo trường.
i) - Chọn căn viên thông nhất:
3 phần:a) - Ông a Nan cầu muốn chứng nhập.
b) - Phật dạy.
c) - Đại chúng chứng nhập.
a) - Ông A Nan cầu muốn chứng nhập:
Bạch Thế Tôn! Tuy nay tôi được nghe lời Phật dạy, biết Như Lai tạng diệu giác minh tâm bao trùm mười phương các thanh tịnh bảo nghiêm diệu giác vương sát (Phật sát). Như Lai lại trách tôi đa văn vô dụng, không quyết tu tập. Nay tôi như người lưu lạc, nhờ Thiên Vương ban cho nhà tốt, tuy được nhà lớn, nhưng điều cần là phải do cửa mà vào.Kính xin đức Như Lai đại bi khai thị cho những người mờ tối ở hội này, xa bỏ pháp tiểu thừa, vào được con đường căn bản phát tâm để chứng vô dư Niết Bàn của Như Lai, để cho những người hữu học biết cách thu hẹp tâm phan duyên từ lâu đời, được phép Tổng Trì, chứng được tri kiến của Phật.
Nói xong, năm vóc gieo xuống đất cùng cả chúng hội một lòng nghe lời Phật dạy.
b) - Phật dạy:
4 phần:1) - Phân môn để định hai nghĩa.
2) - Chứng nghiệm để giải hai sự nghi.
3) - Thắt khăn để chỉ thứ lớp.
4) - Chọn căn viên thông nhất để tu.
1) - Phân môn để định hai nghĩa:
2 phần:A/ - Mở đường tu.
B/ - Chính chỉ dạy.
A/ - Mở đường tu:
Khi đó, đức Thế Tôn thương xót trong hội, những hàng Thanh Văn, Duyên Giác chưa được tự tại đối với tâm Bồ Đề, lại vì những chúng sinh phát tâm Bồ Đề trong đời mạt pháp, sau khi Phật diệt độ, khai thị đường tu hành nhiệm màu của vô thượng thừa. Phật chỉ dạy ông A Nan và đại chúng:Các ông quyết định phát tâm Bồ Đề, đối với phép Tam Ma Đề nhiệm màu của Phật Như Lai, không sinh mỏi mệt. Trước hết nên biết hai nghĩa quyết định trong lúc mới phát tâm.
Thế nào là hai nghĩa quyết định lúc mới phát tâm?
B/ - Chính chỉ dạy:
2 phần:i/ - Nghĩa quyết định: "Nhân đồng như quả".
ii/ - Nghĩa quyết định: "Theo căn giải thoát".
i/ - Nhân đồng như quả:
a/ - Xem xét:
Ông A Nan, nghĩa thứ nhất là nếu các ông muốn bỏ pháp Thanh Văn, tu Bồ Tát thừa, để chứng tri kiến của Phật, cần phải xét kỹ nhân địa phát tâm với quả địa giác ngộ(1), là đồng hay khác?(1) Nhân địa: lúc mới phát tâm. Quả địa: lúc chứng thành Phật.
Ông A Nan, nếu đối với nhân địa, lấy tâm sinh diệt làm gốc tu nhân, mà cầu Phật thừa bất sinh bất diệt, không có lẽ ấy.
Do cớ đó, các ông nên phải hiểu rõ các sự vật có thể bị làm ra đều sẽ biến diệt.
Ông A Nan! Ông xem trong thế gian, các pháp có thể làm ra, cái nào là chẳng bị hư nát. Nhưng chưa hề nghe nói phá nát hư không. Tại sao? Vì hư không chẳng phải pháp bị làm ra, vì vậy trước sau không bị tiêu diệt.
b/ - Chỉ chỗ nên trừ:
1/ - Chung chỉ ngũ trọc:
Trong thân ông, chất đặc là địa, chất lỏng là thủy, ấm là hỏa, lay động là phong. Do bốn cái đó ràng buộc, nên chia cái tâm trạm viên diệu giác minh của ông làm thấy, nghe, biết, xét, từ đầu đến cuối tạo thành năm lớp hỗn trọc (vẩn đục).Thế nào là đục? Ông A Nan, ví như nước trong, bản nhiên trong sạch, còn kia là những bụi, đất, tro, cát, bản chất ngăn ngại. Hai thứ đó khác hẳn nhau. Có người lấy đất bỏ vào nước trong. Đất mất tính ngăn ngại, nước mất trong trẻo, trông vẩn đục, nên gọi là đục.
Năm lớp đục của ông cũng như vậy.
2/ - Riêng chỉ ngũ trọc:
A# - Kiếp trọc:
Ông A Nan, ông thấy hư không khắp mười phương thế giới. Cái không và cái thấy không thể rời nhau.Cái không chẳng có thật thể. Cái thấy không phải thật biết. Hai cái xen lộn, giả dối thành lập lớp thứ nhất, gọi là Kiếp Trọc.
B# - Kiến trọc:
Thân ông hiện gom tứ đại làm thể. Cái thấy, nghe, hay, biết bị hạn chế thành có ngăn ngại. Địa, thủy, hỏa, phong lại có hay biết. Hai bên xen lộn, giả dối thành lập lớp thứ hai, gọi là Kiến Trọc.
C# - Phiền não trọc:
Lại trong tâm ông, nhớ biết học tập, phát ra tri kiến, dung nạp phát hiện sáu trần. Rời trần không có tướng, rời giác ra không có tính, xen nhau giả dối thành. Ấy là lớp thứ ba, gọi là Phiền Não Trọc.
D# - Chúng sinh trọc:
Ngày đêm sinh diệt không ngừng, cái thấy biết hằng muốn ở trong thế gian. Nghiệp báu xoay vần thường đổi dời trong các cõi. Xen nhau giả dối thành. Ấy là lớp thứ tư, gọi là Chúng Sinh Trọc.
E# - Mệnh trọc:
Cái thấy, nghe của ông vốn không có tính riêng khác. Vì các trần chia cách nên thành khác. Trong tính biết nhau, trong dụng khác nhau. Giống và khác không có chuẩn đích. Xen nhau giả dối thành. Ấy là lớp thứ năm, gọi là Mệnh Trọc.
3/ - Khuyên nên mau bỏ vọng, theo chân:
Ông A Nan, ông muốn khiến cái thấy, nghe, hay, biết hợp với các đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Như Lai, phải trước hết lựa bỏ cái căn bản sinh tử, nương theo cái bất sinh diệt mà thành lập tính viên trạm(1). Ông lấy cái viên trạm xoay các sinh diệt hư vọng trở về nguyên giác, cho được tính không sinh diệt của nguyên giác. Lấy đó làm cái tâm nhân địa, về sau mới thành tựu hoàn toàn quả địa tu chứng.(1) Viên trạm: yên lặng khắp cùng.
Ví như lắng nước đục. Nước để lâu mãi không động, bụi đục chìm dần xuống đáy. Nước trong hiện ra. Gọi là bắt đầu dẹp được phiền não. Gạn cho hết cặn, còn toàn là nước trong, gọi là đoạn hẳn căn bản vô minh.
Cái minh đã tinh thuần thì hết thảy các vật đều biến hiện, không bị phiền não, và đều hợp với diệu đức thanh tịnh Niết Bàn.
BÌNH LUẬN
Đó là phần:
B) - Dạy tu pháp Tam Ma.
Khi ông A Nan cầu Phật chỉ dạy cách thực hành tu chứng vào quả Phật, ông có nêu một ví dụ rất hay. Đó là: Một người được cái nhà lớn, nhưng cần do cửa mà vào.
Nay Phật đã giảng cho ông A Nan và đại chúng biết nguyên tắc chân, vọng, ví như người cho cái nhà lớn.
Ông A Nan lại xin Phật chỉ dạy cách tu chứng, tức là xin chỉ cái cửa để lọt vào trong nhà.
Phật nêu hai nguyên tắc căn bản, đề người ta có thể tu chứng vào những quả cụ thể.
Hai nguyên tắc đó là:
1) Nhân phải đồng như quả.
2) Theo căn mà giải thoát.
Nay ta nghiên cứu nguyên tắc thứ nhất:
i/ - Nhân đồng như quả.
Muốn tu thành Phật, phải xét kỹ nhân địa lúc phát tâm, và quả địa khi tu chứng thành Phật.
Muốn có ngô, phải gieo hạt ngô.
Nếu gieo hạt lúa, không thể có quả là ngô.
Vậy hạt ngô sinh cây ngô, rồi sinh hạt ngô. Như thế là nhân đồng như quả?
Còn hạt lúa không sinh cây ngô, là vì nhân khác quả.
Vậy muốn có quả là cảnh giới Phật, thì lúc tu nhân phải theo đúng cảnh giới Phật mà tu.
Nếu lấy tâm sinh diệt làm gốc tu nhân, không thể được quả bất sinh diệt là cảnh giới Phật. Vậy phải hiểu điều này:
"Cái gì bị làm ra, sẽ bị tiêu diệt.
Cái gì không bị làm ra, sẽ không bị tiêu diệt. Ví dụ như hư không."
Phật lại nêu ví dụ rất hay này để ta có một ý niệm rõ ràng về tu chứng:
"Nước đục là ví với trí biết hẹp hòi, nông cạn của chúng sinh. Bụi đục là ví với thân thịt, nó đã ràng buộc chúng sinh."
Tu là lắng nước trong. Nước càng để lâu, bụi sẽ từ từ chìm xuống đáy. Nước dần thành trong.
Sau gạn hết cặn, chỉ toàn nước trong. Đó là hình ảnh của người đã tu chứng, không còn bị phiền não nữa.
Vậy muốn chứng cảnh giới Phật, hãy xa lìa căn bản sinh tử, nương theo bất sinh diệt. Thế là lóng trong. Rồi chuyển vọng thành chân. Chuyển các hư vọng sinh diệt về không sinh diệt. Nương theo không sinh diệt, không phân biệt, không động mà tu, mới là "nhân đồng như quả".
No comments:
Post a Comment