ii) - Nói hai Như Lai Tạng sau.
2 phần:a) - Vấn đáp biện các hoặc.
b) - Đại chúng lĩnh ngộ, cảm tạ.
a) - Vấn đáp biện các hoặc:
2 phần:1) - Ông Phú Lâu Na vin theo nghĩa trước, hỏi hai việc nghi.
2) - Phật thứ lớp trừ hai việc nghi.
1) - Ông Phú Lâu Na hỏi hai việc nghi:
A/ - Trần tình:
Khi đó ông Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, trật vai áo bên phải, gối bên phải quỳ xuống, cung kính chắp tay bạch Phật:- Đức Thế Tôn oai đức lớn, khéo vì chúng sinh giảng đệ nhất nghĩa đế của Như Lai.
Thế Tôn thường ban khen tôi là giỏi nhất trong các người thuyết pháp. Nay tôi nghe tiếng nói pháp nhiệm mầu của Như Lai, y như người điếc nghe tiếng muỗi bay cách ngoài trăm bước, đến nhìn thấy còn không được, làm sao nghe tiếng.
Phật tuy dạy rõ khiến tôi trừ lầm lạc, nay tôi chưa rõ hoàn toàn, hãy còn nghi hoặc.
Bạch Thế Tôn, như nhóm ông A Nan, tuy đã khai ngộ, mà thói quen hữu lậu chưa trừ, chúng tôi đã lên bậc vô lậu trong pháp hội này, tuy hết các lậu, nay nghe Như Lai nói pháp còn bối rối, ngờ vực.
B/ - Tỏ bày hai việc nghi:
i/ - Nghi vạn pháp sinh khởi và tiếp tục:
Bạch Thế Tôn, nếu như tất cả các căn, trần, ấm, xứ, giới trong thế gian đều là Như Lai tạng, thanh tịnh bản nhiên, thế sao bỗng sinh ra núi, sông, đất liền, các tướng hữu vi, thứ lớp đổi dời, sau trở lại bắt đầu.
ii/ - Nghi năm đại viên dung:
Lại đức Như Lai nói: địa, thủy, hỏa, phong, bản tính viên dung, khắp cả pháp giới, trạm nhiên thường trụ. Bạch Thế Tôn, nếu tính địa cùng khắp, sao lại dung được nước. Tính nước cùng khắp, lửa chắc không sinh. Sao lại phát minh hai tính nước, lửa đều khắp hư không, chẳng lấn cướp nhau.Bạch Thế Tôn, tính địa ngăn ngại, tính không rỗng suốt, thế sao hai cái đều cùng khắp pháp giới.
C/ - Xin Phật khai thị:
Tôi chẳng biết nghĩa đó ra sao, xin nguyện đức Như Lai mở lòng đại từ, mở mây mê ám cho tôi và đại chúng.Nói xong, năm vóc gieo xuống đất, kính mong lời dạy từ bi vô thượng của Như Lai.
2) - Phật thứ lớp trừ hai việc nghi:
3 phần:A/ - Phật hứa nói.
B/ - Phật chính đáp.
C/ - Phật khai thị.
A/ - Phật hứa nói:
Khi đó, đức Thế Tôn bảo ông Phú Lâu Na và các A La Hán là bậc hết lậu, không còn học để phá ngã chấp:Ngày nay, Như Lai vì chúng hội này nói chân thắng nghĩa trong thắng nghĩa, khiến trong hội, hàng định tính thanh văn, với tất cả những người chưa chứng nhị không(1), các A La Hán hồi hướng thượng thừa, đều được nhất thừa tịch diệt, chỗ chân chính tu hành.
(1) Nhân không và pháp không.
Các ông hãy lắng tai nghe, tôi sẽ giảng.
Bọn ông Phú Lâu Na kính vâng lời Phật, lặng yên nghe.
B/ - Phật chính đáp:
2 phần:i/ - Nói "bất không Như Lai tạng", để chỉ nguyên do sinh khởi và tiếp tục.
ii/ - Nói "không bất không Như Lai tạng" để chỉ rõ cái duyên cớ viên dung.
i/ - Nói "bất không Như Lai tạng":
2 phần:a/ - Đáp câu hỏi trước.
b/ - Giải thích câu hỏi.
a/ - Đáp câu hỏi trước:
Phật dạy: Ông Phú Lâu Na! Ông nói: "thanh tịnh bản nhiên, tại sao bỗng sinh ra núi, sông, đất liền?"Ông thường chẳng nghe Như Lai nói: "tính giác diệu minh, bản giác minh diệu?"
Ông Phú Lâu Na đáp: Bạch Thế Tôn, tôi thường có nghe Phật giảng như thế.
Phật hỏi: Ông gọi là giác minh, vì tính sẵn minh mà gọi là giác, hay vì giác cái chẳng minh, nên gọi là minh giác?
Ông Phú Lâu Na đáp: Nếu cái không minh đó, gọi là giác, thì không minh gì cả.
Phật nói: Nếu không có sở minh, thì không có minh giác. Có sở thì chẳng phải giác. Không sở thì chẳng phải minh. Không minh lại không phải là tính giác trạm minh.
Tính giác chắc hẳn là minh, vọng làm ra có minh giác.
Tính giác chẳng phải sở minh, nhân cái minh lập sở. Cái sở đã vọng lập, thì sinh ra cái vọng năng của ông. Trong cái không đồng dị, bỗng thành có dị (sai khác). Khác cái dị đó, nhân dị lập đồng.
Đồng dị đã phát minh, nhân đó lại lập không đồng, không dị.
Rối loạn như vậy, đối đãi nhau sinh ra trần tướng, tự vẩn đục lẫn nhau, do đó dẫn khởi ra trần lao phiền não. Khởi là thế giới, tĩnh là hư không.
Hư không là đồng, thế giới là dị.
Cái không đồng dị, thực là pháp hữu vi.
Cái giác sáng suốt và cái không chẳng sáng suốt, đối đãi nhau thành lay động. Cho nên có phong luân cầm giữ thế giới.
Nhân không sinh lay động, cái minh giác cứng ngại thành các kim bảo, cho nên có Kim luân bảo trì thế giới.
Kim bảo với gió chà xát nhau, thành lửa sáng, là tính biến hóa.
Lửa sáng xông lên, kim bảo sinh nhuận, cho nên có thủy luân trùm mười phương thế giới.
Lửa lên, nước xuống, chỗ giao phát lập thành chất cứng, ướt làm bể lớn, khô làm gò nổi. Vì thế, trong bể lớn, có phun lửa, trong lục địa, có sông chảy. Thế nước kém thế lửa, kết lại làm núi cao, vậy nên đá núi đánh ra lửa, nấu ra nước.
Thế đất kém thế nước, rút lên làm cỏ cây. Vậy nên rừng bị cháy thành đất, bị vắt thành nước.
Các vọng giao xen phát sinh, thay nhau làm chung(1), do nhân duyên ấy, thế giới tiếp tục.
(1) Hạt giống, nguyên nhân sinh thứ khác.
Lại nữa, ông Phú Lâu Na, rõ biết cái vọng chẳng phải khác, lỗi tại giác minh. Cái vọng sở minh đã thành lập, lý năng minh không vượt ra ngoài vòng ấy được. Bởi thế, nghe không ra ngoài các tiếng, thấy không vượt khỏi các sắc. Sáu cái vọng (6 trần) đã thành tựu, do đó chia ra các thấy nghe hay biết, các loài đồng nghiệp ràng buộc nhau mà hợp, mà ly, mà thành, mà hóa.
Cái thấy phát minh thì các sắc phát ra. Nhận rõ các sự thấy thì tưởng tượng thành lập. Ý kiến khác nhau thành ghét. Tư tưởng giống nhau thành yêu. Gieo cái ưa ra thành hạt giống, nạp cái tướng vào làm cái thai, giao cấu phát sinh, hấp dẫn đồng nghiệp tới, cho nên có nhân duyên sinh ra bào thai.
Bọn ấy tùy phần sở ưng mà thai sinh, noãn sinh, thấp sinh hay hóa sinh. Noãn nhờ tưởng sinh. Thai nhân tình mà có. Thấp do hợp chiêu cảm, hóa do ly ứng hiện. Khi nặng về tình, tưởng khi thiên về hợp, ly, thay đổi mãi mãi. Các loài chịu nghiệp báo cũng theo đó mà bay lên chìm xuống.
Do nhân duyên đó, chúng sinh tương tục.
Ông Phú Lâu Na, do lòng tưởng nhớ thương yêu, liên kết cùng nhau, thương yêu mãi không rời nhau, nên trong thế gian, cha mẹ con cháu sinh nhau mãi không dứt. Đây là lòng dục tham làm gốc.
Lòng tham muốn, lòng yêu thương nương nhau phát triển, lòng tham không biết đâu là cùng, nên trong thế gian, chúng sinh lấy mạnh hiếp yếu, ăn muốt lẫn nhau. Đây là lấy sát tham làm gốc.
Các loài ăn nuốt lẫn nhau, chết rồi sinh, sinh lại chết, do nghiệp ác cùng nhau sinh mãi mãi. Đây là lấy đạo tham làm gốc.
Người này mắc nợ thân mạng người kia, người kia trả nợ người này. Do nhân duyên ấy, thường ở trong vòng sinh tử, trải qua trăm nghìn kiếp.
Người này mến tâm người kia, người kia ưa sắc đẹp người này. Do nhân duyên ấy, thường ở trong vòng ràng buộc.
Vì ba thứ sát, đạo, dâm làm gốc, nghiệp quả tương tục (nối nhau).
Ông Phú Lâu Na, ba thứ điên đảo: thế giới, chúng sinh, nghiệp quả, nối nhau như vậy, đều là vọng tưởng phát sinh ra, nào là núi sông, đất liền, các vật hữu vi thứ lớp dời đổi. Nhân cái hư vọng đó xoay vần, sau làm trước, trước sinh sau.
BÌNH LUẬN
Ông Phú Lâu Na hỏi Phật hai điều:
1) Tại sao chân lý trong sạch, không động, sao lại bỗng sinh ra núi sông, thế giới và chúng sinh?
2) Tại sao các đại như nước, đất lại bao trùm pháp giới, không lấn cướp nhau? Mà thực tế, chúng tôi thấy chúng đều có đặc tính, giới hạn rõ ràng.
Nay ta nghiên cứu câu trả lời về câu hỏi thứ nhất:
i/ - Nói "bất không Như Lai tạng".
Trước hết, Phật trả lời câu hỏi. Sau Phật giải thích thêm.
Nay ta nghiên cứu phần:
a/ - Đáp câu hỏi trước.
Câu hỏi này rất quan trọng. Nó tiêu biểu cho những băn khoăn, thắc mắc của loài người từ xưa đến nay: "Chúng ta từ đâu đến? Tại sao có thế giới, có cuộc đời, có chúng ta?"
Các tôn giáo, các chủ nghĩa, các triết học, cho đến khoa học ngày nay cũng đều nêu vấn đề đó. Tùy lối giải thích, sẽ có một quan niệm sống, một lập trường rõ rệt.
Hơn nữa, những người học Phật vẫn thường băn khoăn hỏi: "Vô minh là gì? Tại sao có vô minh? Tại sao Phật đã giác ngộ, lại trở thành chúng sinh? Tại sao ở cảnh giới Phật là bất động, thanh tịnh, bất sinh diệt, bỗng nảy ra cái sinh diệt, đau khổ, là cảnh giới chúng sinh?"
Những băn khoăn này, nếu đọc trong các kinh, sách để tìm câu giải đáp rõ rệt, hay mang hỏi các vị thầy, phần nhiều câu trả lời mù mờ, cưỡng ép, hay lúng túng, nói cho xuôi. Người học Phật cứ tự cho là mình còn kém, mà đạo Phật quá cao siêu, mình chưa hiểu nổi.
Người xưa phần nhiều đơn sơ, chất phác, tu bằng lòng tin. Họ chỉ cần thầy hay kinh sách chỉ cho họ cách tu, rồi họ chuyên chú tu. Chứng được quả nào, thấy sự vật theo cảnh giới mình tu chứng đến. Thế là "duyên tu".
Ngày nay, con người quen sống với lý trí. Họ quen suy luận, tìm hiểu. Muốn biết vấn đề gì tìm cho rõ ràng, thấu đáo.
Nay trở lại vấn đề trên, đạo Phật giải quyết ra sao?
Thực ra, Phật đã trả lời rõ ràng, cặn kẽ trong nhiều kinh.
Về sau, các bậc pháp sư lỗi lạc như Huyền Trang, Khuy Cơ, cái học bao trùm tam tạng, giỏi về duy thức, nhân minh, đã giải quyết rất hay. Ngày nay, các nhà khoa học có nghiên cứu đến, phải nghiêng đầu kính phục, vì các phát minh ngày nay càng chứng minh sự cao siêu vĩ đại của Phật pháp.
Nước ta mới có một vị tam tạng pháp sư xuất chúng, đó là ngài Huyền Cơ, thông suốt tam tạng, rất giỏi về duy thức, nhân minh, đã giải quyết vấn đề trên rất rõ ràng, đưa trình độ Phật học lên cao tột, gỡ các loại loanh quanh, bối rối của phần lớn các nhà Phật học. Vì bị bế tắc, họ không thuyết phục nổi các tấn công của khoa học ngày nay.
NAY TÔI TRÌNH BÀY CÂU GIẢI ĐÁP CỦA CỤ HUYỀN CƠ
1) Trong kinh Viên Giác, kinh tối cao của đạo Phật. Phật đã chỉ dạy rõ ràng.
Phật nêu ví dụ: người mắt bệnh thấy hoa đốm ở hư không.
Chúng sinh ví với người mắt bệnh.
Cảnh giới của chúng sinh, ví với hoa đốm ở hư không.
Điều cần yếu là làm cho người mắt bệnh lành mắt. Khi đó, người mắt lành sẽ không thấy hoa đốm. Và sẽ biết hoa đốm là hư vọng. Người mắt bệnh không nên băn khoăn tự hỏi: "Tại sao có hoa đốm? Hoa đốm bao giờ kết quả?"
Lối giải thích này làm yên tâm người chuyên tu, muốn tìm phương pháp tu chứng. Họ tin rằng: khi tu chứng thành Phật, họ sẽ thấy chân lý rõ ràng. Còn bây giờ, chỉ là hý luận.
2) Nhưng với những tâm hồn thích suy luận, hay thắc mắc, và với các học giả muốn biết rõ vũ trụ quan của đạo Phật, để so sánh với các ngành học khác, lối giải thích đó chưa làm thoả mãn.
Tôi xin đưa ra giáo lý của ngài Huyền Cơ, đó cũng là giáo lý của các ngài Huyền Trang và Khuy Cơ.
TẠI SAO CÓ THẾ GIỚI, CHÚNG SINH?
Trả lời:
a) Trước hết, ta hãy giả lập chia vũ trụ bao la làm hai mặt: "chân" và "vọng".
"Chân" là cảnh giới Phật.
"Vọng" là cảnh giới chúng sinh.
Hai mặt đều "vô thủy".
Hai mặt đều "không có chỗ bắt đầu".
Như thế, không có nguyên nhân đầu tiên sinh ra thế giới, chúng sinh.
b) Đứng về mặt "vọng", tức là mặt thế giới, chúng sinh, sự vật sinh ra trên căn bản:
Đồng nghiệp sinh biệt nghiệp
Khi ta nói: "hạt lúa sinh cây lúa", "hạt lúa làm nhân, sinh ra quả là cây lúa". Đó là nói một cách thô sơ.
Thực ra, nói: "nước Việt Nam sinh cây lúa", hay là "Châu Á sinh cây lúa", hay là "trái đất sinh cây lúa", hay là "Pháp giới sinh cây lúa". Càng mở rộng càng đúng sự thực hơn.
Ví dụ: nói "cha mẹ ông A sinh ra ông A". Nhưng nói: "nước Việt Nam sinh ông A", càng đúng hơn nữa.
Sự vật đều có đồng, có biệt.
Lấy cả pháp giới là đồng, 1 thế giới là biệt.
Lấy cả thái dương hệ là đồng, trái đất là biệt.
Cả nước Việt Nam là đồng, mỗi tỉnh, mỗi quận, mỗi làng, mỗi gia đình, mỗi cá nhân là biệt.
Vậy nói "đồng nghiệp sinh biệt nghiệp."
Là đúng sự thật nhất.
Tôi đã trình bày rất kỹ chân lý này trong phần lý thuyết(2) của bộ sách "Phật giáo"(1)
Bạn đọc muốn hiểu sâu đạo Phật, muốn hiểu rõ kinh này, xin nghiên cứu sách đó trước.
(1) Tác phẩm "Phật giáo" của Tuệ Quang, nhà sách Khai Trí xuất bản để chào mừng Phật Đản 1964.
(2) Phần thứ ba: "lý thuyết của Phật pháp", từ trang 182 đến trang 197.
c) Khi ta dứng về mặt "vọng": tất cả sự vật, chúng sinh đều thực có.
Khi ta đứng về mặt "chân": khi ta đã tu chứng tới cảnh giới Phật, thế giới, chúng sinh đều là hoa đốm hư không.
Trong kinh này, ở đoạn ta đương nghiên cứu đây, Phật tùy theo trình độ hiểu biết của ông Phú Lâu Na và đại chúng, tùy trình độ hiểu biết của người đương thời, giảng cho họ hiểu nguyên tắc tu chứng vào Càn Tuệ Địa.
Phật đã và sẽ lấy nhiều ví dụ để làm họ hiểu rõ thêm, khỏi chấp theo danh từ.
Những ví dụ như: hoa đốm hư không, chiêm bao, vòng năm sắc v.v... giúp ta hiểu lời Phật dạy.
Nhiều người học Phật bằng danh từ, không có thầy tu chứng chân truyền, không được gặp pháp sư đã thông suốt ba tạng kinh luận, hay bị chấp theo danh tự, và bị mắc trong thuyết "duy tâm". Bị mắc kẹt trong đó, không gỡ ra được, và giảng đạo Phật một các hàm hồ. Trước sự tấn công của khoa học, và của các tay biện thuyết "duy vật", họ lúng túng, nói loanh quanh, trình bày đạo Phật như một tôn giáo chủ quan. Không giải thích được thì lấy lòng "tin" mà an ủi.
Họ đã làm chết đạo Phật.
Trở lại lời Phật dạy ở đoạn này, ta nên nhớ mấy điều căn bản:
- Đứng về mặt "vọng": trong vòng "nghiệp" của chúng sinh, có thế giới, chúng sinh.
- Tất cả sự vật đều trôi lăn, biến chuyển, nối đuôi nhau, thay nhau làm nhân, làm duyên sinh ra nhau.
- Chúng sinh bị luân hồi sinh tử vì:
a) lòng yêu: vì ái tình, vì dâm dục, thương nhau, mê nhau, nhớ nhau. Chết còn thương tiếc. Lòng yêu đó cứ buộc ràng nhau kiếp nọ qua kiếp kia.
b) giết nhau, ăn nhau: vì sinh tồn, vì tham miếng ngon, chúng sinh ăn nhau, giết nhau, thù nhau, ghét nhau. Bởi thế làm khổ nhau.
No comments:
Post a Comment