b/ - Đức Quán Âm nói dài:
4 phần:1/ - Nhân duyên tu.
2/ - Nói phương pháp tu chứng.
3/ - Nói chỗ được đặc biệt.
4/ - Kết đáp viên thông.
1/ - Nhân duyên tu:
Bấy giờ Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch:Bạch Thế Tôn! Tôi nhớ vô số hằng hà sa kiếp về trước, có đức Phật xuất hiện ra đời, tên là Quán Thế Âm. Tôi theo Phật đó, phát Bồ Đề tâm. Đức Phật dạy tôi từ "văn, tư, tu" vào Tam Ma Địa.
2/ - Nói phương pháp tu chứng:
I. Các tiếng động ở ngoài vào căn tại.II. Vào rồi mất. (Sinh rồi diệt, như mọi sự vật ở đời).
III. Tâm mình vẫn không động, không để ý thức phân biệt theo, chạy theo tiếng động.
IV. Tiếng động vào tai rồi mất (theo lẽ sinh diệt). Tâm mình vẫn không động, vắng lặng, phân biệt động, tĩnh (vì có phân biệt cái động, mới phân biệt cái tĩnh là trái lại cái động).
V. Không phân biệt động, tĩnh thì không còn năng, sở:
VI. Không còn năng văn, sở văn.
VII. Không còn năng giác, sở giác.
VIII. Không còn năng không, sở không.
IX. Cho đến sinh diệt cũng không có.
X. Tịch diệt hiện tiền.
BÌNH LUẬN
Nếu không, chỉ là học theo văn tự, theo vỏ ngoài.
Phật pháp ví như cái nhà rộng, ở giữa nhà có viên ngọc quý. Có một cái cửa nhỏ để vào nhà.
Đứng ngoài nhà, thì không bao giờ lấy được ngọc.
Phải qua cửa, vào hẳn trong nhà, mới thấy ngọc, và mới tiến lên lấy ngọc.
Viên ngọc là ví với quả Phật. Vào cửa là ví với tu chứng vào Càn Tuệ Địa.
Đứng ngoài là hình ảnh những người học Phật theo văn tự, theo lý thuyết xuông, chưa từng tu chứng.
Hầu hết những người học Phật xưa nay, ở Việt Nam và thế giới, là học Phật theo văn tự, không có tu chứng, ví như người đứng ngoài cửa.
Nên đến đoạn này, đa số các nhà học Phật đều nói loanh quanh, hay là nói lược đi.
NAY CHÚNG TÔI XIN TRÌNH BÀY LỜI GIẢNG CỦA BỒ TÁT HUYỀN CƠ:
Phương pháp tu của Bồ Tát Quán Thế Âm là phương pháp tu để được nhĩ căn viên thông.
ĐÂY LÀ NGUYÊN TẮC TU THEO PHƯƠNG PHÁP ĐÓ:
1) Các tiếng động ở ngoài vào căn tai.
2) Vào rồi mất. (Sinh rồi diệt, như vạn sự ở đời). Ví dụ như cái bóng trong gương:
Vật gì đưa ra trước gương, cái gương cũng hiện bóng. Nhưng vật đi thì bóng mất, cái gương không động.
3) Tâm mình vẫn không động.
Không để ý thức phân biệt theo, chạy theo tiếng động.
4) Tiếng động vào tai rồi mất (theo lẽ sinh diệt). Tâm mình vẫn không động, vắng lặng, không phân biệt động, tĩnh. (Vì có phân biệt cái động, mới phân biệt cái tĩnh là trái lại cái động).
5) Không phân biệt động, tĩnh thì không còn năng, sở:
Không còn năng văn, sở văn;
Không còn năng giác, sở giác;
Không còn năng không, sở không;
Cho đến sinh diệt cũng không có.
(Nói lý:) Tịch diện hiện tiền.
Suốt bộ kinh Lăng Nghiêm, Phật lấy bao ví dụ để giảng nguyên tắc trên:
1) Gõ chuông.
2) Gương soi bóng.
3) Nhắm mắt thấy tối và người mù.
4) Khách trần.
5) Hoa đốm hư không.
Lối tu này thích hợp hơn các lối tu khác, đối với chúng sinh ở cõi Ta Bà này.
Tuy nhiên, các lối tu khác đều có kết quả tốt đẹp, chứng cớ là các vị thánh đã tu chứng được, và đã trình bày ở trên.
Vậy tùy trình độ các chúng sinh, ai hợp với pháp môn nào, tu pháp môn đó.
Không phải nhất định chỉ có một pháp môn. Ta nên nghiên cứu kỹ cả 25 pháp môn đã trình bày trên đây.
No comments:
Post a Comment