2/ - Phân tích vọng, chỉ chân:
2 phần:A# - Thỉnh pháp.
B# - Phân biệt khai thị.
A# - Thỉnh pháp:
i# - Ông A Nan thỉnh:
Ông A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Phật dạy chúng tôi về nhân duyên, tự nhiên, các tướng hòa hợp và không hòa hợp, tôi còn chưa hiểu. Nay lại nghe giảng "kiến kiến phi kiến", chúng tôi lại càng không hiểu, cúi xin Phật mở lòng từ ban cho chúng tôi cái mắt nhìn sáng suốt, chỉ cho cái tính sáng suốt, trong sạch của giác tâm(1).(1) Chân lý.
ii# - Phật hứa nói:
Phật thương ông A Nan và đại chúng, sắp giảng giải phép tổng trì(2), đường diệu(3) tu hành vào chính định. Phật bảo ông A Nan: "Ông tuy nhớ lâu, nhưng chỉ lợi về mặt nghe nhiều. Ông chưa rõ lối quán chiếu vi mật của phép tu định Sa Ma Tha(4). Ông nên lắng tai nghe, tôi sẽ giảng rõ cho ông, và để những người mê lầm đời sau được chứng quả Bồ Đề."(2) Tổng: chung tất cả cái pháp. Trì: giữ vô lượng nghĩa.
(3) Diệu: mau chóng.
(4) Sa Ma Tha là chỉ Tâm trống rỗng, không khởi vọng niệm. Tuy vậy, vẫn chiếu, vẫn quán, nên gọi là thâm diệu.Cái định lặng lẽ, không động, mà vẫn sáng suốt chiếu ra, không gì không suốt.
B# - Phật giảng dạy:
2 phần:i# - Giảng chỗ lầm.
ii# - Giảng thêm chỗ chưa hiểu.
i# - Giảng chỗ lầm:
3 phần:a# - Nêu hai thứ vọng kiến.
b# - Chỉ rõ từng thứ vọng kiến.
c# - Giải thích.
a# - Nêu hai thứ vọng kiến:
Ông A Nan, tất cả chúng sinh bị trôi lăn trong vòng luân hồi sinh tử ở thế gian, là bởi hai thứ vọng kiến.Hai thứ nhìn sai lầm đó làm chúng sinh thấy có cảnh giới, và bị lôi cuốn trong vòng nghiệp(1).
Hai thứ vọng kiến đó là:
1) Vọng kiến biệt nghiệp của chúng sinh.
2) Vọng kiến đồng phận của chúng sinh.
(1) Với mắt nhìn của chúng sinh, thấy có thân, có cảnh. Tất cả mọi sự biến chuyển của cuộc đời, mình bị lôi cuốn theo.
b# - Chỉ rõ từng thứ vọng kiến:
2 phần:1# - Vọng kiến biệt nghiệp.
2# - Vọng kiến đồng phận.
1# - Vọng kiến biệt nghiệp:
A% - Chỉ vọng kiến biệt nghiệp:
Vọng kiến biệt nghiệp là gì? - Ông A Nan, như người bị đau mắt, ban đêm nhìn vào ngọn đèn, thấy có năm màu sắc tròn chung quanh ngọn lửa sáng."
B% - Giảng cái thấy đó không có thực:
Ý ông nghĩ thế nào? Cái ảnh tròn năm màu sắc đó là màu sắc của đèn hay là màu sắc của cái thấy?Ông A Nan, nếu là màu sắc của đèn, sao chỉ mình người đau mắt thấy, còn người mắt lành không thấy. Nếu là màu sắc của tính thấy, thì tính thấy đã thành màu sắc, còn cái thấy của người mắt đau, gọi là gì?
Lại nữa ông A Nan, nếu cái ảnh tròn kia, rời đèn mà riêng có, thì khi nhìn bình phong, trướng, ghế, bàn, cũng có ảnh tròn hiện ra.
Nếu rời tính thấy mà riêng có, thì mắt có thể không thấy. Nay mắt thấy thì biết không rời được.
C% - Chỉ rõ cái lầm:
Vậy nên biết rằng: màu sắc thực ở nơi đèn. Cái thấy bệnh nhìn lầm ra ảnh năm sắc. Cái ảnh và cái thấy đều là bệnh. Nhưng cái thấy biết là bệnh đó, không phải là bệnh. Đừng nên nói là đèn, là thấy, và chẳng phải đèn, chẳng phải thấy.Ví dụ: mặt trăng thứ hai, vì dụi mắt mà thấy, vậy không phải là mặt trăng, hay là bóng của trăng. Cái ảnh năm sắc cũng vậy, vì mắt bệnh mà thành, không nên nói là tại đèn, tại thấy.
2# - Vọng kiến đồng phận:
"Ông A Nan, trong cõi Diêm Phù Đề(1), trừ phần nước nơi các biển lớn, phần đất bằng ở giữa có đến ba ngàn châu. Châu(2) lớn chính giữa bao trùm cả Đông, Tây.(1) Một thế giới mà Phật nêu ra làm ví dụ.
(2) Châu: một khoảng đất rộng lớn, chung quanh là bể.
Có độ hai nghìn ba trăm nước lớn. Các châu nhỏ giữa biển, hoặc vài trăm nước, hoặc một, hoặc hai nước, cho đến ba mươi, bốn mươi, năm mươi nước.
Ông A Nan, trong đám đó, có một châu nhỏ, chỉ có hai nước. Người trong một nước cùng cảm với ác duyên(1) chúng sinh trong nước ấy thấy những cảnh giới không lành, hoặc thấy hai mặt trời, hoặc thấy hai mặt trăng. Họ lại thấy những ác tướng như: các quầng chung quanh mặt trời, mặt trăng; nguyệt thực, nhật thực, những vết đen trên mặt trời, mặt trăng, sao chổi, sao phướng, sao băng, nhiều sao băng thành chùm, các thứ mống v.v...
(1) Bị nghiệp ác duyên với.
Chỉ nước ấy thấy.
Còn chúng sinh ở nước bên kia không hề thấy hay nghe những thứ trên.
c# - Giải thích:
Ông A Nan, nay tôi vì ông lấy hai thứ vọng kiến trên giải thích cho rõ.Như người đau mắt thấy cái ảnh tròn năm sắc ở đèn sáng. Đó là do lỗi bệnh mắt, chứ không phải lỗi ở tính thấy, mà không phải sắc đèn tạo ra.
Lấy đó mà so sánh, nay ông và chúng sinh thấy núi sông, cảnh vật, đều là từ vô thủy, cái thấy bệnh thấy như thế. Cái vọng kiến và cảnh vật đều là hư vọng, tùy duyên hiện tiền. Còn cái giác minh biết vọng cảnh, vọng kiến là bệnh, thì không phải bị bệnh, mê lầm, mà vẫn sáng suốt.
Chân kiến thấy rõ vọng kiến là bệnh, thì nó không bị bệnh, mà vẫn sáng suốt.
Vậy câu lúc trước ông bảo "kiến văn giác tri(1)", chỉ là vọng kiến mà thôi.
(1) Thấy, nghe, hay, biết.
Vậy nay ông thấy tôi, ông và chúng sinh đều là cái thấy bệnh.
Còn cái "kiến chân tinh tính" không phải bệnh, nên không gọi là thấy.
Ông A Nan, có thể thấy cái vọng kiến đồng phận của chúng sinh đã nói trên, so sánh với cái vọng kiến biệt nghiệp của một người. Cái ảnh tròn của một người thấy do đau mắt, và những cảnh lạ do chúng sinh một nước thấy, đều là do vô thủy cái hư vọng kiến sinh ra.
Khắp cả mười phương thế giới chúng sinh đều thuộc phạm vi "vọng". Các duyên hòa hợp sinh ra, các duyên hòa hợp mất. Nếu đứng về cảnh giới Phật, đều thấy đó là hư vọng.
Nếu có thể xa lìa các "hòa hợp duyên" và "không hòa hợp duyên", thì đã diệt trừ các nhân sinh tử, chứng được Chân lý, tức cảnh giới Phật.
BÌNH LUẬN
2/ - Phân tích vọng, chỉ chân.
Đây là phần thứ hai của phần:
a/ - Nương theo tính thấy chỉ chân lý.
Phần này lại chia làm hai phần:
1/ - Nương vọng hiển chân.
2/ - Phân tích vọng, chỉ chân.
Ta đã nghiên cứu xong phần:
1/ - Nương vọng hiển chân.
Nay ta nghiên cứu sang phần:
2/ - Phân tích vọng, chỉ chân.
Đến đây, Phật chỉ dạy rõ ràng về hai mặt chân, vọng.
Phật lấy một ví dụ rất hay để ta có thể nương theo đó hiểu Chân lý:
Có người đau mắt, ban đêm nhìn vào ngọn đèn sáng, thấy chung quanh ngọn đèn có vòng tròn năm màu sắc.
Nguyên nhân vì mắt đau mới thấy vòng năm màu.
Người mắt lành không thấy vòng năm màu.
- Phật ví như người mắt lành.
- Chúng sinh ví như người mắt đau.
- Cảnh vật mà chúng sinh thấy, nào thân, nào núi, nào nhà, nào cuộc đời náo nhiệt, nào bao thú vui, yêu, ghét, tốt, xấu, buồn, đau v.v... thảy đều ví như vòng năm sắc.
- Khi người đau mắt, thì thấy vòng năm màu.
- Khi chúng sinh còn là chúng sinh, cảnh giới mà chúng sinh thấy, đều là có thực đối với chúng sinh đó.
- Người lành mắt thấy rõ đèn sáng, không thấy có vòng năm màu quanh ngọn đèn.
- Khi chúng sinh tu chứng đến cảnh giới Phật, có trí tuệ Phật, họ sẽ không thấy cảnh vật như ta hiện thấy. Họ sẽ biết cảnh giới ta là hư vọng, trí biết ta ví như mắt đau. Cảnh vật mà ta đang sống với, khi còn là chúng sinh, ví như vòng tròn năm màu...
Ví dụ trên đây giúp ta hiểu rõ chân, vọng; Phật và chúng sinh và giúp ta tu rất nhiều.
Đấy là nói về vọng kiến biệt nghiệp, tức là đơn cử cái lầm của một người, của một người đau mắt.
Ta có thể nêu cái lầm chung của nhiều người.
Ví dụ như người ở Bắc cực thấy một nửa năm là ban ngày, một nửa năm là ban đêm. Người miền ôn đới thấy có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Người miền nhiệt đới thấy nóng quanh năm. Mỗi miền có cây cối, loài vật khác nhau. Người ta cũng có phong tục khác, quan niệm về cuộc sống khác nhau.
Hàng trăm triệu người Mỹ khác người Nga, người Tàu, người Ấn.
Những người cùng một nước có những thói quen, mắt nhìn giống nhau, mà khác người nước khác.
Đó là vọng kiến đồng phận.
Đứng về mặt "vọng", chúng sinh đều có những điểm chung giống nhau, và những điểm riêng của từng loài, từng dân tộc, từng nước, từng gia đình, từng giai cấp, từng nhóm, từng cá nhân.
Đó là đồng nghiệp và biệt nghiệp.
No comments:
Post a Comment