Saturday, October 8, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 17)

B# - Lục nhập:
i# - Hỏi chung:
Lại nữa, ông A Nan, vì sao bản tính của lục nhập(1) là Như Lai tạng diệu chân như tính?
(1) Nhập: vào. Trần cảnh do 6 căn vào trong tâm của chúng sinh. 6 căn đó là: mắt (nhãn), tai (nhĩ), mũi (tỵ), lưỡi (thiệt), thân thể (thân), trí phân biệt (ý). Sự lĩnh nạp ở 6 căn gọi là lục nhập.
ii# - Giảng riêng:
a# - Nhãn nhập:
Ông A Nan, tôi đã từng nói: con mắt bị mệt mỏi trông thấy các hoa đốm lăng xăng. Mắt lành thấy rõ hư không không có hoa. Hoa đốm nhảy nhót ở hư không là do mắt bệnh. Hoa đốm và bệnh, đều trong phạm vi của hư không và mắt lành. Vậy có thể nói: con mắt và trần cảnh của chúng sinh đều ở trong phạm vi của Bồ đề.
Nhân hai vọng trần tối và sáng, phát ra cái thấy nơi bề trong, để thu nạp các trần tượng đó, gọi là tính thấy.
Rời hai cái trần sáng, tối kia, tính thấy đó không có thể.
Đúng thế ông A Nan, tính thấy đó không từ nơi sáng, tối đến, không ở mắt ra, chẳng ở hư không sinh. Vì sao? Nếu từ sáng tới, khi tối liền theo sáng diệt, đáng lẽ không thấy tối. Nếu từ tối đến, khi sáng liền theo tối diệt, đáng lẽ không thấy sáng. Nếu từ con mắt sinh ra, hẳn không có sáng, tối, như thế cái thấy vốn không có tự tính. Nếu do hư không mà ra, nhìn phía trước thấy các vật, quay trở lại đáng lẽ thấy con mắt. Vả lại nếu hư không tự thấy, còn có liên lạc gì với cái nhập(1) của ông.
(1) Do 6 căn liên lạc với cảnh ngoài, mới gọi là lục nhập. Nếu hư không biết được cảnh, không gọi là nhập.
Vậy nên biết rằng: nhãn nhập hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên.
b# - Nhĩ nhập:
Ông A Nan, ví dụ có người lấy hai ngón tay bịt chặt lỗ tai, nghe tiếng trong đầu ù ì. Tai và tiếng đó đều ở trong phạm vi của Bồ đề.
Nhân hai vọng trần động và yên tĩnh(2) phát ra cái nghe nơi bề trong, để thu nạp các trần tượng ấy, gọi là tính nghe.
(2) Trần là các sự vật bên ngoài, nhờ ta có 6 căn, mới hiểu được. Đối với tai, vọng trần là tiếng động. Trái với tiếng động là yên tĩnh. Vọng trần là trần tượng giả dối.
Rời hai cái trần động, tĩnh kia, tính nghe đó không có thể.
Đúng thế ông A Nan, tính nghe đó không từ nơi động, tĩnh đến, không phải từ tai ra, chẳng ở hư không sinh.
Vì sao? Nếu từ tĩnh lại, khi động liền theo tĩnh diệt, đáng lẽ không biết động. Nếu từ động tới, khi tĩnh liền theo động diệt, đáng lẽ không biết tĩnh. Nếu từ lỗ tai sinh ra, hẳn không có động, tĩnh, như thế cái nghe vốn không có tự tính. Nếu do hư không mà ra, thì hư không đã thành tính nghe, tức không phải là hư không. Vả lại, nếu hư không nghe được, còn có liên lạc gì với cái nhập của ông.
Vậy nên biết rằng: nhĩ nhập hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên.
c# - Tỵ nhập:
Ông A Nan, ví như có người bịt chặt hai lỗ mũi. Bịt lâu mũi nhọc và cảm thấy lạnh. Nhân cảm xúc phân biệt thông, nghẹt, trống, đặc, cho đến các mùi thơm, mùi thối. Mũi và cái nhọc ấy đều ở trong phạm vi của Bồ đề.
Nhân hai vọng trần thông và tắc phát ra cái ngửi nơi bề trong, để thu nạp các trần tượng ấy, gọi là tính ngửi.
Rời hai cái trần thông, tắc kia, tính ngửi đó không có thể.
Tính ngửi đó không từ nơi thông, tắc lại, không phải từ mũi ra, chẳng ở hư không sinh.
Vì sao? Nếu từ thông lại, khi tắc tính ngửi phải diệt mất, đáng lẽ không biết tắc. Nếu nhân cái tắc mà có, khi thông không thể ngửi được nữa, sao lại biết mùi thơm, thối. Nếu từ lỗ mũi sinh ra, hẳn không có thông, tắc, như thế cái ngửi vốn không có tự tính. Nếu do hư không mà ra, đáng lẽ cái ngửi ấy quay trở lại ngửi được mũi ông. Cái hư không có tính ngửi, còn có liên lạc gì với cái nhập của ông.
Vậy nên biết rằng: tỵ nhập hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên.
d# - Thiệt nhập:
Ông A Nan, ví như có người lấy lưỡi liếm mép, liếm mãi thành mỏi mệt. Người ốm thấy đắng, người khỏe thấy ngọt. Do vị ngọt và vị đắng, mới rõ có thiệt căn. Lúc bình thường, chỉ thấy vị nhạt. Lưỡi và cái mỏi mệt ấy đều ở trong phạm vi của Bồ đề.
Nhân hai vọng trần ngọt và nhạt phát ra cái nếm nơi bề trong, để thu nạp các trần tượng ấy, gọi là tính nếm.
Rời hai cái trần ngọt và nhạt kia, tính nếm đó không có thể.
Đúng thế ông A Nan, tính nếm đó không từ nơi ngọt đắng lại, không từ lưỡi ra, chẳng ở hư không sinh.
Vì sao? Nếu từ ngọt đắng lại, khi nhạt tính nếm phải diệt, đáng lẽ không biết nhạt. Nếu từ nhạt ra, khi ngọt tính nếm phải mất, sao lại biết ngọt, đắng. Nếu từ lưỡi sinh ra, hẳn không có ngọt, nhạt và đắng. Như thế tính nếm vốn không có tự tính. Nếu do hư không mà ra, thì hư không có tính nếm, chứ không phải miệng ông. Hư không biết nếm, còn có liên lạc gì với cái nhập của ông.
Vậy nên biết: thiệt nhập hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên.
e# - Thân nhập:
Ông A Nan, ví như có người lấy một bàn tay lạnh úp vào bàn tay nóng. Nếu lạnh nhiều thì nóng theo thành lạnh. Nếu nóng nhiều, lạnh trở thành nóng. Biết nóng lạnh khi chạm tay, thì cái biết đó vẫn có từ khi chưa chạm tay.
Thân và cái cảm giác đó, đều ở trong phạm vi của Bồ đề.
Nhân hai vọng trần ly và hợp phát ra cái cảm giác nơi bề trong, để thu nạp các trần tượng ấy, gọi là tính biết khi sờ, mó.
Rời hai cái trần ly, hợp, thích và không thích kia, tính biết đó không có thể.
Đúng thế, ông A Nan, tính biết đó không từ ly, hợp lại, chẳng phải từ thích, không thích mà có, không từ thân ra, chẳng ở hư không sinh. Vì sao? Nếu từ hợp mà có, khi ly tính biết phải diệt, đáng lẽ không biết khi chưa tiếp xúc (ly).
Đối với thích và không thích, cũng như vậy. Nếu từ thân mà ra, hẳn không có ly, hợp, thích và không thích. Như thế tính biết nhờ sờ mó, vốn không có tự tính.
Nếu do hư không mà ra, thì hư không có tính biết, còn có liên lạc gì với cái nhập của ông.
Vậy nên biết rằng: thân nhập hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên.
f# - Ý nhập:
Ông A Nan, ví như có người mệt mỏi ngủ thiếp đi, ngủ no thức dậy, thấy trần cảnh thì nhớ, khi không nhớ gọi là quên. Các thứ điên đảo sinh, trụ, dị, diệt(1) tập quen thu nạp vào bề trong, không lẫn lộn nhau, gọi là ý tri căn.
(1) Sinh ra, ở một thời gian (trụ), thay đổi (dị), rồi mất (diệt). Các sự vật đều theo công lệ này. Các ý tưởng lại càng biến chuyển rất mau.
Ý và cái mỏi mệt đó, đều ở trong phạm vi của Bồ đề. Nhân hai vọng trần sinh và diệt, tập khởi cái biết bên trong, để thu nạp các nội trần. Các cái thấy, nghe đi ngược vào trong mà không đến nơi, gọi là tính hay biết.
Rời hai cái trần thức ngủ, sinh diệt kia, tính hay biết đó không có thể.
Đúng thế, ông A Nan, tính hay biết đó không từ thức ngủ tới, không từ sinh diệt mà có, không ở ý căn ra, chẳng ở hư không sinh.
Vì sao? Nếu từ thức mà có, khi ngủ liền diệt theo, lấy cái gì gọi là ngủ. Như chắc khi sinh là có, khi diệt tức là không, còn chi mà biết là diệt. Như nhân cái diệt mà có, khi sinh tức không có diệt nữa, lấy gì mà biết là sinh. Nếu từ ý căn mà ra, thì hai tướng thức, ngủ theo nhau mà khai, mà hợp trong thân. Rời hai cái thể đó, tính hay biết kia giống như hoa đốm giữa hư không, không có tự tính.
Nếu do hư không mà sinh, thì hư không có tính biết, còn liên lạc gì với cái nhập của ông.
Vậy nên biết rằng: ý nhập hư vọng, vốn chẳng phải tính nhân duyên hay tính tự nhiên.


BÌNH LUẬN
Phật có ý chỉ cho chúng sinh biết: tất cả trần cảnh, tất cả những điều thấy nghe hay biết, cho đến 6 căn của chúng ta đều là hư vọng. Sáu căn đó là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Năm căn đầu tức là ngũ quan mà khoa học nghiên cứu ngày nay. Còn ý căn, tức là bộ thần kinh, ở đó có các sự suy nghĩ, phân biệt, tưởng tượng, so sánh, biện luận từ gần đến xa, từ hẹp đến rộng. Sáu căn duyên với sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sắc là những thứ mắt thấy. Thanh là những tiếng động và tĩnh tai nghe. Hương là những mùi thơm, thối, hắc, v.v... mũi ngửi. Vị là những vị chua, ngọt, mặn v.v... lưỡi nếm. Xúc là cảm giác nóng, lạnh, trơn, ráp v.v... tay và thân cảm thấy, khi tiếp xúc hay sờ mó đồ vật. Pháp là sự vật bên ngoài và ý tưởng bên trong mà óc ta ghi nhận và nhớ rõ.
Sáu căn cộng với sáu trần, gọi là 12 xứ.
Phật có ý chỉ từng căn là hư vọng.
Muốn hiểu rõ ý Phật, ta hãy nắm lấy ví dụ này, nó sẽ giúp ta hiểu lẽ chân vọng, và hiểu cách tu:
Phật đã nhiều lần nêu ví dụ: hoa đốm hư không.
Người mắt bệnh thấy hoa đốm nhảy nhót ở hư không.
Người mắt lành không thấy hoa đốm.
Chúng sinh ví với người mắt bệnh.
Các cảnh giới mà chúng sinh thấy biết, sinh hoạt trong đó, ví như hoa đốm ở hư không.
Người mắt lành ví với Phật.

Người mắt lành giảng cho người mắt bệnh: hoa đốm là hư vọng, vì mắt bệnh thấy lầm.

Thực ra, hư không không hề sinh ra hoa đốm.
Nay Phật cũng giảng cho chúng ta: tất cả cảnh giới mà ta thấy đây, nào thân ta, nào những điều mắt thấy, tai nghe, cho đếm những thứ ta tin là có thực, những tư tưởng mà ta quý báu, cho đến mắt, tai v.v... của ta, thảy đều là hoa đốm hư không.

Đồng thời, Phật lại chỉ cho ta biết: ta có thể thành Phật. Lúc đó, ta sẽ thấy rõ Chân lý, thấy rõ sự thực của sự vật. Người mắt bệnh có thể lành mắt, và sẽ thấy hoa đốm là hư vọng.

No comments:

Post a Comment