Wednesday, October 5, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 7)

E# - Chỉ tính thấy không phải là tâm:
3 phần:
i# - A Nan cầu Phật dạy.
ii# - Phật phá vọng tâm, chỉ rõ kiến tính.
iii# - Kết luận.
i# - A Nan cầu Phật dạy:
Ông A Nan nhờ Phật thương dạy như vậy, bèn khóc rồi vòng tay bạch: "Tôi được nghe tiếng nói mầu nhiệm của Phật, ngộ cái tâm địa(1) bản lai viên mãn thường trụ(2) của diệu minh tâm. Nhưng tôi ngộ là ngộ pháp âm của Phật. Tôi nay dùng tâm phan duyên(3) để nghe pháp. Tôi chưa dám nhận tâm phan duyên là bản lai tâm địa. Xin Phật thương xót, nói lời hoàn toàn, nhổ gốc nghi ngờ của tôi, đem về đạo vô thượng."
(1) Tâm địa: Tâm ví như đất. Các pháp trong tâm ví như cây cỏ. Cây cỏ thay đổi. Đất không thay đổi. Nhân ví dụ đó gọi tâm địa là tính của tâm.
(2) Bản lai viên mãn thường trụ: viên mãn là trùm khắp; bản lai: là từ xưa vẫn có; thường trụ là có mãi.
(3) Phan duyên: duyên theo pháp.

ii# - Phật phá vọng tâm, chỉ rõ kiến tính:
2 phần:
a# - Phá cái duyên tâm có hoàn.
b# - Chỉ rõ bản tâm không hoàn.
a# - Phá cái duyên tâm có hoàn:
1# - Trước phá pháp bị duyên:
Phật bảo ông A Nan: "Các ông hãy còn lấy tâm phan duyên để nghe Pháp, vậy pháp đó cũng là duyên, chứ không phải được pháp tính.
Ví dụ có người lấy ngón tay chỉ mặt trăng cho người khác xem. Người kia nên nhân ngón tay chỉ mà nhìn mặt trăng.
Nếu chỉ nhìn ngón tay mà cho đó là mặt trăng, thì chẳng những không hiểu trăng, mà không hiểu luôn cả ngón tay.
Vì sao? Vì tưởng ngón tay là mặt trăng. Lại không biết cái sáng và cái tối.
Vì tưởng ngón tay là trăng sáng."
2# - Phá tâm năng duyên:
Ông cũng như thế. Nếu ông lấy cái phân biệt pháp âm tôi nói là tâm của ông, thì cái tâm ấy khi xa lìa cái phân biệt pháp âm, vẫn có tính phân biệt.
Ví như người khách ngủ tạm ở quán, ở tạm rồi đi, chứ không ở mãi nơi đó. Còn người chủ quán ở luôn tại quán, nên gọi là chủ. Tâm ông cũng vậy, nếu thực là tâm ông thì không đi đâu nữa. Tại sao khi xa tiếng nói, lại không có tính phân biệt? Không những về tiếng nói, mà về hình dung tôi, cái phân biệt hình dung tôi, nếu xa các hình sắc, sao lại không có tính phân biệt? Cho đến cái phân biệt đều không, không phải có hình, không phải không, mà bọn Câu Xá Ly mê lầm cho là minh đế(4). Nó cũng không có tính phân biệt, khi ly các duyên của pháp trần.
(4) Minh đế: một ngoại đạo cho rằng ban sơ hỗn độn, không phải có hình tướng, cũng không phải không có hình tướng, rồi sau phân chia, tạo muôn vật.
3# - Kết luận:
Vậy tâm tính của ông đều có thể trả về chỗ khác, lấy gì làm chủ?"
b# - Chỉ rõ bản tâm không hoàn:
1# - A Nan cầu Phật dạy:
Ông A Nan bạch: "Nếu tâm tính tôi đều có chỗ trả về, thì cái tâm diệu minh nguyên của Như Lai nói, làm sao lại không có chỗ trả về?"
2# - Phật chỉ rõ:
A% - Ví dụ: kiến tinh:
Phật bảo ông A Nan: "Ông nhìn thấy tôi đây, cái kiến tinh minh nguyên(1) của ông thấy tôi tuy không phải là diệu tịnh minh tâm, cũng như cái mặt trăng thứ hai(2), không phải là mặt trăng."
(1) Kiến tinh: cái thấy trong sạch, chưa khởi phân biệt. Nguyên: gốc vẫn có.
(2) Mặt trăng thứ hai: khi dụi con mắt, mắt thấy hai mặt trăng.

B% - Chỉ những thứ có hoàn:
"Ông hãy lắng tai nghe cho kỹ, bây giờ tôi chỉ cho ông cái tính không thể trả về."
"Ông A Nan! Cái đại giảng đường này mở rộng về phương Đông. Khi mặt trời mọc, ánh sáng rực rỡ. Ban đêm không trăng, mây mù mờ mịt, lại tối đen. Cửa mở rộng, thấy thông suốt. Chỗ có tường nhà, thấy ngăn cách. Chỗ có phân biệt, thấy các duyên(3). Chỗ trống rỗng là ở hư không. Khi bụi nổi lên, thấy mù mịt. Lúc trời quang mây tạnh, thấy sáng sủa.
(3) Có phân biệt, sự vật liền duyên với.
Ông A Nan, ông xem các tướng biến hóa đó, nay tôi đều trả về bản nhân của chúng.
Thế nào là bản nhân?
Trong các tướng biến hóa đó, sáng trả về cho mặt trời. Vì không mặt trời, không sáng. Bản nhân của sáng là mặt trời, nên trả về cho mặt trời.
Tối, trả về cho đêm không trăng. Thông trả về cho cửa mở. Ngăn cách, trả về cho tường. Duyên, trả về cho phân biệt. Trống rỗng, trả về cho hư không. Mù mịt, trả về cho bụi. Sáng sủa, trả về cho trời quang.
Các sự vật trong thế gian không ngoài mấy loại này.
C% - Chỉ rõ kiến tính không hoàn:
Còn cái kiến tinh minh tính của ông, thấy tám thứ đó, ông định trả về đâu?
Nếu trả về cho cái sáng, đến khi không sáng, không thể thấy tối. Tuy hai cái sáng, tối khác hẳn nhau, nhưng tính thấy không sai biệt.
3# - Kết luận:
Cái nào có thể trả về được, tự nhiên không phải của ông.
Cái mà ông không thể trả về được, tức là ông.
Vậy biết tâm ông bản lai là Diệu minh tịnh. Ông tự mê muội bỏ mất nó đi, chịu luân hồi, thường bị chìm đắm trong bể sinh tử.

BÌNH LUẬN
Ông A Nan được Phật dạy, hiểu cảnh giới Phật, tức Chân Lý, không động và không diệt.
Nhưng ông còn thắc mắc: cái tâm nghe Phật dạy đây, có nên tin tưởng ở nó không? Nhờ có nó, mới hiểu lời Phật dạy, mới tu theo và mới thành Phật. Nhưng nó là tâm phan duyên, tức là nó nương theo lời nói của Phật, vậy đáng lẽ thuộc về vọng.
Vậy ông A Nan hỏi Phật: "Có nên y theo tâm phan duyên không?"
Câu hỏi này rất hay. Ừ thì tâm phan duyên theo trần cảnh, là vọng, là gốc mọi sự mê lầm, đau khổ, ta bỏ đã đành. Còn tâm nghe Pháp của Phật, ta thành kính nghe, ta quý báu Pháp. Vậy ta phải có thái độ nào với tâm đó?
Phật trả lời rất hay.
a# - Phá cái duyên tâm có hoàn.
Trước hết, Phật phá cái tâm phan duyên, sau mới chỉ Chân lý.
Muốn phá tâm phan duyên, Phật hãy phá các pháp bị duyên.
1# - Trước phá pháp bị duyên.
Phật dạy: các ông lấy tâm phan duyên để nghe Pháp, vậy pháp là vật bị duyên, chứ không phải chân lý. Tiếng Phật nói cũng là thanh trần. Mắt ông nhìn thấy Phật. Hình ảnh Phật in vào tâm ông, cũng là sắc trần. Những thứ đó đều là vọng.
Phật lấy ví dụ rất hay này để cho ta hiểu. Ta nên nhớ mãi ví dụ này, sẽ lợi vô cùng cho sự tu học: "Có người lấy ngón tay chỉ mặt trăng, cho người khác hiểu mặt trăng. Đáng lẽ người kia nên theo ngón tay chỉ, mà quan sát mặt trăng. Có người chỉ lại nhìn ngón tay, rồi cho đó là mặt trăng. Người đó không hiểu mặt trăng, không hiểu ngón tay, vì cho ngón tay là mặt trăng."
Thái độ ngớ ngẩn của người đó làm ta buồn cười. Nhưng tự xét ta, xét người, ta thấy phần nhiều chúng ta đều lầm như thế.
Nếu ta ở địa vị ông A Nan và đại chúng, được hân hạnh nghe Phật dạy, tất nhiên ta hết sức cung kính nghe, cho lời Phật là lời vàng ý ngọc, ta quý báu vô cùng. Ta cho đó là chân lý.
Nay ta đọc kinh Phật, ta thờ kính kinh Phật. Có người thành kính tụng kinh như cái máy, không hiểu gì mà cứ đọc như con vẹt. Lại quay lại cho người đã hiểu đạo, hiểu kinh, mà không đọc như mình, là không tu. Có người học thuộc lòng từng chữ, chấp nê từng câu. Thật là những người mải ngắm ngón tay mà quên mặt trăng.
Vậy ta nên nhớ: lời Phật dạy chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng. Ta nương theo ngón tay chỉ mà nhìn mặt trăng, vậy ta cũng nên nương theo lời Phật chỉ mà nhận Chân Lý. Có nhận thấy Chân lý, mới nương theo mà tu tiến. Ta đứng nô lệ trong vòng danh từ trừu tượng, bám chấp theo mấy danh từ.
2# - Phá tâm duyên pháp.
Cái tâm nghe Pháp cũng là vọng. Khi ta nghe pháp, ta nương theo lời nói của Phật mà khởi phân biệt. Mắt ta nhìn thấy Phật. Trong hoàn cảnh Phật dạy đại chúng, ta đóng một vai trò trong đó.
Tâm ta nương theo mắt thấy, tai nghe mà sinh hoạt.
Xa tiếng nói của Phật, xa hình ảnh Phật, cái tâm không còn tính phân biệt, vậy tâm đó duyên theo trần cảnh.
Tâm đó là vọng.
b# - Chỉ rõ chân lý không hoàn.
A% - Ví dụ: kiến tinh.
Muốn chỉ chân lý, Phật lấy kiến tinh làm ví dụ. Cũng như ta lấy con mèo để tả con hổ.
Kiến tinh là cái phần trong sạch của tính thấy. Đó là tính thấy không phân biệt, như gương chiếu vật nào soi trước nó. Những người tu chứng cao, đã bỏ được phần phân biệt của tính thấy, mà chỉ dùng kiến tinh để soi tỏ sự vật.
B% - Chỉ những thứ có nhân duyên.
Trước khi chỉ kiến tinh không có nhân duyên (không hoàn), Phật hãy chỉ những thứ có hoàn, để ta so sánh hai thứ khác nhau.
Kìa cái nhà giảng. Ban ngày, mặt trời chiếu sáng. Đêm tối, tối đen. Chỗ cửa mở, thấy thông suốt. Tường vách làm ngăn cách. Bụi nổi làm mờ mịt. Lúc trời quang, cảnh vật trong sáng.
Mặt trời là nguyên nhân của ánh sáng. Tối đen là vì đêm tối. Bị ngăn cách là vì tường. Mờ mịt là vì bụi. Trong sáng là vì trời quang.
Các sự vật đó đều có nguyên nhân.
C% - Chỉ kiến tinh không có nhân duyên.
Còn kiến tinh không có nhân duyên, vì không chỗ trả về. Vậy ta thấy một tính nữa của chân lý: không theo liên quan nhân quả.

No comments:

Post a Comment