Tuesday, October 18, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 25)

C/ - Phật khai thị:
Bấy giờ ông A Nan ở trong đại chúng đảnh lễ chân Phật, đứng dậy bạch Phật:
Đức Thế Tôn hiện nói: "Sát, đạo, dâm, ba nghiệp duyên đoạn, ba nhân chẳng sinh. Trong tâm cuồng tính tự hết. Cuồng hết tức là Bồ Đề. Chẳng tự người mà được."
Thế là nhân duyên rõ ràng. Thế sao Phật lại nói kíp bỏ nhân duyên? Tôi từ nhân duyên, tâm được khai ngộ.
Bạch Thế Tôn! Cái nghĩa đó, đâu có phải riêng chúng tôi trẻ tuổi thanh văn hữu học, đến trong hội này, các ông Đại Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, Tu Bồ Đề nghe Phật dạy nghĩa nhân duyên, phát tâm khai ngộ, được thành bậc vô lậu.
Nay Phật dạy: "Bồ Đề chẳng từ nhân duyên", thì ngoại đạo như Câu Xá Ly ở thành Vương Xá nói nghĩa tự nhiên, thành "đệ nhất nghĩa" hay sao? Mong đức Đại bi khai phát chỗ mê lầm cho chúng tôi.
Phật dạy:
Ông A Nan, tức như Diễn Nhã Đạt Đa trong thành, nếu diệt trừ được tính điên là nhân duyên, thì tính không điên tự nhiên hiện ra. Lý nhân duyên, tự nhiên chỉ như vậy thôi.
Ông A Nan, như đầu của Diễn Nhã Đạt Đa vốn là tự nhiên, thì khi nào lại không tự nhiên. Vậy vì nhân duyên gì phải sợ hãi bỏ chạy. Lại cái đầu tự nhiên vì nhân duyên mà điên, sao lại không tự nhiên vì nhân duyên mà mất? Cái đầu vốn không mất, chỉ nghĩ điên mà sợ chạy, chứ nào có thay đổi gì mà phải nhờ đến nhân duyên. Lại nếu tự nhiên vốn có tính điên, thì lúc chưa điên, cái điên ẩn ở đâu? Còn nếu tự nhiên vốn có tính không điên, thì cái đầu vẫn không việc gì, tại sao lại phát điên bỏ chạy?
Nhưng nếu nhận được cái đầu sẵn có, biết vì điên mà sợ chạy, thì nhân duyên và tự nhiên đều là hý luận.
Vậy nên tôi nói: Đoạn ba cái duyên, tức là Bồ Đề tâm.
Tâm Bồ Đề sinh, tâm sinh-diệt diệt, đó chỉ là sinh diệt. Khi hai cái diệt, sinh đều hết, mới là vô công dụng đạo. Mà nếu còn cho là tự nhiên, như vậy thì biết cái "tự nhiên tâm" sinh, "sinh diệt tâm" diệt, đó cũng chỉ là sinh, diệt.
Dù gọi cái "không sinh diệt" là tự nhiên, thì cũng như trong thế gian, các tướng hòa hợp thành một thể, gọi là tính hòa hợp.
Còn không phải hòa hợp, gọi là tính bản nhiên. "Bản nhiên" và "phi bản nhiên", "hòa hợp" và "phi hòa hợp", cùng nên phải xa lìa. Mà phải vượt cả cái "xa lìa" ấy nữa. Thế mới gọi là pháp vô hý luận.
Bồ Đề, Niết Bàn hãy còn xa lắm, nếu ông không siêng năng tu chứng nhiều kiếp, dù nhớ diệu lý thanh tịnh trong 12 bộ kinh của mười phương Như Lai như số cát sông Hằng, chỉ thêm hý luận.
Ông tuy nói lý nhân duyên, tự nhiên quyết định, rõ ràng, người đời khen ông là đa văn thứ nhất, do nhiều kiếp đa văn huân tập. Nhưng ông không tránh khỏi nạn Ma Đăng Già, phải đợi Phật đỉnh thần chú làm cho nàng Ma Đăng Già chóng tắt lửa dâm, chứng quả A Na Hàm, thành người tinh tiến trong Pháp tôi, sông ái dục khô cạn, rồi ông mới được giải thoát.
Ông A Nan, vì cớ đó, ông tuy nhiều kiếp ghi nhớ các pháp bí mật diệu nghiêm của Như Lai, không bằng một ngày tu nghiệp vô lậu, xa lìa hai cái khổ yêu, ghét.
Như Ma Đăng Già trước là dâm nữ, nhờ sức thần chú, tiêu hết ái dục. Nay trong Phật pháp, tên là Tính Tỳ Kheo Ni với mẹ La Hầu La là Gia Du Đà La, cùng ngộ cái nhân trước, biết cái nhân nhiều đời tham ái là khổ, nên một niệm huân tu thiện vô lậu. Nay người thì thoát khỏi ràng buộc, người được thọ ký về sau thành Phật.
Sao ông lại tự dối mình, còn mắc trong vòng thấy nghe?
b) - Đại chúng lĩnh ngộ, cảm tạ:
Ông A Nan và đại chúng nghe Phật dạy, bao nghi hoặc được tiêu trừ, tâm ngộ được thực tướng, thân và ý nhẹ nhàng, an lành, được pháp chưa từng có, rồi lại thương khóc, đảnh lễ chân Phật, quỳ dài, chắp tay bạch Phật:
Đức Thanh tịnh Bảo Vương có lòng đại bi vô thượng, khéo mở tâm tôi, và khéo dùng các nhân duyên, phương tiện dìu dắt các kẻ chìm đắm ra khỏi bể khổ.


BÌNH LUẬN
Ông A Nan hỏi Phật: Chúng sinh nhờ nghe Phật nói Pháp, mới tu theo, sau thành Phật. Đó là nhân duyên rõ ràng, sao Phật bảo kíp bỏ nhân duyên?

Thực ra, đứng về mặt chúng sinh: "ta thấy có nhân duyên". Nhưng khi thành Phật, ta không thấy có. Đứng về mặt chân: "không thấy có sinh, diệt".
Ví dụ như người mắt lành, không hề thấy có hoa đốm ở hư không, không băn khoăn tự hỏi: "Hoa đốm là cái gì? Ở đâu sinh ra? Đi về đâu?"
Nay Phật đứng về mặt chân, chỉ cho ông A Nan biết "nhân duyên, tự nhiên" chỉ là hý luận. Phải xa lìa..., xa lìa cả cái xa lìa..., xa lìa mãi mới thấy được chân lý.
Phật nhắc ông A Nan cần phải tu chứng, mới thấy rõ chân lý. Còn học giỏi, nghe nhiều, vẫn trong vòng vọng tưởng.
Phật lại đưa ra một bí quyết tu rất hay, rất chóng chứng quả:
Đó là "xa lìa hai cái khổ yêu, ghét".
Chính vì "yêu, ghét", chúng sinh làm khổ lẫn nhau, buộc ràng nhau mãi trong vòng luân hồi sinh tử, trong bể khổ.
Vậy ta phải tu giải thoát, biết rõ tham ái là cái nhân từ nhiều kiếp làm cho mình khổ
Đến đây, là hết phần lớn:
ii) - Nói hai Như Lai tạng sau.
Và cũng là hết phần lớn hơn:
A) - Dạy tu phép Sa Ma Tha.
Trong bộ Kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy tu ba phép:
A) - Dạy tu phép Sa Ma Tha.
B) - Dạy tu phép Tam Ma.
C) - Dạy tu phép Thuyền Na.
Nay đã nghiên cứu xong phần A).
Bây giờ, ta nghiên cứu sang phần lớn:
B) - Dạy tu phép Tam Ma.

No comments:

Post a Comment