F# - Chỉ kiến tính không lẫn lộn với vật:
i# - Ông A Nan hỏi Phật:
Ông A Nan bạch: "Tuy tôi biết tính thấy ấy không hoàn, nhưng làm sao biết được tính thấy ấy là chân tính của tôi?"
ii# - Phật dạy:
a# - Phân biệt rõ ràng năng kiến và sở kiến:
Phật bảo ông A Nan: "Nay tôi hỏi ông: Nay ông chưa chứng được quả vô lậu thanh tịnh, nhưng nhờ thần lực Phật, thấy cõi sơ thiền khỏi bị ngăn ngại. Ông A Nan Luật thấy cõi Diêm Phù Đề(1) như thấy quả Yêm Ma La(2) trong bàn tay. Các vị Bồ Tát thấy trăm nghìn thế giới. Các đức Phật ở mười phương thấy suốt các cõi Phật nhiều như bụi nhỏ, không chỗ nào là không thấy. Còn sức thấy của chúng sinh chưa quá gang tấc.(1) Trái đất.
(2) Một thứ quả ở Ấn Độ.
Ông A Nan, nay tôi cùng ông nhìn cung điện của tứ thiên vương(3), ta thấy các loài trên đất, dưới nước, bay trên không, tuy có nhiều hình thù, hoặc sáng hoặc tối, nhưng thảy đều là tiền trần phân biệt lưu ngại(4). Ông nên căn cứ vào những thứ trên, chia rõ ràng cái nào là mình, cái nào là ở ngoài. Ông hãy chọn ở trong cái thấy, cái nào là ta, cái nào là vật.
(3) Cõi trời thấp nhất.
(4) Tiền trần phân biệt lưu ngại: các sự vật có hình thù khác nhau.
b# - Chia rõ vật và cái thấy:
1# - Vật không phải tính thấy:
Ông A Nan, ông thử nhìn xa hết sức thấy của ông, từ mặt trời, mặt trăng, đều là vật chứ không phải ông. Cho đến bảy núi vàng(5), xét xem khắp cả, tuy chúng có nhiều hào quang, cũng là vật chứ không phải ông.(5) Chỗ ở của Tứ Thiên Vương.
Dần dần xem xét đến mây kéo, chim bay, gió thổi, bụi mù mịt, cây cối, núi sông, người, thú, đều là vật chứ không phải ông.
2# - Tính thấy không phải vật:
Ông A Nan, tuy các vật kia có xa, có gần, có sai khác nhau, nhưng cũng do một kiến tinh thanh tịnh của ông nhìn thấy. Các vật kia tự có sai khác. Tính thấy không sai khác. Cái kiến tinh diệu minh ấy, thực là tính thấy của ông.
3# - Phật lại nói rõ thêm: tính thấy không phải vật:
Nếu cái thấy là vật, lẽ ra ông thấy cái thấy của tôi. Nếu vì hai người cùng thấy một vật, mà gọi là thấy cái thấy của tôi, sao trong khi tôi không thấy, ông lại không thấy cái chỗ không thấy của tôi. Dù có nói thấy được chỗ không thấy của tôi, thì nhất định không phải là thấy được hình dung của cái không thấy. Nếu đã không thấy chỗ không thấy của tôi, tự nhiên cái thấy không phải vật. Tất nó là ông.
4# - Lại nói: vật không phải tính thấy:
Lại nữa, nếu cái thấy là vật, trong khi ông thấy vật, vật cũng thấy ông. Thể tính xen lộn, ông, tôi và tất cả thế gian, làm sao an lập được.Ông A Nan! Ông thấy, là ông chứ không phải tôi. Cái thấy trùm khắp kia là của ông.
c# - Kết luận:
Sao ông lại nghi cái chân tính của ông, mà cầu chỗ chân thực.
BÌNH LUẬN
Phật biết chúng sinh có thói quen từ nghìn vạn kiếp, cứ nhận vật là mình, nên mới đau khổ. Ví dụ như một người sống trong đời, thành công thì mừng, thất bại thì buồn. Bao việc xảy ra, làm cho phải vui, buồn, lo lắng. Nhiều người có nhà lầu xe hơi mà vẫn lo, ngủ không yên. Lo giữ nguyên tài sản, lo cạnh tranh, lo thất bại, lo mang tiếng. Con ốm, vợ đau cũng lo. Hoàn cảnh hoàn toàn chi phối người đó.
Ví dụ hay nhất là đi xem phim chiếu bóng. Phim hay quá, hấp dẫn quá, người xem tưởng mình sống trong cuộc, bao giận hờn, yêu ghét, khóc cười với phim. Khi đèn sáng, thấy má còn ngấn nước mắt, mới cười mình là lầm.
Chúng sinh hay cho cảnh là mình, vật là mình, nên lẫn lộn chân lý và sự thật.
Phật biết thế, nên chia rõ ràng hai thứ:
1) Cái tính thấy là năng, tức là chủ, nhìn sự thật.
2) Vật, tức là sở, là cảnh bị nhìn.
Tính thấy có thể rộng hẹp khác nhau, tùy trình độ chúng sinh.
Sự vật cũng bao trùm pháp giới, có gần, xa, lớn, bé, hình dáng khác nhau.
Ta phải phân biệt rõ ràng vật và tính thấy:
1) Vật có sai khác.
2) Tính thấy của mỗi chúng sinh không sai khác.
Ta biết rõ ta là chủ, ta không bị vật, bị cảnh ngoài lôi cuốn nữa. Ta phân biệt rõ ràng: cái gì là ta, cái gì là vật.
No comments:
Post a Comment