Saturday, October 8, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 14)

ii# - Giảng thêm chỗ chưa hiểu:
"Ông A Nan, ông tuy đã ngộ cái tính bản giác diệu minh không phải "nhân duyên", và "tự nhiên", nhưng còn chưa rõ giác nguyên không phải "hòa hợp" và "không hòa hợp".
Ông A Nan, nay tôi lại lấy tiền trần hỏi ông.
Nay ông còn dựa theo các tính nhân duyên hòa hợp của tất cả các vọng tưởng thế gian mà tự nghi hoặc, cho rằng chứng tâm Bồ Đề là do hòa hợp mà có.
Nay cái diệu tịnh kiến tinh của ông là hòa cùng cái sáng, hòa cùng cái tối, hòa với thông, hay hòa với tắc?
Nếu hòa với sáng, nay ông thấy sáng, vậy nơi cái sáng đây, cái thấy xen lộn ở chỗ nào? Cái thấy và cái bị thấy có thể nói được, còn cái hình trạng xen lộn kia là gì?
Nếu bảo là không phải cái thấy, làm sao lại thấy sáng?
Nếu bảo đó là cái thấy, làm sao lại thấy cái thấy?
Nếu cái thấy viên mãn, thì còn chỗ nào hòa được với cái sáng.
Nếu cái sáng viên mãn, không lẽ cái thấy hòa vào được.
Cái thấy quyết khác với cái sáng, hòa thì mất tính sáng, và danh tự sáng, tức là hòa với sáng không phải nghĩa.
Với "tối", "thông", "tắc" cũng như vậy.
Ông A Nan, thử xét cái diệu tịnh kiến tinh của ông có hợp cùng cái sáng, tối, thông, tắc.
Nếu hợp cùng cái sáng, thì đến khi tối cái sáng đã mất rồi, cái kiến tinh đó chẳng hợp cùng cái tối. Thế sao lại thấy tối?
Nếu trong lúc thấy tối, mà không hợp với cái tối, thì khi hợp với cái sáng, lẽ ra không thể thấy được cái sáng. Đã không thấy sáng, làm sao lại gọi là hợp với cái sáng, và biết cái sáng không phải cái tối?
Cũng như vậy với tối, thông, tắc."
Ông A Nan bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Tôi suy nghĩ, cho rằng cái diệu giác nguyên(1) ấy với các duyên trần(2) và các lòng nhớ nghĩ là phi hòa hợp chăng?"
(1) Cảnh giới Phật bản lai là chân lý, nhiệm màu, không nghĩ ngợi được, nên gọi là diệu.
Phật dạy: "Nay ông lại nói tính giác không phải hòa hợp, tôi lại hỏi ông: cái diệu kiến tinh ấy nếu không hòa hợp, thì nó không hòa với sáng, tối, thông hay tắc?
Nếu không hòa với sáng, thì cái thấy với cái sáng có giới hạn. Vậy ông thử xét chỗ nào là sáng, chỗ nào là thấy, chỗ nào là giới hạn hai cái.
Ông A Nan, như ở cái sáng, chắc không có cái thấy, và hai cái chẳng tiếp xúc nhau, thì tự ông chẳng biết chỗ ở của cái sáng, sao lập được giới hạn.
Cũng như vậy với tối, thông, tắc.
Lại cái diệu kiến tinh, nếu không hòa hợp, đó là không hợp với sáng, với tối, với thông, với tắc?
Nếu không hợp với sáng, thì cái thấy trái với sáng, như tai với sáng không tiếp xúc nhau. Cái thấy không biết cái sáng ở chỗ nào, làm sao biết lẽ không hợp và hợp.
Cũng như vậy với tối, thông, tắc.

BÌNH LUẬN
Đứng về mặt "vọng" mà nói: "Sự vật đều do nhân duyên sinh. Sự vật đều do các duyên hòa hợp mà có. Ví dụ: cây lúa là nhờ hạt lúa được gieo vào ruộng mạ. Đủ điều kiện nhiệt độ, nước, lúa lớn dần. Cây lúa sinh hạt lúa. Hạt lúa có được, là gặp bao điều kiện tốt họp lại, mới thành.
Cái bàn nhờ có gỗ, thợ, các đồ dùng mới làm nên.
Đó là xét một cách nông cạn.
Sự vật nào cũng do bao duyên kết hợp mới thành. Các duyên hòa hợp sinh ra một vật. Các duyên ly tán làm vật đó mất."

 Đứng về mặt "chân" mà nói: "Ở cảnh giới Phật, thấy sự vật đều như huyễn, tức như hoa đốm ở hư không. Không thể nói nhân duyên, hòa hợp hay không hòa hợp."
Có tu chứng đến cảnh giới đó, sẽ thấy như thế. Còn như lời nói, trí tưởng tượng của chúng ta, đều thuộc cái biết sai lầm của chúng sinh. Cái biết đó hẹp hòi, nông cạn, không thể lấy lý luận để hiểu Chân lý.
Ở đây, Phật lý luận để phá các chấp của ông A Nan, để ông suy nghĩ, hiểu được đôi phần nguyên tắc của chân lý.

No comments:

Post a Comment