c/ - Tỏ bày bảy đại là tính chu biến:
1/ - Ông A Nan thỉnh giáo:
Ông A Nan bạch Phật: "Đức Như Lai thường giảng về nhân duyên hòa hợp, các sự biến hóa ở thế gian đều nhân bốn đại hòa hợp mà phát minh ra. Sao đức Như Lai lại bài bác cả hai nghĩa nhân duyên, tự nhiên? Tôi nay không rõ nghĩa ấy thuộc về đâu, xin Phật nhủ lòng thương khai thị cho chúng sinh pháp liễu nghĩa(1) không hý luận của Trung đạo(2)."(1) Chỉ đến Chân lý, đến cảnh giới Phật.
(2) Đúng Chân lý.
2/ - Phật giảng:
A# - Trách mê lầm:
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo ông A Nan:Trước ông đã chán bỏ các pháp tiểu thừa Thanh Văn, Duyên Giác, phát tâm cầu Bồ Đề vô thượng, vì thế nay tôi vì ông khai thị cái pháp cao nhất, chỉ thẳng Chân lý. Sao ông còn đem những hý luận của thế gian như vọng tưởng nhân duyên mà tự ràng buộc.
Ông tuy nghe nhiều, như người nói món thuốc, thuốc thực ở trước mắt, mà không phân biệt được. Như Lai thấy thật đáng thương.
Nay ông hãy lắng tai nghe, tôi sẽ phân biệt khai thị cho ông, khiến đời sau những người tu đại thừa hiểu rõ thực tướng(1).
(1) Sự thực của sự vật, tức Chân lý.
Ông A Nan lặng nghe thánh chỉ của Phật.
B# - Nói chung:
Ông A Nan, như ông nói: bốn đại hòa hợp phát minh ra các thứ biến hóa ở thế gian. Ông A Nan, nếu các đại này, thể không phải là hòa hợp, thì không thể xen hòa với các đại khác, ví như hư không chẳng thể hòa với các sắc. Nếu thể chúng là hòa hợp, thì cùng biến hóa, trước và sau làm thành ra nhau, sinh diệt nối luôn, sinh tử, tử sinh, sinh sinh tử tử, ví như cái vòng lửa, đốm lửa quay tít thành vòng.Ông A Nan, ví như nước thành băng, băng trở lại thành nước.
C# - Giảng riêng:
i# - Địa đại:
Ông hãy xét tính của địa đại, thô là đại địa, nhỏ là vi trần, cho đến cực nhỏ là lân hư trần, nếu lại chẻ cái lân hư nữa thì là tính hư không.Ông A Nan, nếu cái lân hư ấy chẻ ra thành hư không, thì biết hư không sinh ra sắc tướng. Nay ông hỏi vì hòa hợp sinh ra các tướng biến hóa giữa thế gian. Vậy ông hãy xét một cái lân hư trần phải dùng bao nhiêu hư không hòa hợp lại mới có. Chẳng lẽ lân hư họp thành lân hư. Lại đã cho rằng chẻ được lân hư trần thành không, vậy phải dùng bao nhiêu sắc tướng hợp lại mới thành hư không?
Nhưng nếu khi sắc hợp lại, hợp sắc không phải là không. Nếu lúc hư không hợp lại, hợp không chẳng phải sắc. Sắc còn có thể chẻ ra, chứ làm sao mà hợp không cho được.
Ông vốn không biết trong Như Lai tạng, tính sắc là chân không, tính không là chân sắc, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sinh, tùy trình độ cao thấp mà theo nghiệp phát hiện.
Thế gian không biết, lầm cho là nhân duyên và tính tự nhiên. Đều là thức tâm phân biệt, đo lường, tính toán, chỉ có lời nói, đều không thật nghĩa.
ii# - Hỏa đại:
Ông A Nan, tính của hỏa đại không có tự thể, nương các duyên mà có. Ông xem các nhà chưa ăn ở trong thành, muốn nấu cơm, tay họ cầm gương dương toại, đưa ra trước ánh nắng mặt trời mà lấy lửa.Ông A Nan, gọi là hòa hợp, như tôi và các ông 1250 tỳ kheo, nay hòa hợp làm một chúng. Chúng tuy là một, nhưng xét căn bản, mỗi người có thân, có danh tự họ hàng, như Xá Lợi Phất là Bà La Môn, Ưu Lâu Tần Loa là Ca Diếp Ba, cho đến ông A Nan là Cù Đàm.
Ông A Nan, nếu tính của hỏa đại là nhân hòa hợp mà có, khi tay người đó cầm gương lấy lửa, lửa đó từ gương ra, từ bùi nhùi, hay từ mặt trời?
Ông A Nan, nếu từ mặt trời tới, lửa đó đã đốt được bùi nhùi, đáng lẽ cũng đốt các rừng cây mà nó qua. Nếu từ trong gương mà ra, lửa đó đã từ gương ra đốt cháy bùi nhùi, gương kia sao không cháy, tay cầm gương cũng không thấy nóng. Nếu sinh từ bùi nhùi, cần chi phải có ánh sáng mặt trời và gương tiếp nhau, mới có lửa sinh.
Ông nên xét kỹ: gương do tay cầm, mặt trời từ trên trời chiếu đến, bùi nhùi do đất sinh, vậy lửa từ đâu tới? Mặt trời và gương xa nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ ngọn lửa không do đâu mà tự có.
Ông vốn không biết trong Như Lai Tạng, tính hỏa là chân không, tính không là chân hỏa, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sinh, tùy trình độ cao thấp.
Ông A Nan, ông nên biết người ta cầm gương một nơi, thì một nơi có lửa, khắp pháp giới cầm gương, thì khắp thế gian nổi lửa, nổi khắp thế gian, đâu có nhất định chỗ nào, chỉ theo nghiệp mà phát hiện.
Thế gian không biết, lầm cho là nhân duyên và tính tự nhiên. Đều là thức tâm phân biệt, đo lường, tính toán, chỉ có lời nói, đều không thật nghĩa.
iii# - Thủy đại:
Ông A Nan, tính thủy đại không định, dừng chảy không thường. Như trong thành Thất La, các nhà Đại huyễn sư như bọn Tiên Ca Tỳ La, Tích Ca La, và bọn Bát Đầu Ma Ha Tát La, cầu thái âm tinh để hòa các thuốc huyễn. Họ cầm ngọc phương chư dơ ra ánh sáng trăng tròn, để hứng nước trong ánh mặt trăng.Vậy nước đó từ trong hột châu ra, từ hư không, hay từ mặt trăng?
Ông A Nan, nếu từ mặt trăng, chính nơi xa xôi còn làm cho ngọc chảy ra nước, đáng lẽ những rừng cây trăng đã chiếu qua, cũng phun nước cả. Nếu phun nước, sao phải đợi có ngọc phương chư mới chảy. Nếu không phun nước, không phải từ mặt trăng tới. Nếu từ ngọc ra, lẽ ra ngọc thường chảy nước, sao phải đợi nửa đêm hứng với ánh trăng tỏ.
Nếu từ hư không sinh, tính hư không không có bờ bến, đáng lẽ nước cũng không có giới hạn, khắp cõi người cõi Trời thảy đều chìm ngập, sao còn có thủy, lục, không đi lại nỗi thứ khác nhau.
Ông hãy xét kỹ, mặt trăng trên trời cao, ngọc do tay cầm, mâm hứng nước do người bưng để, vậy nước từ đâu chảy tới? Một trăng và ngọc xa nhau, không phải hòa, không phải hợp, chẳng lẽ nước không do đâu mà có.
Ông còn không biết trong Như Lai tạng, tính thủy là chân không, tính không là chân thủy, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sinh, tùy trình độ cao thấp. Một chỗ cầm ngọc thì một chỗ ra nước, khắp pháp giới cầm ngọc thì khắp pháp giới ra nước. Sinh khắp thế gian, đâu có nhất định chỗ nào, chỉ theo nghiệp mà phát hiện.
Thế gian không biết, lầm cho là nhân duyên và tính tự nhiên. Đều là thức tâm phân biệt, đo lường, tính toán, chỉ có lời nói, đều không thật nghĩa.
iv# - Phong đại:
Ông A Nan, tính của phong đại không có thể, khi động, khi tĩnh bất thường. Ông thường xốc áo vào trong đại chúng, chéo áo phải qua mặt người bên cạnh, gây ra chút gió. Gió đó từ chéo áo cà sa ra, từ hư không, hay từ mặt người.Ông A Nan, nếu gió đó từ chéo áo cà sa ra, thì chính nơi ông phất gió, áo ông lay động, phải bay rời thân ông. Nay tôi thuyết pháp, thả áo rủ xuống trong hội này, ông thử xem trong áo tôi, gió ở chỗ nào? Chẳng lẽ trong áo lại có chỗ đựng gió.
Còn nếu sinh từ hư không, khi áo ông động, sao lại không phát gió? Tính hư không thường trụ, đáng lẽ gió phải thường sinh. Nếu không có gió, hư không phải diệt. Gió diệt có thể thấy, còn hư không diệt, hình trạng thế nào? Đã có sinh diệt, không thể gọi là hư không. Đã gọi là hư không, sao còn có gió ở đó ra?
Nếu sinh từ mặt người kia, đáng lẽ gió phất ông. Sao tự ông xốc áo mà trở lại phất mặt người đó?
Ông thử xét kỹ: xốc áo là do ông, mặt thuộc người kia, hư không phẳng lặng, không có sự lay động, vậy gió từ phương nào tới.
Tính của gió và tính của hư không cách nhau, không phải hòa, không phải hợp. Chẳng lẽ gió kia không từ đâu mà tự có?
Ông không biết trong Như Lai tạng, tính phong là chân không, tính không là chân phong, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sinh, tuỳ trình độ cao thấp.
Ông A Nan, như một ông động áo, chút gió sinh ra. Nếu khắp pháp giới đều phất, khắp pháp giới nổi gió. Khắp thế gian, đâu có nhất định chỗ nào, chỉ theo nghiệp mà phát hiện.
Thế gian không biết, lầm cho là nhân duyên và tính tự nhiên. Đều là thức tâm phân biệt, đo lường, tính toán, chỉ có lời nói, đều không thật nghĩa.
v# - Không đại:
Ông A Nan, tính hư không vô hình, nhân sắc tướng mà rõ bày ra. Như trong thành Thất La Phiệt, chỗ xa cách sông, các người dòng Sát Ly, dòng Bà La Môn, dòng Tỳ Xá Thủ Đa, dòng Phả La Đoạ, dòng Chiên Đà La v.v... khi mới dựng chỗ ở, đào giếng lấy nước, đào đất một thước, nơi đó có một thước hư không. Đào được một trượng, có một trượng hư không. Hư không cạn hay sâu, tùy đào nhiều hay ít.Hư không đó nhân đất sinh, nhân đào có, hay không nhân gì, tự sinh?
Ông A Nan, nếu không đó không nhân gì, tự sinh ra, thì trước khi đào đất, sao chỗ đó không vô ngại, chỉ thấy đất liền, không chút thông suốt.
Nếu nhân đất mà ra, thì khi đất ra, phải thấy hư không vào. Nếu không, không thể nói như trên.
Nếu không ra vào, thì hư không với đất, vốn không có nhân gì khác nhau, không khác tức là đồng, thì khi đất ra, sao hư không không ra?
Nếu nhân đào mà ra, thì lẽ phải đào ra hư không, chứ không đào ra đất. Nếu không nhân đào mà ra, thì đào đất, sao lại thấy hư không?
Ông nên suy xét kỹ, đào là tự tay người, tùy cách vận chuyển, đất nhân dưới đất dời lên, còn hư không nhân đâu mà ra?
Cái đào là thực, cái không là hư, không ứng dụng với nhau, không phải hòa, không phải hợp. Chẳng lẽ hư không không từ đâu mà ra.
Nếu tính của hư không đầy đủ, cùng khắp, vốn không lay động, nên biết hư không với địa, thủy, hỏa, phong hiện tiền đều gọi là ngũ đại, tính chân viên dung, đều là Như Lai tạng, vốn không sinh diệt.
Ông A Nan! Ông mê muội không ngộ tứ đại vốn là Như Lai tạng, ông hãy xét hư không là ra, là vào, hay chẳng phải ra, vào.
Ông không biết trong Như Lai tạng, tính giác là chân không, tính không là chân giác, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sinh, tùy trình độ cao thấp.
Ông A Nan, như một giếng mà không, hư không sinh ở một giếng, cho đến hư không trong mười phương cũng thế, cùng khắp pháp giới, đâu có nhất định chỗ nào, chỉ theo nghiệp mà phát hiện.
Thế gian không biết, lầm cho là nhân duyên và tính tự nhiên. Đều là thức tâm phân biệt, đo lường, tính toán, chỉ có lời nói, đều không thật nghĩa.
vi# - Kiến đại:
Ông A Nan, tính thấy nhân sắc, không mà có. Như nay ông ở rừng Kỳ Đà, sớm thấy sáng tỏ, chiều tối mờ, ban đêm, trăng tỏ ánh sáng rực rỡ, trăng mờ thấy tối, đều do cái thấy phân biệt. Cái thấy đó cùng các tướng sáng, tối và hư không là cùng một thể, hay không cùng, hay cùng và chẳng phải đồng, hay khác và chẳng khác?Ông A Nan, cái thấy đó nếu cùng một thể với sáng, tối và hư không, thì hai thể sáng và tối diệt mất nhau, sáng thì không tối, tối thì không sáng. Nếu cùng một thể với tối, khi sáng cái thấy phải mất. Nếu cùng với sáng, khi tối phải diệt. Đã diệt, sao thấy sáng, thấy tối.
Nếu sáng, tối khác nhau, còn cái thấy không sinh diệt, thì lý đồng một không thành.
Nếu không đồng, ông hãy thử rời các cái sáng, tối, hư không, riêng chỉ cái thấy là hình tướng gì?
Rời sáng, tối và hư không, cái thấy đó như lông rùa, sừng thỏ. Ngoài ba thứ trên, từ đâu thành lập cái thấy? Sáng và tối trái nhau, làm sao cái thấy đồng được? Lìa ba thức, cái thấy vốn là không, làm sao khác được? Chia cái không với cái thấy, vốn không có giới hạn, làm sao gọi là không phải đồng? Thấy sáng, thấy tối, tính không dời đổi, sao gọi là không khác?
Ông hãy xét kỹ, suy đi xét lại, sáng do mặt trời, tối từ đêm không trăng, thông suốt thuộc hư không, ngăn ngại thuộc đất, còn cái thấy do đâu có?
Cái thấy có biết, cái không chẳng biết, không phải hòa, chẳng phải hợp, không lẽ cái thấy không theo đâu tự phát ra.
Nếu cái thấy, nghe, hay, biết, tính viên dung cùng khắp, vốn không lay động, nên biết cái thấy cùng hư không vô biên, bất động và địa, thủy, hỏa, phong, bốn thứ lay động, đều gọi là sáu đại, tính chân viên dung, đều là Như Lai tạng, vốn không sinh diệt.
Ông A Nan, tính ông chìm đắm, không ngộ được cái thấy, nghe, hay, biết của ông vốn là Như Lai tạng. Ông hãy xét cái thấy nghe, hay, biết ấy là sinh, là diệt, là cùng, là khác, không phải sinh diệt, không phải đồng dị. Ông chưa từng biết trong Như Lai tạng, tính kiến là giác minh, giác tinh là minh kiến, bản nhiên thanh tịnh, cùng khắp pháp giới, theo tâm chúng sinh, tùy trình độ cao thấp.
Như ở kiến căn, cái thấy cùng khắp pháp giới, các cái nghe, ngửi, nếm, sờ, biết, diệu đức sáng suốt, cùng khắp pháp giới, đầy khắp hư không mười phương, đâu có nhất định chỗ nào, chỉ theo nghiệp mà phát hiện.
Thế gian không biết, lầm cho là nhân duyên và tính tự nhiên. Đều là thức tâm phân biệt, đo lường, tính toán, chỉ có lời nói, đều không thật nghĩa.
vii# - Thức đại:
Ông A Nan, tính của thức không có nguồn gốc, nhân sáu căn, trần mà giả dối hiện ra.Nay ông xem thánh chúng trong hội này, ông đưa mắt nhìn một lượt, thấy như các hình hiện trong gương soi, chưa phân biệt.
Cái thức của ông mới chỉ lần lượt: đây là ông Văn Thù, đây là ông Phú Lâu Na, đây là ông Mục Kiền Liên, đây là ông Tu Bồ Đề, đây là ông Xá Lợi Phất.
Thức hay biết đó, do thấy sinh, do tướng sinh, do hư không sinh, hay không nhân gì, bỗng nhiên sinh ra?
Nếu do thấy sinh, cái thấy mà không sáng tối, sắc, không, cũng không có. Vậy do đâu phát cái thức?
Nếu do các tướng, chứ không do cái thấy. Đã không thấy sáng, cũng không thấy tối. Vì thế, không có sắc không. Các tướng không có, thức do đâu phát ra? Nếu do hư không, chẳng liên quan gì đến các tướng và cái thấy. Không thấy nên không biết sáng, tối, sắc, không. Không tướng thì duyên bị diệt, cái thấy, nghe, hay, biết không biết dựa chỗ nào.
Cái thức đã không phải thấy, không phải tướng. Nếu nó không, cũng như không có. Nếu là có, lại không phải đồng với các vật. Vậy cái thức phân biệt cái gì?
Còn nếu cái thức không nhân gì, bỗng nhiên phát ra, vì sao ban ngày không thấy trăng sáng.
Ông hãy xét kỹ, cái thấy thuộc về con mắt, tướng thuộc tiền cảnh, cái có thể chỉ hình trạng thành ra có, cái không có tướng thành ra không, còn cái thức duyên nhân đâu có? Thức lay động, cái thấy lặng yên, chẳng phải hòa, chẳng phải hiệp, các cái ngửi, nghe, hay, biết đều như vậy. Không lẽ cái thức duyên không do đâu mà tự ra? Nếu thức tâm đó vốn không từ đâu, nên biết tính phân biệt, thấy nghe hay biết đều vắng lặng, cùng khắp, không do các thứ sở duyên. Gồm với hư không và địa, thủy, hỏa, phong kia, đều gọi là bảy đại, tính chân viên dung, đều là Như Lai tạng, vốn không sinh diệt.
Ông A Nan, tâm ông nông cạn, không biết cái thấy, nghe, hay, biết vốn là Như Lai tạng, Ông hãy xét thức tâm và sáu căn là cùng, là khác, là có, là không, là chẳng phải cùng, khác, là chẳng phải có, không?
Ông vốn không biết trong Như Lai tạng, tính thức là minh tri, giác minh là chân thức. Diệu giác trạm nhiên(1) cùng khắp pháp giới, ẩn hiện khắp mười phương, đâu có nhất định chỗ nào, chỉ theo nghiệp mà phát hiện. Thế gian không biết, lầm cho là nhân duyên và tính tự nhiên. Đều là thức tâm phân biệt, đo lường, tính toán, chỉ có lời nói, đều không thật nghĩa.
1) Lúc nào cũng thế, lặng vậy.
BÌNH LUẬN
c/ - Tỏ bày bảy đại là tính chu biến.
Bảy đại là bốn đại cộng với ba đại.
Bốn đại là: địa, thủy, hỏa, phong.
Địa là đất, đây nói gồm các chất đặc ở vũ trụ.
Thủy là nước, đây nói gồm các chất lỏng ở vũ trụ.
Hỏa là lửa, đây nói gồm về nhiệt độ.
Phong là gió, đây nói gồm về các chất hơi ở vũ trụ.
Bốn đại là nói gồm các vật chất trong vũ trụ.
Còn ba đại tiếp là: không, kiến, thức.
Không là hư không.
Kiến là cái thấy của chúng sinh.
Thức là cái biết hẹp hòi, nông cạn của chúng sinh, cái biết phải dựa vào tai thịt, mắt thịt.
Tóm lại, bảy đại là gồm mọi sự vật trong vũ trụ.
Từ vật hữu hình, từ vật vô hình, từ sự vật bên ngoài chúng sinh, từ sự vật trong tâm hồn chúng sinh.
Phật muốn chứng minh:
Bảy đại là hư vọng, là hoa đốm ở hư không.
Phật muốn chỉ rõ: mắt bệnh thấy hoa đốm.
Mắt lành sẽ không thấy hoa đốm, và biết hoa đốm là hư vọng.
Phật muốn dạy: "Tất cả sự vật mà ta thấy đây, cho đến thân ta, tâm ta, thảy đều là hoa đốm ở hư không.
Khi ta còn trong nghiệp của chúng sinh, ta thấy những sự vật và thân, tâm ta có thực.
Phật thấy rõ là hoa đốm ở hư không."
Phật tùy theo trình độ của ông A Nan, của đại chúng, Phật tùy theo trình độ hiểu biết của thời đó mà giảng dạy, cốt cho mọi người hiểu: "Bảy đại là hư vọng."
Phật lại muốn cho người mắt bệnh khỏi lầm cho hoa đốm là hư không. Phật muốn chỉ rõ sự thực của hư không, khi người mắt lành nhìn thấy.
Thế nghĩa là Phật muốn chỉ: "Cảnh giới chúng sinh là hư vọng, cảnh giới Phật mới là chân lý. Trong cảnh giới Phật, sự vật khác hẳn cảnh giới của chúng sinh, cũng như hoa đốm khác hẳn hư không. Nhưng cảnh giới Phật tức Như Lai tạng bao trùm mọi sự vật trong cảnh giới chúng sinh, cũng như hư không bao trùm hoa đốm."
Ta cứ nương theo đây mà suy nghĩ, sẽ hiểu rõ nguyên lý của sự vật, nguyên tắc tu chứng, mà không bị chìm đắm trong rừng danh từ trừu tượng.
Đến đây là hết phần:
c/ - Tỏ bày bảy đại là tính chu biến.
Cũng là hết phần:
iii/ - Phật chỉ Như Lai tạng.
Cũng là hết phần:
B/ - Chỉ rõ Như Lai tạng.
Cũng là hết phần:
a) - Như Lai phá vọng hiển chân.
Phần a) này thuộc về phần:
i) - Nói "không Như Lai tạng".
Phần này chia làm 2 phần:
a) - Như Lai phá vọng hiển chân.
b) - Ông A Nan giác ngộ, lễ tạ và phát tâm.
Nay ta nghiên cứu sang phần:
b) - Ông A Nan giác ngộ, lễ tạ và phát tâm.
No comments:
Post a Comment