ii/ - Phật chỉ rõ: vọng thức không phải tâm.
2 phần:a/ - A Nan trách mình, xin Phật chỉ giáo
b/ - Phật chỉ: vọng thức không phải tâm
a/ - Ông A Nan trách mình, xin Phật chỉ giáo
Khi ấy, ông A Nan ở trong đại chúng(1), liền từ chỗ ngồi đứng dậy, mở vai áo bên phải, đầu gối bên phải quỳ xuống đất(2), chắp tay cung kính, bạch Phật:(1) Đại chúng: các người nghe pháp.
(2) Lối cung kính theo phong tục Ấn Độ, thời đó.
- "Tôi là em rất nhỏ của Như Lai, nhờ Phật thương yêu, tuy rằng xuất gia, còn ỷ lại ở lòng thương của Phật, nên chưa chứng được quả vô lậu(3), tuy được học rộng nghe nhiều, tôi không dẹp được chú Ta Tỳ Ca La(4), bị chú ấy bắt phải vào trong nhà dâm nữ. Đó cũng vì tôi không biết tu tập theo chân lý. Nay tôi cầu xin Thế Tôn nhủ lòng từ bi, chỉ rõ cho chúng tôi đường tu Sa Ma Tha(5), để dẹp các giống bất tín(6) và phá những ác kiến(7)".
(3) Vô lậu: không còn mê lầm, tức chứng quả A La Hán trở lên.
(4) Ta Tỳ Ca La: là một người ngoại đạo.
(5) Sa Ma Tha: tu vào chính định.
(6) Bất tín: không có lòng tin.
(7) Ác kiến: Những cái thấy sai lầm làm cho không tiến được, không thấy được chân lý.
Ông bạch rồi, năm vóc gieo xuống đất(8), cùng với đại chúng hết lòng trông mong nghe lời Phật dạy.
(8) Cách tỏ lòng cung kính ở Ấn Độ.
b/ - Phật chỉ: Vọng thức không phải (là) tâm
3 phần:1/ - Phật phóng hào quang.
2/ - Phật nêu nguyên tắc: hai căn bản chân, vọng.
3/ - Phật nói rõ: vọng thức không phải là tâm.
1/ - Phật phóng hào quang:
Bấy giờ ở mặt Phật phóng ra nhiều hào quang sáng chói như trăm nghìn mặt trời, soi khắp các thế giới chư Phật, sáu thứ(1) đều rung động. Các cõi Phật ở mười phương, nhiều như bụi nhỏ ở hư không, đều đồng thời hiện ra. Oai thần của Phật khiến các thế giới họp thành một thế giới. Hết thảy các vị Đại Bồ Tát trong thế giới ấy đều ở nước mình, chắp tay nghe lời Phật.(1) Sáu thứ: Nói về sự chuyển động, đứng về 6 phương hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới.
2/ - Phật nêu nguyên tắc: hai căn bản chân, vọng.
Phật bảo A Nan: "Hết thảy chúng sinh từ vô thủy đến nay, điên đảo nhiều cách, giống nghiệp dính nhau như quả ác xoa(2)"(2) Quả ác xoa: một thứ quả ở Ấn Độ, hay chụm lại nhau.
Các người tu hành không chứng được quả Bồ Đề cao nhất(3), chỉ thành Thanh Văn, Duyên Giác, hoặc thành ngoại đạo, thành chư Thiên, Ma Vương, thành quyến thuộc của Ma. Đó là tại họ không biết hai căn bản, tu tập lầm lộn, ví như nấu cát muốn thành cơm, dù trải vô số kiếp, không sao thành được.
(3) Bồ Đề cao nhất: vô thượng là quả Phật, không còn cảnh giới nào cao hơn.
Hai căn bản nào?
- Ông A Nan: Thứ nhất là căn bản sinh tử, vô thủy(4). Như ông ngày nay cùng hết thảy chúng sinh dùng cái tâm phan duyên(5) làm tự tính.
(4) Vô thủy: không có nguyên nhân đầu tiên.
(5) Phan: dựa vào, vịn vào, nương vào.
Tâm phan duyên: Trí biết nông cạn, nương theo mắt thấy, tai nghe, nương theo hoàn cảnh mà vui buồn sướng khổ.
- Thứ hai là Bồ Đề, Niết Bàn(6) vô thủy, thể vốn trong sạch. Như hiện nay cái thức tinh(7) sáng suốt của ông, nó sinh ra các duyên, mà cái tâm phan duyên của ông bỏ sót không duyên đến. Vì chúng sinh bỏ sót tính bản minh đó, nên tuy hàng ngày hành động trọng tính bản minh, mà không tự biết, nên bị xa vào vòng chúng sinh.
(6) Bồ Đề, Niết Bàn: Cảnh giới của Phật đã tu chứng đến
(7) Thức tinh: phần chân lý, trong sạch của thức.
3/ - Phật nói rõ: Vọng thức không phải tâm
A Nan! Nay ông muốn biết đường Sa Ma Tha để ra khỏi vòng sinh tử, tôi lại hỏi ông.Khi đó, đức Như Lai(1) giơ cánh tay chói sáng lên, co năm ngón tay lại, hỏi ông A Nan:
(1) Như Lai: một tên hiệu của Phật.
- "Ông có thấy không?"
Ông A Nan đáp: "Bạch, có thấy".
Phật hỏi: "Ông thấy cái gì?"
Ông A Nan đáp: "Tôi thấy Phật giơ cánh tay, co ngón tay làm thành một nắm tay sáng ngời, chói mắt và tâm tôi".
Phật hỏi: "Ông lấy cái gì để thấy?"
Ông A Nan đáp: "Tôi cùng đại chúng đều dùng con mắt để thấy".
Phật bảo ông A Nan: "Ông đáp rằng: Như Lai co ngón tay làm thành một nắm tay sáng ngời, chói tâm và con mắt của ông. Con mắt ông thấy được, còn lấy cái gì làm tâm để biết nắm tay tôi".
Ông A Nan đáp: "Như Lai đương hỏi tâm tôi ở chỗ nào, mà tôi dùng tâm suy nghĩ xét tìm. Cái suy nghĩ đó là tâm tôi."
Phật quở: "Ông A Nan! Cái đó không phải là tâm của ông".
Ông A Nan giật mình, ra ngoài chỗ ngồi, đứng dậy chắp tay bạch Phật: "Cái đó không phải là tâm tôi, thì gọi nó là cái gì?"
Phật bảo ông A Nan: "Đó là tưởng tượng những tướng giả dối của tiền trần(2), nó làm mê lầm chân tính của ông. Vì từ vô thủy tới nay, ông nhận lầm giặc đó làm con, nên mất chân lý thường còn, mà chịu luân hồi sinh tử."
(2) Tiền trần: trần cảnh trước mắt.
iii/ - Suy phá: vọng thức không có thực.
2 phần:a/ - A Nan cầu Phật dạy.
b/ - Phật an ủi và dạy.
a/ - Ông A Nan cầu Phật dạy:
Ông A Nan bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, tôi là em yêu dấu của Phật. Vì lòng yêu mến Phật, nên tôi xuất gia. Tâm tôi không những cúng dường một mình Phật, mà còn phụng sự vô số Phật ở khắp các cõi nhiều như số cát sông Hằng, và các thiện tri thức. Tôi phát lòng đại dũng mãnh, làm tất cả những việc khó làm để giúp Chính pháp. Thảy đều dùng cái tâm ấy.Giả sử tôi có huỷ báng Chính pháp, bỏ mất căn lành, cũng bởi cái tâm đó.
Nếu như Phật phát minh cái đó không phải là tâm, thì tôi hóa ra không có tâm, như cây như đất. Vì nếu không còn cái hay biết đó, thực tôi không còn cái chi nữa. Sao Như Lai lại nói cái đó không phải là tâm?
Tôi thực kinh sợ, và trong đại chúng, ai cũng nghi hoặc. Xin Phật đại từ dạy cho kẻ chưa ngộ."
b/ - Phật an ủi và dạy:
2 phần:1/ - Phật an ủi, cho là có tâm.
2/ - Phật chỉ tâm giả dối.
1/ - Phật an ủi, cho là có tâm:
Khi đó, đức Thế Tôn muốn chỉ dạy cho ông A Nan và đại chúng được chứng quả vô sinh pháp nhẫn(1), ngài liền ở Sư Tử tọa(2) xoa đầu ông A Nan, mà dạy: "Như Lai thường dạy: tất cả sự vật trong thế gian đều biến hiện trong vòng của tâm. Tất cả các sự vật, dù nhỏ như bụi nhỏ, dù lớn như thế giới, đều biến chuyển trên dòng thời gian vô tận theo liên quan nhân quả, thảy đều ở trong phạm vi của tâm.(1) Vô sinh pháp nhẫn: cảnh giới tu chứng đã cao của Bồ Tát. Sau sẽ giảng rõ ở cuối kinh.
(2) Sư tử tọa : chỗ Phật ngồi. Sư tử rống lên, các loài thú đều khiếp sợ. Phật thuyết pháp làm tiêu trừ mọi phiền não, mê lầm, nên ví với sư tử.
A Nan! Tất cả mọi sự vật trong mọi thế giới, cho đến những vật nhỏ mọn như cỏ, lá, nếu xét đến cùng tột, cũng đều mỗi vật có tính cách riêng. Cho đến hư không cũng có tên có tướng. Huống là cái tâm trong sạch, nhiệm mầu, sáng suốt, là "tính"(3) của mọi sự vật, lại không có tính cách riêng hay sao?
(3) Tính: nói về "tính" là đứng về mặt sâu. Xét về bề sâu của sự vật. Ví dụ nguyên tử là đơn vị của các vật.
2/ - Phật chỉ tâm giả dối:
Nay ông cứ chấp cái tính phân biệt, suy xét, rõ biết là tâm của ông. Đáng lẽ tâm đó xa lìa những trần như sắc, hương, vị, xúc(1) mà vẫn giữ được tính cách tiêng của nó. Như ông nay nghe tôi nói pháp, đó là do tiếng nói pháp mà có phân biệt.(1) Trần: cảnh vật ở trước mắt ta, ta nhờ 6 căn mà biết. Sáu căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Còn sáu trần duyên với 6 căn. Sáu trần là: sắc (những thứ mắt thấy), thanh (những thứ tai nghe), hương (những mùi mũi ngửi), vị (những vị ngọt cay, v.v... lưỡi nếm), xúc (những vật rắn, mềm, nhẵn... mà tay sờ biết), pháp (những sự vật mà ta hiểu, biết, nhận thấy).
C/ - Kết luận
Dù cho có dứt bỏ hết tất cả, thấy, nghe, hay, biết, chỉ giữ bề trong êm lặng, đó cũng chỉ là hình ảnh của phân biệt pháp trần.Chẳng phải tôi khuyên ông đừng chấp cái đó làm tâm. Ông nên ở tâm đó suy xét kỹ càng. Nếu xa các tiền trần, nó vẫn có tính phân biệt, ấy mới thực là tâm ông.
Nếu như tính phân biệt xa tiền trần thì không có, đó là hình ảnh của phân biệt tiền trần.
Cảnh không còn mãi, biến chuyển còn mất luôn luôn. Khi cảnh thay đổi, tiêu diệt rồi, cái tâm nương theo tiền trần cũng giống như lông rùa, sừng thỏ.
Chắc pháp thân(1) của ông cũng biến diệt theo, lấy ai mà tu chứng vô sinh pháp nhẫn."
(1) Pháp thân: chữ pháp thân đây có nghĩa tương đối. Ông A Nan cho cái gì sâu xa nhất của ông là pháp thân.
Bấy giờ ông A Nan và đại chúng đều ngồi im, ngơ ngẩn.
Phật bảo ông A Nan: "Trong thế gian, hết thảy các người tu học, hiện hay tuy đã tu chứng được chín cảnh giới định(2), nhưng không dứt được hết mê lầm để chứng quả A La Hán, chỉ vì chấp cái vọng tưởng sống chết kia, lầm cho là chân thực. Cũng như ông tuy học rộng nghe nhiều mà không chứng được quả thánh(3)."
(2) Chín cảnh giới định: đây là chín cảnh giới đầu mà người mới tu đã chứng đến.
(3) Quả thánh: đây là chỉ quả A La Hán, đã thoát khỏi luân hồi sinh tử.
BÌNH LUẬN
ii/ - Phật chỉ rõ: Vọng thức không phải tâm
Phần này là phần thứ 2 của chương:
B/ - Phật phá những điều nhận lầm.
Chương này chia làm 3 phần:
i/ - Mật chỉ vọng thức không chỗ ở (Phần này vừa xong)
ii/ - Phật chỉ rõ: vọng thức không phải tâm (Phần này ta sắp nghiên cứu)
iii/ - Suy phá: vọng thức không có thực.
Ở phần trước, ta vừa thấy Phật đưa ông A Nan đến điều nhận xét này: tâm không có chỗ nương. Nay ta thấy Phật chỉ rõ: vọng thức không phải tâm.
Phần ii/ này lại chia làm 2 phần:
a/ - Ông A Nan trách mình, xin Phật chỉ giáo. Đây là phần chuyển đề, đặt vấn đề.
b/ - Phật chỉ: vọng thức không phải tâm. Tức là phần chính.
a/ - Ông A Nan trách mình, xin Phật chỉ giáo.
Ông A Nan tự trách mình tu chưa đúng chân lý, xin Phật chỉ dạy lối tu vào Sa Ma Tha.
b/ - Phật chỉ: vọng thức không phải tâm.
Đoạn này lại chia làm 3 phần:
1/ - Phật phóng hào quang.
2/ - Phật nêu nguyên tắc, hai căn bản chân, vọng.
3/ - Phật nói rõ: vọng thức không phải tâm.
1/ - Phật phóng hào quang
Trước khi nói pháp nào quan trọng, Phật hay phóng hào quang để chỉ thị cho đại chúng. Ở mặt Phật phóng ra nhiều hào quang sáng chói, soi khắp không gian, qua các thế giới chư Phật. Các cõi Phật chi chít như bụi nhỏ ở hư không, đều hiện ra. Oai thần Phật khiến các thế giới họp thành một thế giới. Các vị Đại Bồ tát đều ở nước mình, chắp tay nghe lời Phật dạy.
2/ - Phật nêu nguyên tắc: Hai căn bản chân vọng.
Phật bảo: các chúng sinh từ vô thuỷ đến nay, đều nô lệ trong vòng nghiệp. Qua bao kiếp, tử lại sinh, sinh lại tử. Ai cũng ham sống sợ chết, cũng yêu đời. Vì yêu đời nên gây nghiệp, nên chịu quả sinh tử luân hồi.
Các người tu hành không chứng được quả Phật, chỉ chứng quả tiểu thừa, hoặc chư thiên, hoặc ngoại đạo, là vì không biết hai căn bản. Vì không biết căn bản đó, nên tu tập lầm lộn, ví như lấy cát muốn nấu thành cơm. Trải muôn kiếp bao giờ cát thành cơm được?
Đây là cái chìa khóa cho người tu học. Nắm được chìa khóa này thì chắc chắn hiểu đạo, và sẽ tu thành Phật.
Nếu ta không lập cho vững căn bản này, ta sẽ hiểu đạo sai lạc, lập luận lầm lẫn. Và sai một ly, đi một dặm, ta sẽ hiểu lầm đạo Phật.
ĐÂY LÀ CĂN BẢN CỦA ĐẠO PHẬT!
Trong khoảng không gian bao la, trên dòng thời gian đằng đẵng, mọi sự vật đều trong đó.
Muốn nghiên cứu, ta hãy giả lập, tạm chia sự vật ra làm 2 mặt: mặt "vọng" và mặt "chân".
1. - Mặt "vọng": Tiêu biểu cho chúng sinh. Các sự vật đều biến chuyển trong khoảng không gian bao la, thời gian vô tận. Thế giới, chúng sinh đều ở mặt này. Bao bộ sách cũng không nói hết. Bao ngoại đạo, bao khoa học đều ở mặt này.
Nói chung, chúng sinh đa số bị luân hồi sinh tử.
Trong kinh này, vì Phật muốn dạy ông A Nan và đại chúng, nên nhấn mạnh về một phương diện của chúng sinh: chúng sinh dùng "tâm phan duyên".
Trí biết của chúng sinh rất tương đối, nông cạn.
Trí biết đó bị hạn chế trong vòng nghiệp của chúng sinh, và trong vòng thân, cảnh của mỗi chúng sinh. Ví dụ: con kiến, con rắn, con beo, mỗi con đều nhìn sự vật một khác.
Nhưng thảy đều nhờ tai, mắt, trí biết v.v... vật lộn với hoàn cảnh mà sinh sống.
Trí biết nông cạn đó, gọi là "tâm phan duyên". Tức là nó nương theo điều mắt thấy tai nghe, nương theo hoàn cảnh mà vui buồn, sướng, khổ. Sau đây, Phật sẽ giảng kỹ về "tâm phan duyên".
2. - Mặt "chân": Tiêu biểu cho cảnh giới Phật đã tu chứng đến. Trí biết tuyệt đối, không còn mê lầm... Có nhiều danh từ để chỉ cảnh giới này, như: Bồ Đề, Niết Bàn, Chân Như, Chân Tâm, Chân Lý v.v...
Sau đây, Phật sẽ giảng kỹ về mặt "chân".
LÝ "VÔ THỦY"
Ở căn bản này, có một chi tiết rất quan trọng, mà ít người để ý, ít người hiểu. Vì thế nên hiểu lầm đạo Phật, lập ra những thuyết rất kỳ, như "Duy Tâm" v.v...
Đó là lý: "vô thủy"
Ở phần này, Phật cũng nói rõ: hai căn bản đều vô thủy. Vọng vô thủy, chân cũng vô thủy.
1) Tại sao lại nói căn bản sinh tử vô thủy?
Vì đứng mặt "vọng", tức là mặt "chúng sinh" mà nói, thì có không gian, có thời gian, nhưng không gian vô tận, thời gian vô thủy vô chung. "Vô thủy" tức là không có nguyên nhân đầu tiên. Ví dụ: với ta, 100 năm là lâu, là giới hạn của đời người. Nhưng với thời gian đằng đẳng, chỉ là một khoảng sinh diệt. Nếu ta tưởng tượng một khoảng thời gian rất lâu xa như một tỷ tỷ tỷ vô số vô số thế kỷ. Trước đó, ta vẫn có thể lấy 1, 10, 100, 1000 năm trước. Ngược dòng thời gian, đi mãi, không thấy chỗ bắt đầu. Thế gọi là "vô thủy".
Vậy đứng về mặt thế giới, chúng sinh mà nói: "không có khởi đầu, không có nguyên nhân đầu tiên. Thế giới, chúng sinh đều biến chuyển trên dòng thời gian đằng đẳng".
2) Về cảnh giới Phật:
Với cảnh giới Phật, cũng vô thủy. Không còn phân biệt không gian, thời gian, tương đối, tuyệt đối. Không còn phân biệt "thủy chung".
3/ - Phật nói rõ: Vọng thức không phải tâm
Sau khi nêu nguyên tắc: hai căn bản chân vọng. Phật mới chính thức tấn công vào cái lầm căn bản của ông A Nan. Đó là cái lầm căn bản của mọi chúng sinh, vì thế mà bị luân hồi sinh tử.
Phật giơ cánh tay lên, co năm ngón tay lại, hỏi ông A Nan: "Có thấy không?". Ông A Nan đáp: "Có thấy". Phật hỏi: "Lấy cái gì làm thấy?". Ông A Nan đáp: "Lấy con mắt để thấy". Phật hỏi: "Ông nói: nắm tay Phật làm chói tâm và con mắt của tôi.
Vậy ông lấy cái gì làm tâm để biết nắm tay tôi?" Ông A Nan đáp: "Cái hay suy nghĩ là tâm của tôi".
Tâm lý của ông A Nan, là tâm lý chung của chúng ta, và của chúng sinh. Ai cũng cho là "có tôi". Ai cũng thấy rõ có "mình". Vì thấy có "mình", mới phân biệt có "người". Mới sinh ra "yêu, ghét". Vì "yêu" mới có gia đình: cha mẹ, anh em v.v... Vì "ghét" mới có chiến tranh, có tranh đấu.
Người ta lại cho những cái mắt thấy, tai nghe là có thực, và cho cái óc phân biệt, suy xét "tâm của mình".
Nhân loại ngày nay lại càng đi sâu vào quan niệm này. Khoa học tiến bộ nhanh chóng, đều dựa vào trí suy luận. Cuộc đời máy móc, tranh sống gắt gao, chiến tranh khủng khiếp, dục vọng ngày càng nuôi lớn.
Đó là cái chấp nặng nhất của chúng sinh. Vì thế nên bị chìm đắm trong luân hồi sinh tử
Phật biết thế, nên cố ý phá thật mạnh cái chấp đó. Trước hết, Phật để cho ông A Nan tìm mãi chỗ của tâm ông nương. Tìm mãi không thấy. Nay Phật mới tấn công mạnh mẽ vào cái chấp căn bản của ông.
Khi ông A Nan đáp: "Cái hay suy nghĩ là tâm của tôi", Phật quở: "Cái đó không phải là tâm của ông".
Ông A Nan giật mình, hỏi: "Gọi nó là cái gì?"
Phật bảo: "Đó là tưởng tượng những tướng giả dối của tiền trần". Sau đây, Phật sẽ giảng rất kỹ câu này.
Phật lại nói câu thâm thúy này: "Từ vô thủy đến nay, ông nhận lầm giặc đó làm con, nên bỏ không theo chân lý, bởi thế nên chịu luân hồi sinh tử".
Câu này thật là thấm thía: "nhận giặc làm con!". Chúng ta và chúng sinh đều quý yêu cái "tôi". Nhiều kẻ vì lẽ "sinh tồn" mà gây bao tội ác, gây chiến tranh. Nhiều kẻ vì cái "tôi", vì gia đình, vì tổ quốc, vì chủ nghĩa, vì tôn giáo của mình mà gây bao đau đớn cho người và cho mình.
Có biết đâu: "Chính cái hay suy nghĩ, phân biệt, nó xui ta bám lấy cuộc sống, bám lấy những thứ ta yêu, ta thích. Qua bao đời, bao kiếp, ta cứ bị luân hồi sinh tử, ta chịu bao đớn đau, trong bể khổ, không thể giải thoát lên những cảnh giới yên vui, sung sướng. Chính kẻ giặc nó làm ta khổ, mà ta lại quý yêu nhất, vì thế mới nói: nhận giặc làm con!"
Nay ta nghiên cứu phần:
iii/ - Suy phá: Vọng thức không có thực.
Phần này chia làm hai đoạn:
a/ - A Nan cầu Phật dạy. Đây là phần chuyển đề.
b/ - Phật an ủi và dạy.
a/ - Ông A Nan cầu Phật dạy:
Ông A Nan bạch Phật: "Lòng tôi yêu mến Phật, nên xuất gia. Tôi cúng dường Phật, lại cúng dường vô số Phật. Tôi phát lòng tinh tiến dũng mãnh, làm mọi việc khó làm để phụng sự Chính pháp.
Tôi đều dùng cái tâm ấy.
Ví dụ tôi có sa ngã, hủy báng Chính pháp, bỏ mất căn lành, cũng bởi cái tâm đó.
Nếu Phật nói cái đó không phải tâm, thì ra tôi không có tâm, như cây như đất. Vì nếu không còn cái hay biết đó, thực tôi mất cả. Sao Phật lại nói cái đó không phải tâm?
Tôi thực kinh sợ, và trong đại chúng, ai cũng nghi hoặc. Xin Phật đại từ dạy cho kẻ chưa ngộ."
Ta thấy cái sợ của ông A Nan rất đúng với tâm lý của chúng sinh. Từ xưa đến nay, ông A Nan và mọi người vẫn yên trí cái tâm là cái óc thông minh biết suy xét, so sánh, phân biệt. Đó là của quý báu nhất của mình. Làm điều hay, làm điều dở, vui, buồn, thương, khóc, phấn khởi, chán nản, học rộng nghe nhiều, cho đến mưu mô xảo trá, thảy đều ở cái "tâm" đó.
Từ bao kiếp, cái thói quen suy nghĩ, phân biệt, thích ứng với hoàn cảnh là cái bản tính của chúng sinh. Đó là sự sống, đó là cuộc đời.
Người ta lại thiết tha yêu sự sống, yêu đời, thích ăn ngon mặc đẹp, thích ở nhà lầu, thích yêu đương, thích hoạt động, tranh đấu. Có người say mê âm nhạc, có người mê hội họa. Có người thích chém giết. Bao tư tưởng, bao phát minh, bao bài thơ hay, bao công trình nghệ thuật, cho đến bao tiếng cười, tiếng khóc, bao điều đẹp đẽ, bao sự dã man, thảy đều do "tâm" con người tạo ra. Cho đến những tư tưởng cao siêu, những lời Phật dạy, những hạnh tốt đẹp của người tu, mong hiểu và đạt tới Chân Lý, thảy đều ở "tâm" con người.
Thế mà nay Phật quở: "cái đó không phải tâm ông". Làm sao ông A Nan chả kinh sợ.
Ta cũng nên cố gắng khách quan, bắt chước ông A Nan, trầm ngâm suy nghĩ những lời Phật dạy đây. Nếu ta ngộ được, ta đã làm một cuộc cách mệnh lớn trong tâm hồn. Ta thực hiện một bước rẽ quan trọng trong đời ta. Bước rẽ đó giúp ta tiến mãi trong tương lai, tiến mãi về phía cao, đẹp, Chân Lý, cho đến khi thành Phật.
b/ - Phật an ủi và dạy:
1/ - Phật an ủi:
Phật dạy: "Tất cả mọi sự vật, từ rất nhỏ đến rất lớn, đều ở trong phạm vi của tâm. Sự vật nào cũng có tính cách riêng. Cho đến hư không cũng có tên, có tướng.
Huống hồ là cái phương diện "chân" của sự vật, gọi là "tâm thanh tịnh", lại không có tính cách riêng hay sao?"
Đây Phật dứng về mặt "chân", nói về phương diện chân lý. Nếu đứng về cảnh giới Phật, có thể lấy danh từ "tâm", hay "chân tâm" để chỉ Chân Lý. Phật lại dùng danh từ "tính" để chỉ cái phương diện sâu xa, thuần túy của sự vật. Ở cảnh giới Phật, mọi sự vật đều là Chân Lý.
Phật công nhận Chân Lý đó là "tâm".
2/ - Phật chỉ tâm giả dối:
Phật dạy: "Nay ông cứ chấp cái tính hay phân biệt, hay suy xét, tức là cái trí biết của ông, cho nó là tâm. Nếu thực là tâm, thì khi nó xa lìa trần cảnh, ví dụ như xa mọi cái có thể nhìn, nghe, ở một chỗ tối om, yên lặng, nó vẫn giữ tính cách riêng của nó.
Bây giờ ông nghe tôi dạy Pháp, tâm ông nương vào tiếng nói của tôi mà sinh phân biệt, vậy tâm đó là tâm phan duyên."
Câu này của Phật rất hay và rất sâu xa. Tâm ta thường chạy theo hoàn cảnh. Được người khen thì vui mừng, nở mày nở mặt. Gặp người chê thì khó chịu. Có ai chửi thì tức tối. May gặp bước giàu sang thì sung sướng, lại lên mặt khinh người. Không may thất bại thì đau buồn, thất vọng...
Ta bị nô lệ cho hoàn cảnh, bị hoàn cảnh lôi kéo. Ta bị những điều mắt thấy tai nghe chúng lôi cuốn. Thích ăn ngon, mặc đẹp, nhà lầu, thích gái đẹp, thích danh giá. Vì thế mà làm lụng khổ sở, mà phải vò đầu lập mưu lập mẹo, có khi gây bao phiền não cho mình và cho người.
Trong đêm khuya tĩnh mịch, ta lặng lẽ suy nghĩ, tự xét ta, xét người, mới thấy ta hoàn toàn bị nô lệ cho cảnh vật chung quanh. Một ngày bận rộn bao việc, phải ứng phó với bao điều mắt thấy tai nghe.
Cái mà ta tưởng là "ta", là trí khôn, là tài năng, cái mà ta quý mến, hãnh diện, đó là "tâm phan duyên".
Chính cái "tâm" đó luôn luôn đuổi theo tiếng động, phản ứng với hình ảnh, với mùi vị. Ngũ quan ta luôn luôn làm việc, phản ứng với hoàn cảnh (nói theo Phật pháp, là sáu trần).
Nay đến chỗ kết luận của chương:
1) - Phá chỗ chấp vọng tâm:
Chương này có 3 phần:
A/ - Chúng sinh nhận lầm ý thức của mình là tâm.
B/ - Phật phá những điều nhận lầm đó.
C/ - Kết luận.
Nay đã nghiêm cứu xong phần B/
Nay đến phần kết luận của cả chương 1)
C/ - Kết luận:
Phật dạy: "Mà dù cho có dứt bỏ hết tất cả thấy, nghe, hay, biết, chỉ giữ bề trong êm lặng, đó cũng chỉ là hình ảnh của phân biệt pháp trần."
Câu này lại càng cao và thâm thúy: "Người tu định, giữ hết sức yên lặng, bên trong lặng lẽ. Các tiếng động không lọt vào tai. Mắt nhắm. Không còn thấy, nghe, hay biết. Cái lặng lẽ bên trong cũng không phải là tâm. Pháp trần phân biệt vẫn ở đó. Ta vẫn còn những ý nghĩ trong đầu, những thói quen suy nghĩ. Ta vẫn có thể tưởng tượng ra mọi việc trong đời sống hằng ngày. Trong lúc ngủ say, ta nằm chiêm bao, thấy mọi sự như thật.
Cho đến khi ta nghiền ngẫm những tư tưởng cao siêu đẹp đẽ, đó cũng là tâm phan duyên.
Cho đến người tu định, đã chứng tới một số quả, tâm đó cũng là tâm phan duyên."
Phật dạy: "Nếu thực là tâm ông, thì khi xa các tiền trần, nó vẫn có tính phân biệt.
Còn nếu khi xa tiền trần, không có tính phân biệt, đó chỉ là hình ảnh của phân biệt tiền trần.
Cảnh biến đổi luôn luôn, khi còn khi mất.
Cái tâm chỉ nương theo cảnh.
Vậy khi cảnh mất, tâm cũng mất luôn, giống như lông rùa, sừng thỏ là những vật không có."
Phật lại dạy: "Các chúng sinh tuy đã chứng được 9 bậc định, mà không chứng được A La Hán, chỉ vì chấp cái tâm phan duyên, cho là Chân Lý".
Vậy, muốn chứng A La Hán, thoát khỏi luân hồi sinh tử, rồi cứ thế tiến thẳng quả Phật, trước hết phải bỏ cái tâm phan duyên.
No comments:
Post a Comment