Tuesday, October 4, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 4)

2) - Chỉ rõ Như Lai Tạng:
Chương này chia làm 2 phần:
A/ - A Nan bỏ vọng cầu chân. Tức là chuyển đề.
B/ - Phật chỉ dạy Như Lai Tạng.

A/ - Ông A Nan bỏ vọng cầu chân:
Ông A Nan nghe Phật dạy, thương mình lầm lạc, rớt nước mắt, quỳ xuống, chắp tay bạch Phật:
"Từ khi tôi phát tâm xuất gia theo Phật, thường ỷ nơi oai thần của Phật, tự nghĩ không cần phải tu, rồi Như Lai sẽ giúp cho Chính Quả. Có biết đâu thân tâm không thay được nhau. Tôi bỏ mất bản tâm, tuy thân xuất gia, tâm chẳng vào đạo, ví như đứa con bỏ cha trốn đi, bị cùng khổ. Nay mới biết: tuy được nghe nhiều, nếu không tu hành, cũng như không được nghe. Ví như người nói ăn mà không ăn, không no được.
Bạch Thế Tôn, chúng tôi bị hai cái chướng(1) ràng buộc, là vì không biết tâm tính thường lặng.
(1) Hai cái chướng: chướng là ngăn che. Hai chướng là phiền não chướng và sở trí chướng. Phiền não chướng: là các phiền não không cho thấy Chân Lý. Sở trí chướng: các vật bị hay biết ngăn che Chân Lý.
Xin Như Lai thương xót kẻ mê lầm, chỉ dạy cái tâm nhiệm mầu, sáng suốt, và mở con mắt đạo cho chúng tôi".
B/ - Phật chỉ dạy Như Lai Tạng:
Chương này chia 3 phần:
i/ - Phật phóng quang
ii/ - Hứa chỉ dạy
iii/ - Phật chỉ Như Lai Tạng

i/ - Phật phóng quang:
Ngay lúc đó Đức Như Lai, phóng ra hào quang từ chữ "vạn"(2) ở ngực, ánh sáng rực rỡ có trăm nghìn sắc, soi khắp mười phương các cõi Phật nhiều như bụi nhỏ. Hào quang soi trên đỉnh các Đức Như Lai trong các cõi Phật rồi truyền sang ông A Nan và đại chúng.
(2) Chữ "vạn": tướng tốt ở ngực Phật. Vì Phật hoàn toàn muôn hạnh, muôn đức nên có tướng đó.
ii/ - Hứa chỉ dạy
Phật bảo ông A Nan: "Nay tôi vì ông dựng pháp trường(3) lớn, và khiến tất cả chúng sinh trong mười phương đều nhận được cái tâm thanh tịnh, sáng suốt, nhiệm mầu, và được con mắt thanh tịnh(4)".
(3) Pháp trường: Pháp của Phật cao siêu hàng phục các mê lầm, ví như đại tướng phất cờ thắng trận.
(4) Thanh tịnh: không nhìn lầm.

iii/ - Phật chỉ Như Lai Tạng:
Chương này chia 3 phần:
a/ - Nương theo tính thấy chỉ chân lý.
b/ - Chỉ bốn khoa là tính thường trú.
c/ - Tỏ bày bảy đại là tính chu biến.

a/ - Nương theo tính thấy chỉ chân lý:
Chương này chia ra 2 phần lớn:
1/ - Nương vọng hiển chân.
2/ - Phân tích vọng chỉ chân.

1/ - Nương vọng hiển chân:
Chương này chia làm 10 phần:
A# - Chỉ tính thấy là tâm.
B# - Chỉ tính thấy không động.
C# - Chỉ tính thấy không diệt.
D# - Chỉ tính thấy không mất.
E# - Chỉ tính thấy không trả lại được.
F# - Chỉ tính thấy không tạp.
G# - Chỉ tính thấy không ngăn ngại.
H# - Chỉ tính thấy bao trùm cả "chân" vọng.
I# - Chỉ tính thấy vượt trên phân biệt.
J# - Chỉ tính thấy xa cái thấy phân biệt.

A# - Chỉ tính thấy là tâm:
2 phần:
i# - Biện luận: tính thấy là tâm.
ii# - Ông A Nan chưa hiểu, mong dạy thêm. Tức chuyển đề.

i# - Biện luận: tính thấy là tâm:
a# - Không con mắt có thấy:
"Ông A Nan! trước ông đáp với tôi rằng ông thấy nắm tay sáng láng. Vì đâu mà có nắm tay sáng? Tại sao thành nắm tay? Ông lấy cái gì mà thấy?"
Ông A Nan đáp: "Thân Phật như vàng Diên Phù Đàn, chói sáng như núi báu, do trong sạch sinh ra, nên mới sáng láng. Thực là tôi lấy con mắt của tôi nhìn thấy. Năm ngón tay co lại, giơ cho người xem, nên có nắm tay."
Phật bảo ông A Nan: "Nay Như Lai nói rõ cho ông nghe. Những người có trí được hiểu rõ là nhờ ví dụ.
Ông A Nan! Ví như nắm tay tôi, nếu không có cánh tay, thì không thành nắm tay. Nếu không có con mắt ông thì không thành cái thấy của ông.
Vậy lấy con mắt của ông so sánh với nắm tay của tôi, hai cái nghĩa ấy có đồng nhau không?"
Ông A Nan đáp: "Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Nếu không có con mắt của tôi thì không thành cái thấy của tôi.
Vậy mắt tôi so với nắm tay Phật, hai nghĩa giống nhau".
Phật bảo ông A Nan: "Ông nói hai nghĩa ấy giống nhau là không đúng. Vì người không có cánh tay, thì nắm tay không có. Còn người không có con mắt, không phải hoàn toàn không có cái thấy.
Vì sao? Ông thử ra đường hỏi những người mù: "Ông có thấy gì không?" Chắc người mù đó đáp: "Nay trước mắt tôi, chỉ thấy tối đen, chứ không thấy cái chi khác."
Xét như vậy, thì biết: cảnh trước mắt tự tối, chứ cái thấy không bị hao kém".
b# - Thấy tối là có thấy:
Ông A Nan bạch: "Người mù chỉ thấy tối đen trước mắt, sao gọi là thấy?"
Phật hỏi ông A Nan: "Người mù không có con mắt, chỉ thấy tối đen, cùng với người có mắt sáng nhưng ở trong nhà tối, hai cái tối đen ấy khác nhau hay không?"
"Bạch Thế Tôn! Hai cái tối đen đó, đem ra so sánh không khác gì nhau."
c# - Biện luận: thấy là tâm:
Phật dạy: "Ông A Nan! Như người không có con mắt, trước mắt chỉ thấy tối đen. Bỗng nhiên được con mắt sáng, thấy rõ các vật. Như thế gọi là con mắt thấy.
Vậy người ở trong nhà tối, trước mắt cũng chỉ thấy tối đen, bỗng nhiên được có đèn sáng, thấy rõ các vật. Đáng lẽ cũng gọi là: cái đèn thấy!
Nếu thực đèn thấy, đèn đã thấy được, tất không thể gọi là cái đèn. Huống chi cái đèn đã tự thấy được, thì không liên quan gì đến ông, mà gọi là ông thấy. Vậy nên biết: Đèn làm sáng các vật, nhưng con mắt thấy chứ không phải đèn.
Mắt làm rõ các vật, nhưng tâm thấy chứ không phải con mắt.
ii# - Ông A Nan chưa hiểu, mong dạy thêm:
Ông A Nan tuy được nghe Phật dạy như vậy, cùng với đại chúng chỉ ngồi lặng im, tâm chưa được hiểu, còn trông mong đức Như Lai từ tâm chỉ bảo, chắp tay lắng lòng chờ nghe lời Phật.
B# - Chỉ tính thấy không động:
3 phần:
i# - Biện định 2 chữ khách, bụi.
ii# - Chỉ rõ tính thấy không động.
iii# - Phật trách Đại chúng.

i# - Biện định 2 chữ khách, bụi:
Bấy giờ đức Thế Tôn duỗi cánh tay mềm mại, chói sáng, tốt đẹp, mở năm ngón tay, bảo ông A Nan và Đại chúng: "Hồi tôi mới thành đạo ở vườn Lộc Uyển, có dạy năm ông Tỳ Kheo nhóm ông A Nhã Đa, và trong tứ chúng: Tất cả chúng sinh không thành Bồ Đề(1) và A La Hán, là vì những phiền não như khách, bụi, mê hoặc. Khi đó, các ông vì sao mà tỏ ngộ, nay được Thánh Quả?"
(1) Chứng quả Phật.
Ông Kiền Trần Na đứng dậy bạch Phật:
"Tôi nay đã già, ở trong đại chúng, được tiếng là giải(2), vì ngộ được hai chữ khách, bụi mà chứng quả thánh.
(2) hiểu đạo.
Bạch Thế Tôn! Ví như người khách đi đường, nghỉ tạm trong quán, ngủ hay là ăn, ăn ngủ xong lại mang đồ lên đường, không thong thả ở yên mãi nơi đó. Nếu thực là người chủ, không còn phải đi đâu nữa.
Tôi suy nghĩ: khách là người không ở mãi. Chủ là người ở mãi. Vậy khách nghĩa là không ở mãi.
Lại như khi buổi sáng, mặt trời mọc, ánh sáng chiếu qua khe cửa vào nhà, ta thấy trong ánh nắng bao nhiêu bụi nhỏ lăng xăng ở hư không. Bụi chạy lăng xăng, còn hư không êm lặng.
Tôi suy nghĩ: hư không yên lặng, bụi lay động. Vậy bụi có đặc tính là lay động."
Phật dạy: "Phải đó."
ii# - Chỉ rõ tính thấy không động:
a# - Đối cảnh ngoài để chỉ không động:
Đức Như Lai ở trong đại chúng nắm bàn tay lại, rồi mở ra, mở rồi nắm lại, hỏi ông A Nan: "Ông thấy gì?". Ông A Nan đáp: "Tối thấy bàn tay quý báu của Phật khi nắm, khi mở."
Phật hỏi: "Ông thấy bàn tay tôi mở, nắm, là tại bàn tay tôi có nắm có mở, hay là cái thấy của ông có nắm, có mở?"
Ông A Nan đáp: "Bàn tay quý báu của Phật khi nắm, khi mở. Tôi thấy tay Phật tự nắm, tự mở, chứ không phải tính thấy của tôi có nắm, có mở."
Phật hỏi: "Cái nào động, cái nào tĩnh?"
Ông A Nan đáp: "Tay Phật động, còn tính thấy của tôi đến không có cả tĩnh, huống chi là động."
Phật dạy: "Phải đó".
b# - Lấy ví dụ ở thân để chỉ không động:
Khi đó, đức Như Lai phóng một đạo hào quang từ bàn tay qua bên phải ông A Nan. Ông quay đầu nhìn qua bên phải. Phật lại phóng một đạo hào quang qua bên trái ông. Ông quay đầu nhìn sang bên trái.
Phật hỏi ông A Nan: "Tại sao hôm nay đầu ông lại lay động?"
Ông A Nan đáp: "Tôi thấy đức Như Lai phóng hào quang báu bên phải, bên trái tôi, nên tôi nhìn sang bên phải, bên trái. Đầu tôi tự quay đi quay lại."
- "A Nan! Ông nhìn hào quang, quay đầu sang phải, sang trái: Đó là đầu ông động hay cái thấy của ông động?"
- "Bạch Thế Tôn, đầu tôi tự động. Còn tính thấy của tôi đến không có cả tĩnh, huống chi là động."
Phật dạy: "Đúng đó."
iii# - Phật trách đại chúng:
Khi đó đức Như Lai bảo cả đại chúng:
"Chúng sinh cho bụi là lay động, cho khách là không ở mãi. Các ông thấy đầu ông A Nan tự lay động, còn tính thấy không động. Tay tôi mở nắm, tính thấy không mở nắm.
Làm sao các ông lấy động làm thân, lấy động làm cảnh. Từ đầu đến cuối, niệm niệm sinh diệt(1), bỏ mất chân lý, làm việc trái ngược(2), nhận vật làm mình, nên tự buộc mình trong vòng luân hồi sinh tử."
(1) niệm niệm sinh diệt: niệm mới sinh, đã diệt, niệm khác nối tiếp.
(2) trái ngược: trái với chân lý.


BÌNH LUẬN
Nay ta nghiên cứu chương lớn:
2) - Chỉ rõ Như Lai Tạng.
Chương này là phần thứ hai của chương:
a) - Phật phá vọng hiển chân.
Chương này chia làm 2 phần:
1) - Phá chỗ chấp vọng tâm.
2) - Chỉ rõ Như Lai Tạng.
Ta đã nghiên cứu xong phần:
1) - Phá chỗ chấp vọng tâm.
Nay ta nghiên cứu sang phần:
2) - Chỉ rõ Như Lai Tạng.

 Chương này cũng chia làm hai phần:
A/ - A Nan bỏ vọng cầu chân. Tức là chuyển đề và đặt vấn đề mới.
B/ - Phật chỉ dạy Như Lai Tạng.

A/ - Ông A Nan bỏ vọng cầu chân:
Ông A Nan được Phật chỉ cho cái lầm lớn lao của mình là lầm chấp cái vọng tưởng làm tâm. Ông khẩn cầu Phật chỉ dạy chân lý, để ông theo đó tu tập, chứng quả Phật.
B/ - Phật chỉ dạy Như Lai Tạng:
Đây là phần chính của chương 2) - Chỉ rõ Như Lai Tạng.
Phần này rất lớn, chia làm 3 phần:
i/ - Phật phóng quang
ii/ - Hứa chỉ dạy
iii/ - Phật chỉ Như Lai tạng. Đây là phần chính.

Nay ta nghiên cứu phần:
iii/ - Phật chỉ Như Lai Tạng.
Chương này rất lớn, chia làm 3 phần lớn:
a/ - Nương theo tính thấy chỉ Chân Lý.
b/ - Chỉ 4 khoa là tính thường trú.
c/ - Tỏ bày 7 đại là tính chu biến.

Nay ta nghiên cứu phần lớn:
a/ - Nương theo tính thấy chỉ chân lý.
Chương này lại chia làm 2 phần lớn:
1/ - Nương vọng hiển chân.
2/ - Phân tích vọng chỉ chân.

Nay ta nghiên cứu phần:
1/ - Nương vọng hiển chân.
Thế nào gọi là: nương vọng hiển chân?
Chân tức là Chân Lý, tức là cảnh giới Phật tu chứng đến, chỉ có Phật mới thấy rõ, mới hiểu được. Chúng ta là chúng sinh muốn hiểu cảnh giới này, cũng ví như con kiến muốn hiểu mặt trời và vũ trụ.
Phật có lòng từ bi vô lượng, muốn cho ta thành Phật, mới chỉ cho ta cảnh giới Chân.
Việc đó cũng khó khăn như ta giảng cho kiến hiểu mặt trời, trái đất và vũ trụ.
Phật phải dùng phương tiện: "lấy vọng chỉ Chân". Cũng ví dụ như ta lấy con mèo để tả con hổ, để giảng cho người chưa từng thấy con hổ.

 Tuy con mèo không phải là con hổ, tuy con mèo khác xa con hổ, nhưng nhờ con mèo, ta có thể tả đại khái những đặc tính của con hổ. Người nghe cũng có một ý niệm khái quát về con hổ.
Ở phần này, Phật lấy "tính thấy" là cái chúng ta có thể nhận xét được, để tả những đặc tính của cảnh giới Phật.
Ta có thể nương nào lời Phật dạy, nương vào "tính thấy", để có một ý niệm về Chân Lý. Như thế rất có lợi cho sự tu học. Đó là phương tiện: "nương vọng hiển chân."
Chương này chia làm 10 phần lớn:
A# - Chỉ tính thấy là tâm
B# - Chỉ tính thấy không động.
C# - Chỉ tính thấy không diệt.
D# - Chỉ tính thấy không mất.
E# - Chỉ tính thấy không chỗ trả về.
F# - Chỉ tính thấy không tạp.
G# - Chỉ tính thấy không bị ngăn ngại.

 H# - Chỉ tính thấy bao trùm cả chân vọng.
I# - Chỉ tính thấy vượt trên phân biệt.
J# - Chỉ tính thấy xa cái thấy biết.

Nay ta nghiên cứu phần:
A# - Chỉ tính thấy là tâm.

 i# - Không con mắt có thấy.
Phật lấy ví dụ: Nhờ cánh tay, mới có nắm tay, nhờ có con mắt, mới có cái thấy.
Phật bảo: không cánh tay, thì không có nắm tay. Nhưng không có con mắt, không phải là không có cái thấy.
Chứng cớ: hỏi người mù thấy chi? Người đó đáp: thấy tối.
Đây ta thấy Phật đưa ra một điểm lạ. Nhiều chúng sinh yên trí, không có con mắt thì không thấy, vì chúng sinh đó quá lệ thuộc cho con mắt.
Chính tính thấy bao giờ cũng có, không vì con mắt mà tăng lên hay giảm đi.
Cảnh trước mắt tối hay sáng, là đặc tính của cảnh.
Tính thấy vẫn có đó. Đừng tưởng không con mắt thì không có tính thấy. Cũng như cảnh có tối đen, tính thấy vẫn thế.
ii# - Thấy tối là có thấy.
Ông A Nan cãi: người mù chỉ thấy tối đen, sao gọi là thấy?
Phật nói: "Người ở trong nhà tối, chỉ thấy tối đen, so với cái tối đen của người mù, hai cái tối cũng giống nhau, vậy thấy tối là có thấy."
iii# - Thấy là tâm.
Phật dạy: Như người mù, bỗng được mắt sáng, gọi là con mắt thấy.
Vậy người ở trong nhà tối, bỗng có đèn sáng, nhìn rõ các vật. Đáng lẽ cũng gọi là: cái đèn thấy!!
Nói: "cái đèn thấy" ta thấy buồn cười.
Thế thì câu: "con mắt thấy" cũng là sai.
Vậy ta phải nhận định rõ điều này:
1) Đèn soi sáng, nhưng con mắt thấy chứ không phải đèn.
2) Mắt là cơ quan để nhìn, nhưng tâm thấy chứ không phải con mắt.
Ý Phật nêu ra lý này: "một đặc tính của Chân Lý, là Chân Lý bao giờ cũng có, không bị hoàn cảnh ảnh hưởng. Ví dụ như cái thấy, bao giờ nó cũng có. Nếu có đèn sáng, hay có con mắt, tính thấy thấy các vật. Nhưng nếu không có đèn hay con mắt, tính thấy vẫn còn đó, không mất đi."

B# - Chỉ tính thấy không động.
Phần này rất quan trọng. Phật nêu nguyên tắc để biết rõ chân vọng. Người tu nên căn cứ theo đây mà suy ngẫm, sẽ tiến nhiều trên đường Chân Lý.
i# - Biện định hai chữ khách, bụi.
Ông Kiều Trần Na định nghĩa hai chữ kháchbụi.
a) Khách: Trên đường xa, có quán trọ. Người khách đi đường nghỉ tạm một đêm, rồi sáng hôm sau lại đi.
Trái lại, người chủ ở mãi trong quán.
Vậy khách có đặc tính là không ở mãi.
b) Bụi: Buổi sáng, ánh sáng mặt trời chiếu qua khe cửa vào nhà Ta thấy trong tia nắng rất nhiều bụi nhỏ lăng xăng.
Trái lại, hư không êm lặng.
Vậy bụi có đặc tính là lay động.
ii# - Chỉ rõ tính thấy không động.
a# - Đối cảnh ngoài để chỉ không động.

 Phật nắm bàn tay lại, rồi mở ra, nắm vào.
Phật hỏi: Tay Phật động, hay tính thấy động?
Ông A Nan thấy rõ là: tay Phật động, còn tính thấy không động.
"Tính thấy không động", đó là hình ảnh của chân lý.
"Tay Phật động", đó là hình ảnh của ngoại cảnh.
Tất cả thế giới, chúng sinh đều biến chuyển, đều động. Tất cả cảnh đời đều động.
Chân lý không động.
b# - Lấy ví dụ ở thân để chỉ không động.
Phật phóng hào quang để đầu ông A Nan quay đi quay lại.
Phật hỏi: đầu ông động hay tính thấy của ông động?

 Ông A Nan thấy rõ: đầu ông động.
Còn tính thấy không động.
"Đầu ông A Nan động", đó là hình ảnh của nội thân chúng sinh. Nội thân hoạt động luôn luôn, thích ứng với hoàn cảnh.

 "Tính thấy không động", đó là hình ảnh của Chân Lý.
Thân chúng ta động, hoạt động luôn luôn, bị hoàn cảnh lôi kéo.

 Chân lý không động.

 iii# - Phật trách đại chúng.
Ta thấy rõ:
"Bụi" lay động.
Trái lại, hư không không động.
"Khách" dời đổi.

 Trái lại, chủ ở yên một chỗ.

 Đầu ông A Nan động.
Trái lại, tính thấy không động.

 Tay Phật động.
Trái lại, tính thấy không động.
Ta nên suy xét thật kỹ:
Bụi là động. Đầu ông A Nan động. Tay Phật động.
Đó là hình ảnh của cảnh đời, của mọi sự vật ở thế gian. Mọi sự vật đều biến chuyển trên dòng thời gian vô tận.
Thân mình cũng biến chuyển luôn luôn.

 Trái lại, hư không không động. Tính thấy không động.
Đó là hình ảnh của Chân Lý, của cảnh giới Phật.
"Động" là khách.
"Không động" là chủ.
Cảnh ngoài là khách, thân chúng sinh là khách.
Chân lý là chủ.
Phật trách đại chúng:
"Các ông lấy động làm thân, lấy động làm cảnh, nhận vật làm mình.
Hành động thật là trái ngược: không theo chân lý, cứ chạy theo vọng tưởng. Không theo "không động", cứ chạy theo động.
Bởi thế tự buộc mình trong vòng luân hồi sinh tử."

 Câu này dạy ta rất nhiều.
Đây là phần căn bản để ta hiểu đạo và tu chứng. Ta hãy phân biệt: chủ và khách, bụi và hư không, chân và vọng, động và không động.
Ta hãy lặng lẽ tự xét ta, xét người, xét đời. Ta khách quan, đứng ra ngoài cuộc đời mà quan sát, ta sẽ tỉnh ngộ rất nhiều.
Mắt ta sáng suốt hơn, nhìn đời rõ ràng hơn. Những cái gì thuộc về "khách", thuộc về "động", tức là thuộc về "vọng". Ta đừng bám chấp, quyến luyến, thiết tha nữa. Ta can đảm đẩy bỏ đằng sau như người đi tiêu, tống các đồ nhơ.

 Chính chúng làm cho ta đau khổ, mê lầm. Còn cái gì thuộc về "chủ" về "chân lý" tức là thuộc về "không động".
Hình ảnh: "bụi và hư không" sẽ giúp ta rất nhiều để suy ngẫm.
Tóm lại, châm ngôn của ta là:
"Không bị cảnh chuyển".
"Đối cảnh không sinh".

 Kìa như hư không, dù bụi bay loạn xạ đến đâu, hư không vẫn không bị lay chuyển.
Ta quán sát, tu tập mãi, cho đến khi: "cảnh không chuyển nổi ta".
Cảnh không làm ta mê đắm, không làm ta vui vẻ, phấn khởi, hay đau buồn, chán nản, lo âu, phiền não. Ta nương theo "hư không", nương theo "không động" mà tu tập. Ta theo đúng con dường thẳng tới Chân Lý.

No comments:

Post a Comment