b/ - Nhân câu hỏi, nói rõ:
1/ - Ông A Nan hỏi Phật:
Ông A Nan bạch Phật:Bạch Thế Tôn! Thế nào là ngược dòng, vào sâu một cửa (thâm nhập một môn), có thể làm cho sáu căn thanh tịnh?
2/ - Phật giải thích:
A# - Tỏ cái mê hoặc còn sâu:
Phật bảo ông A Nan:Nay ông đã chứng được quả Tu Đà Hoàn, đã dứt được các mê lầm trong lúc kiến đạo, các mê lầm của chúng sinh thế gian trong ba cõi. Nhưng ông còn chưa biết các tập khí hư vọng chứa nhóm, phát khởi từ vô thủy trong các căn. Các tập khí đó phải nhờ tu đạo mới đoạn được. Huống chi trong đó các tướng sinh, trụ, dị, diệt, phân tế, đầu số.
B# - Chỉ một và sáu do hư vọng:
Nay ông thử xét hiện tiền sáu căn, là một hay là sáu?Ông A Nan, nếu nói là một, thì tai sao chẳng trông, mắt sao chẳng nghe, đầu sao chẳng đi, chân sao không nói.
Còn nếu sáu căn đó quyết định là sáu, vậy như trong hội này, khi tôi giảng các pháp môn vi diệu cho ông, thì trong sáu căn của ông, cái nào lĩnh thụ?
Ông A Nan đáp: "Tôi dùng tai nghe."
Phật dạy:
Tai ông tự nghe, có quan hệ gì đến thân và miệng ông, mà miệng hỏi nghĩa, thân đứng cung kính?
Vậy nên biết: "Chẳng phải là một, mà sau thành ra sáu. Chẳng phải là sáu, mà sau thành ra một. Rút cuộc, các căn của ông chẳng phải vốn là một, hay vốn là sáu."
Ông A Nan, ông nên biết: "Căn đó không phải một, không phải sáu. Chỉ vì đắm chấp điên đảo từ vô thủy, nên nơi tính viên trạm, có những nghĩa một, nghĩa sáu sinh ra."
Nay ông đã chứng quả Tu Đà Hoàn, tuy đã tiêu được cái sáu rồi, mà còn chưa dứt cái một.
Ví như thái hư không đựng trong các đồ vật, vì các đồ vật hình thù khác nhau, nên gọi là hư không khác nhau. Bỏ các đồ vật, xem hư không, nói hư không là một.
Thái hư không kia làm sao vì ông mà thành đồng, chẳng đồng, huống chi lại nói là một hay chẳng phải một.
Sáu căn hay biết, hiện ông đương thọ dụng, cũng y như vậy
C# - Chỉ rõ căn kết bởi trần:
Bởi hai thứ sáng tối phát hiện ra nhau, trong tính diệu viên, làm dính tính trạm(1), phát ra cái thấy. Tính thấy đối chiếu với sắc, kết sắc thành căn. Gốc của căn là thanh tịnh(2) tứ đại. Nhân gọi dáng của nhãn căn như quả bồ đào. Bốn trần của phù căn(3) dong ruổi chạy theo sắc.(1) Yên lặng cùng khắp.
(2) Đứng lặng.
(3) Căn thịt.
Bởi hai thứ động và tĩnh kích thích nhau, trong tính diệu viên, làm dính tính trạm, phát ra cái nghe. Tính nghe đối chiếu với tiếng, cuốn cái tiếng thành căn. Gốc của căn là thanh tịnh tứ đại. Nhân gọi dáng của nhĩ căn như lá mới cuốn. Bốn trần của phù căn dong ruổi chạy theo tiếng.
Bởi hai thứ thông và tắc phát khởi ra nhau, trong tính diệu viên, làm dính tính trạm phát ra cái ngửi. Tính ngửi đối chiếu với hương, lĩnh nạp cái hương thành căn. Gốc của căn là thanh tịnh tứ đại. Nhân gọi dáng của tỵ căn như hai ngón tay chỉ xuống. Bốn trần của phù căn dong ruổi chạy theo hương.
Bởi hai thứ không vị và có vị tham hợp cùng nhau, trong tính diệu viên, làm dính tính trạm, phát ra cái nếm. Tính nếm đối chiếu với vị, thu hút cái vị thành căn. Gốc của căn là thanh tịnh tứ đại. Nhân gọi dáng của thiệt căn như mặt trăng mới khuyết. Bốn trần của phù căn dong ruổi chạy theo vị.
Bởi hai thứ hợp và ly can thiệp cùng nhau, trong tính diệu viên, làm dính tính trạm, phát ra cái biết xúc. Tính biết ấy đối chiếu với xúc, nắm cái xúc thành ra căn. Gốc của căn là thanh tịnh tứ đại. Nhân gọi dáng của thân căn như dáng trống lưng. Bốn trần của phù căn dong ruổi chạy theo xúc.
Bởi hai thứ sinh và diệt tiếp tục cùng nhau, trong tính diệu viên, làm dính tính trạm, phát ra cái biết. Tính biết đối chiếu với pháp, gom lấy pháp thành căn. Gốc của căn là thanh tịnh tứ đại. Nhân gọi là ý-tư như trong phòng tối thấy vật. Bốn trần của phù căn dong ruổi chạy theo pháp.
Ông A Nan, như vậy sáu căn, do tính giác minh(1) phát minh ra minh giác(2), làm mất tính tinh liễu(3), dính tính trạm mà phát ra cái biết.
(1) Tính minh của bản giác.
(2) Lấy cái minh làm giác.
(3) Tinh liễu: tính giác minh. Tính: không lẫn lộn.
D# - Chỉ rõ trần tiêu thì tướng hết:
i# - Chỉ mở thắt để đáp câu hỏi:
Vậy nay ông xa lìa tối, sáng thì không có tính thấy; xa lìa động, tĩnh, không có tính nghe; không có thông, tắc, tính ngửi không sinh; không có nhạt và vị, tính nếm không phát ra; không có ly, hợp, tính biết xúc vốn không; không diệt, không sinh, tính hay biết đâu có.Ông hãy không theo 12 tướng hữu vi: động, tĩnh, hợp, ly, nhạt, vị, thông, tắc, sinh, diệt, sáng, tối. Rút một căn ra cho khỏi dính, trở vào trong. Trở về tính bản chân, phát ra tính sáng suốt bản lai. Tính sáng suốt đã phát minh thì năm chỗ dính khác đều được viên thoát.
ii# - Chứng nghiệm:
a# - Thoát ràng buộc, thành diệu dụng:
Không do tiền trần khởi ra hay biết. Cái sáng suốt không theo với căn. Chỉ tạm dựa vào căn mà sáng suốt phát hiện. Do đó sáu căn dùng thế cho nhau được(1).(1) Mắt có thể nghe. Mũi có thể trông.
Ông A Nan, ông chẳng lẽ không biết hiện trong hội này, ông A Na Luật Đà không mắt mà thấy, rồng Bạt Nan Đà không tai mà nghe, cô Căng Già không mũi mà biết hương, ông Kiều Phân Bạt Đề không lưỡi mà biết vị. Thần Thuần Nhã Đa không thân mà biết xúc, vì ở trong hào quang của Như Lai nên đối chiếu tâm hiện ra thân, thức ra chỉ là chất gió, đâu có thân thể.
Các hàng Thanh Văn như Ma Ha Ca Diếp, trong hội này, đã chứng được tịch diệt, đã diệt ý căn lâu rồi, cái hay biết sáng suốt không phải do tâm niệm.
b# - Siêu việt thành thuần giác:
Ông A Nan, nếu như hiện nay các căn của ông được rút ra khỏi dính một cách hoàn toàn, thì cái trong suốt bề trong phát ra ánh sáng, làm cho các phù trần và các tướng biến hóa trong thế giới vật chất đều tiêu tan, như nước sôi làm tan nước đá. Tức thì hóa thành vô thượng tri giác.Ông A Nan, như người trong đời dồn cái trông thấy ở mắt. Nếu người đó nhắm mắt, tướng tối hiện ra trước, sáu căn mù mịt, đầu chân như nhau. Người đó lấy tay sờ quanh, tuy không trông thấy, nhưng nhận ra được đầu và chân, vậy cái biết vẫn thế. Ông nhìn thấy nhờ sáng, nên khi tối không trông thấy. Còn nếu không nhờ sáng mà tự phát ra, các cái tối không làm mờ được. Căn và trần đã tiêu rồi, làm sao tính giác minh không thành viên diệu?
BÌNH LUẬN
Trước kia, Phật đã giảng nguyên tắc tu theo căn, ngược dòng sinh tử.
Ông A Nan chưa hiểu, hỏi Phật:
"Thế nào là ngược dòng? Thế nào là vào sâu một cửa, có thể làm cho cả sáu căn thanh tịnh?"
Phật lấy một ví dụ rất hay để ông A Nan có một hình ảnh rõ rệt:
Kìa hư không. Ta lấy nhiều đồ vật rỗng, hình thù khác nhau, thứ vuông, thứ tròn, thứ bầu dục, thứ dài v.v... Ta thấy hư không trong mỗi đồ vật, khác nhau. Nếu ta bỏ các đồ vật, ta bảo hư không là một.
Thực ra, hư không là hư không. Vì ta lầm chấp, mới phân biệt là đồng, là khác, là một, là chẳng phải một.
Sáu căn của chúng sinh cũng ví như những đồ vật trên kia.
Ta nên biết thêm một điều nữa:
Cái thấy, nghe, hay, biết của ta dựa vào sáu căn. Sáu căn liên lạc với sáu trần.
Nếu ta muốn tu chứng, hãy xa lìa các trần. Cứ tu một căn, không cho căn đó liên lạc với trần. Đi sâu vào trong. Trở về gốc chân lý. Cái sáng suốt sẽ phát hiện. Năm căn khác cũng được viên thoát.
Vì thế, sáu căn dùng thay nhau được. Như ông A Na Luật Đa không mắt mà nhìn được. Rồng Bạt Nan Đà không tai mà nghe v.v...
Khi tu chứng, cái biết sáng suốt không nhờ sáu trần mà biết, cái biết đó bao trùm pháp giới.
No comments:
Post a Comment