Monday, October 31, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 34)

C# - Ông Hương Nghiêm nói hương trần:
Ông Hương Nghiêm đồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi nghe đức Như Lai dạy tôi kỹ càng quán sát các tướng hữu vi. Sau khi từ tạ Phật về nhà thanh trai, gặp lúc các Tỳ Kheo đốt hương trầm thủy. Hương thơm lặng lẽ bay vào trong mũi. Tôi quán sát mùi hương này chẳng phải gỗ, chẳng phải hư không, chẳng phải khói, chẳng phải lửa, đến không từ đâu, đi không biết đến đâu. Bởi vậy ý tiêu mất, phát minh được trí vô lậu. Đức Phật ấn chứng tôi hiệu là Hương Nghiêm. Mùi hương là trần bỗng diệt. Diệu hương được mật viên. Tôi nhờ hương nghiêm chứng A La Hán. Phật hỏi viên thông. Như tôi chứng là nhờ hương nghiêm. Đó là trên hết.
D# - Các ông Dược Vương, Dược Thượng nói vị trần:
Hai vị Pháp Vương Tử Dược Vương, Dược Thượng, cùng 500 Phạm Thiên trong hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Chúng tôi từ kiếp vô thủy làm lương y trong đời. Miệng từng nếm các loài cỏ, cây, kim thạch của thế giới Ta Bà, số đến 10 vạn 8 nghìn. Từng biết các vị đắng, chua, mặn, ngọt, cay, các món hòa hợp, chung sinh, biến dị, cho đến là nóng, là lạnh, có độc, không độc, thảy đều biết.
Sau lại nhân kính thờ đức Như Lai, rõ biết tính của vị chẳng phải không, chẳng phải có, chẳng phải nơi thân tâm, chẳng rời thân tâm.
Nhờ phân biệt các vị mà được khai ngộ. Được Phật ấn chứng anh em tôi là Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dược Thượng. Nay làm Pháp Vương Tử trong hội này. Nhân nơi vị mà được giác minh lên hàng Bồ Tát. Phật hỏi viên thông. Chúng tôi chứng nhờ quán nơi vị. Đó là trên hết.
E# - Ông Bạt Đà nói xúc trần:
Ông Bạt Đà Bà La với 16 người bạn Bồ Tát sơ phát tâm, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Chúng tôi thuở trước, nơi chỗ đức Phật Uy Âm Vương, nghe pháp xuất gia. Theo lệ chúng Tăng tắm gội, vào nhà tắm. Bỗng giác ngộ nước là trần, thân cũng là trần, trần chẳng tẩy trần, cũng chẳng tẩy thể. Giữa 2 sự đó được yên lặng, được biết cảm giác không phải có. Cái thói quen cũ không quên. Cho đến ngày nay, theo Phật xuất gia, chứng được vô học. Đức Phật kia đặt tên tôi là Bạt Đà Bà La. Do nơi diệu xúc phát minh, thành vị trụ Phật tử. Phật hỏi viên thông. Tôi chứng nhờ quán nơi xúc. Đó là trên hết.
F# - Ông Ca Diếp nói pháp trần:
Ông Ma Ha Ca Diếp và tỳ kheo ni Tử Kim Quang liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Chúng tôi nhớ kiếp trước trong thế giới này, có đức Phật xuất thế tên là Nhật Nguyệt Đăng. Tôi được thân cận, nghe pháp tu học. Sau khi đức Phật đó diệt độ, tôi cúng dường ngọc xá lỵ của Phật, thắp đèn sáng luôn. Lấy vàng tử kim quang tô thiếp hình tượng Phật. Từ ấy đến nay, đời đời kiếp kiếp, thân thường viên mãn, sáng chói như đống vàng. Vị tỳ kheo ni Tử Kim Quang này là quyến thuộc của tôi, đồng thời phát tâm.
Tôi quán sát trong đời sáu trần biến hoại, chỉ tu theo không tịch, tu nơi "diệt tận định". Thân tâm có thể vượt trăm nghìn kiếp dường như trong giây phút. Tôi do quán pháp không tịch mà chứng A La Hán. Phật nói tôi tu hạnh Đầu Đà hơn hết. Diệu pháp mở sáng, tiêu diệt các hoặc lậu. Phật hỏi viên thông. Tôi chứng là nhờ quán nơi pháp. Đó là trên hết.
2/ - Ngũ căn viên thông:
A# - Ông A Na Luật Đà nói nhãn căn:
Ông A Na Luật Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi lúc mới xuất gia, thường thích ngủ nghỉ. Phật quở tôi là loài súc sinh. Tôi khóc và tự trách, bảy ngày chẳng ngủ, hư hai con mắt. Phật dạy tôi tu phép tam muội tên là "nhạo kiến chiếu minh kim cương".
Tôi chẳng nhờ con mắt, xem thấy mười phương, cái tinh chân rỗng suốt, như nhìn cái quả cầm trong bàn tay.
Như Lai ấn chứng cho tôi thành A La Hán.
Phật hỏi viên thông. Tôi chứng là nhờ xoay kiến căn theo bản nguyên. Đó là thứ nhất.
B# - Ông Chu Lợi nói tỵ căn:
Ông Chu Lợi Bàn Đặc Ca liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi vì thiếu công phu tụng trì, nên trí ngu độn. Lúc đầu gặp Phật, nghe pháp xuất gia. Học một câu kệ của Phật trong 100 ngày mà không thuộc. Nhớ trước quên sau, nhớ sau quên trước. Phật thương tôi ngu mê, dạy tôi yên cư, cứ tập đều hơi thở ra vào. Khi đó tôi quán sát hơi thở nhỏ nhiệm, cho đến cùng tột, thấy các hạnh sinh, trụ, dị, diệt từng mỗi sát na. Tâm được rỗng thông, rất được vô ngại. Cho đến dứt hết lậu hoặc, thành A La Hán. Nơi dưới cái Phật tọa, được ấn chứng thành vô học. Phật hỏi viên thông. Tôi chứng nhờ xoay quán hơi thở theo không. Đó là thứ nhất.
C# - Ông Kiều Phạm nói thiệt căn:
Ông Kiều Phạm Bát Đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi có bị cái khẩu nghiệp, đời quá khứ khinh vị Sa Môn, đời đời kiếp kiếp có bệnh miệng nhai chóp chép như con trâu.
Phật dạy tôi tu pháp môn "nhất vị thanh tịnh tâm địa(1)". Tâm tôi được tịch diệt, vào tam ma địa. Quán sát (xem xét) cái tính biết vị chẳng phải thể, chẳng phải vật. Tức thì được siêu thoát các hoặc lậu trong thế gian. Trong thoát bỏ thân tâm, ngoài thoát bỏ thế giới. Xa lìa ba cõi, như chim ra khỏi lồng. Xa trần cấu, con mắt pháp thanh tịnh . Thành A La Hán. Như Lai ấn chứng tôi thành đạo vô học. Phật hỏi viên thông. Tôi chứng nhờ xoay lại quán sát tính biết vị. Ấy là thứ nhất.
(1) Trong tâm chỉ có 1 cái, không gì xen vào. Pháp gì cũng được: niệm Phật, đếm hơi. Thành định rồi phát tuệ.
D# - Ông Tất Lăng nói thân căn:
Ông Tất Lăng Già Bà Ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch:
Lúc tôi mới phát tâm theo học Phật học đạo, hằng nghe Phật nói trong đời, các việc không thể vui. Một buổi, tôi đi khất thực trong thành, tâm suy nghĩ Pháp môn. Chẳng ngờ giữa đường đạp phải gai độc. Cả thân thể đều đau nhức. Tôi nghĩ rằng có cái biết, biết cái đau ấy. Dù cái giác biết đau, mà cái giác là thanh tịnh tâm, không có cái đau gì làm đau được cái giác ấy. Tôi lại ngẫm nghĩ, như vậy một thân, đâu có hai thứ giác. Thu nhiếp niệm chưa bao lâu, thân tâm bỗng không. Trong 21 ngày, các hoặc lậu tiêu hết, thành A La Hán. Được Phật ấn chứng, phát minh vô học. Phật hỏi viên thông. Tôi chứng là nhờ xả bỏ thân căn, thuần tính giác. Ấy là thứ nhất.
E# - Ông Tu Bồ Đề nói ý căn:
Ông Tu Bồ Đề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch:
Tôi từ nhiều kiếp đến nay, tâm được vô ngại. Tự nhớ lúc thụ sinh, thân nhiều như số cát sông Hằng. Lúc còn ở trong thai, đã liền rõ biết lý "Không tịch". Như vậy cho đến thấy mười phương toàn không, cũng khiến chúng sinh chứng được không tính. Nhờ Như Lai phát minh "tính giác chân không", không tính viên minh, chứng A La Hán. Mau vào "bảo minh không hải" của Như Lai, đồng Phật tri kiến. Được ấn chứng thành bậc vô học. Giải thoát tính không. Tôi là vô thượng. Phật hỏi viên thông, tôi chứng nhờ tiêu dung các tướng, xoay pháp về không.
Ấy là thứ nhất.
3/ - Lục thức viên thông:
A# - Ông Xá Lỵ Phất nói nhãn thức:
Ông Xá Lỵ Phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi từ nhiều kiếp đến nay, tâm kiến (nhãn thức) thanh tịnh. Như vậy thụ sinh, thân nhiều như số cát sông Hằng. Các vật biến hóa ở thế gian và xuất thế gian, hễ thấy liền thông đạt, không bị chướng ngại. Ở giữa đường, tôi gặp anh em ông Ca Diếp Ba tỏ nói nghĩa nhân duyên, rõ biết cái tâm bao la, không biên giới. Theo Phật xuất gia, cái kiến giác viên minh, được rất vô úy(1). Thành A La Hán, làm trưởng tử Phật. Từ miệng Phật mà có, từ nơi pháp Phật hóa sinh. Phật hỏi viên thông. Tôi chứng là nhờ tâm kiến phát quang, sáng cùng tột tri kiến.
(1) Rất tự tại, vì biết rõ, không sợ.
Ấy là thứ nhất.
B# - Bồ Tát Phổ hiền nói nhĩ thức:
Bồ Tát Phổ Hiền liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi đã từng làm Pháp Vương tử với hằng hà sa đức Như Lai. Mười phương các đức Như Lai dạy các đệ tử có tâm hồn Bồ Tát, tu theo hạnh Phổ Hiền, đều lấy tên tôi.
Bạch Thế Tôn, tôi dùng cái tâm nghe (nhĩ thức), phân biệt các tri kiến của chúng sinh. Nếu ở phương khác, cách xa hằng sa thế giới, có một chúng sinh trong tâm phát minh hạnh Phổ Hiền, tôi liền cỡi voi sáu ngà, phân thân cả trăm nghìn, đến chỗ người đó. Dù cho người kia bị chướng nhiều, chưa được thấy tôi. Tôi vẫn bí mật xoa đầu, ủng hộ, và an ủi, khiến cho người đó được thành tựu.
Phật hỏi viên thông, tôi nói bản nhân là tâm nghe phát minh, phân biệt tự tại. Ấy là thứ nhất.
C# - Ông Tôn Đà nói tỵ thức:
Ông Tôn Đà La Nan Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch:
Tôi ban đầu xuất gia theo Phật học đạo, dù đủ giới luật, nhưng khi tu định tam ma địa, tâm thường tản động, chưa được vô lậu. Phật dạy tôi với ông Cu Si La quán sát trên chóp mũi.
Tôi bắt đầu quán tưởng. Trải qua 21 ngày, thấy từ trong mũi hơi ra vào như khói. Thân tâm thế giới trong ngoài rỗng suốt, thảy đều trong sạch như ngọc lưu ly. Tướng khói dần tiêu, hơi thở hóa ra sắc trắng. Tâm khai ngộ, các mê lậu hết. Hơi thở hóa ra sáng chói, chiếu mười phương thế giới.
Chứng A La Hán. Phật ghi tôi sẽ được Bồ Đề.
Phật hỏi viên thông. Tôi do tiêu diệt hơi thở, quán sát lâu phát minh, sáng được viên mãn, dứt mê lậu. Ấy là đệ nhất.
D# - Ông Phú Lâu Na nói thiệt thức:
Ông Phú Lâu Na di đa la ni tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi từ nhiều kiếp đến nay, biện tài vô ngại. Tuyên nói các pháp "khổ, không", rất thông đạt thực tướng. Như vậy cho đến tất cả pháp môn bí mật của hằng sa Như Lai, tôi giữa đại chúng, nhiệm màu khai thị, được vô sở úy. Thế Tôn biết tôi có đại biện tài, nên dùng âm thanh tuyên nói pháp luân, dạy tôi đem ra truyền bá.
Tôi ở trước Phật, dùng tiếng thuyết pháp như sư tử rống, giúp Phật chuyển pháp luân, được thành A La Hán. Phật ấn chứng tôi là thuyết pháp hay nhất. Phật hỏi viên thông. Tôi do pháp âm, hàng phục ma oán, tiêu diệt các lậu. Ấy là thứ nhất.
E# - Ông Ưu Ba Ly nói thân thức:
Ông Ưu Ba Ly liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi đích thân theo Phật vượt thành xuất gia, thấy Phật sáu năm siêng khổ, thấy Như Lai hàng phục các ma, chế các ngoại đạo, giải thoát các mê hoặc, tham dục ở thế gian. Tôi nhờ Phật dạy giới luật, như vậy cho đến 3000 uy nghi, 80000 hạnh vi tế, về tính nghiệp(1), giá nghiệp(2), thảy đều thanh tịnh, thân tâm tịch diệt, thành A La Hán.
Tôi là người làm cương kỷ trong đại chúng của Như Lai, Phật ấn chứng tôi tâm trì giới tu thân, trong chúng được suy tôn hơn hết.
Phật hỏi viên thông, tôi do luật giữ gìn thân(3), thân được tự tại, lần lữa giữ gìn tâm(4), tâm được thông đạt. Rồi sau thân tâm, tất cả được thông lợi. Ấy là thứ nhất.
(1) Tính nghiệp: giữ ác.
(2) Giá nghiệp: trợ duyên cho sự ác.
(3) Phải giữ gìn thân trước, cho khỏi phạm.
(4) Cho tâm đừng khởi. Cốt giữ tâm.

F# - Ông Mục Kiền Liên nói ý thức:
Ông Đại Mục Kiền Liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi lúc ban sơ đi khất thực, gặp ba anh em ông Ca Diếp Ba, là các ông Ưu Lâu Tần Loa, Già Da, Na Đề, tỏ nói các pháp nhân duyên của Như Lai, nghĩa thâm diệu. Tôi mau phát tâm, được đại thông đạt(1). Phật ban cho tôi áo cà sa đắp nơi thân. Tôi cạo bỏ râu tóc, đi mười phương, được không chướng ngại, thần thông phát minh. Tôi được coi là hơn hết. Thành A La Hán. Chẳng cứ một mình Thế Tôn, mà mười phương Như Lai đều khen tôi thần lực viên minh thanh tịnh, tự tại vô úy. Phật hỏi viên thông, tôi do xoay cái ý thức về trạm tính, tâm quang phát minh, như lắng nước đục, lâu thành trong suốt. Ấy là thứ nhất.
(1) Trong ý thức không còn bị buộc, biết cái gì, mắc cứng trong đó. Nay rất thông đạt, hiểu biết chân lý, thông suốt, không bị ngăn ngại.
4/ - Thất đại viên thông:
A# - Ông Ô Sô nói hỏa đại:
Ông Ô Sô Sắc Ma ở trước Như Lai, chắp tay đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi thường nhớ lâu xa kiếp trước, tính nhiều tham dục. Có đức Phật ra đời tên là Không Vương. Ngài dạy: "người đa dâm thành đống lửa mạnh". Ngài dạy tôi quán sát khắp thân thể, tay chân, xương cốt, các khí nóng lạnh. Thần quang bề trong đứng lặng(1), hóa cái tâm đa dâm thành lửa trí tuệ. Chư Phật đều gọi tôi là hỏa đầu(2). Tôi do cái sức "hỏa quang tam muội" thành A La Hán. Tâm phát nguyện lớn: "Chư Phật thành đạo, tôi làm lực sỹ để dẹp phá ma oán".
(1) Bề trong tâm chuyến chú về một cảnh, đứng lặng, tâm quang thành diệu dụng phát sáng.
(2) Từ lửa dục mà chứng quả.

Phật hỏi viên thông, tôi do quán sát các xúc nóng nơi thân tâm, không ngại, lưu thông, các hoặc lậu đã tiêu hết, sinh lửa trí tuệ sáng chói, chứng vô thượng giác. Ấy là thứ nhất.
B# - Trì Địa nói địa đại:
Trì Địa Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch Phật:
Tôi nhớ thuở trước đức Phổ Quang Như Lai xuất hiện ra đời, Tôi là Tỳ Kheo thường hay sửa sang những đoạn đường, bến nước gập ghềnh, lồi lõm làm hư tổn xe ngựa. Tôi chịu khó nhọc làm cầu, đắp đường, trải qua vô lượng Phật xuất hiện ra đời.
Hoặc có chúng sinh ở chỗ chợ búa, cần người mang đồ, tôi liền vác giúp đến nơi đến chốn mà chẳng lấy tiền.
Trong thời kỳ đức Phật Tỳ Xá Phù hiện ra đời, nhằm lúc bị đói, tôi lại cõng người, không hỏi gần xa, chỉ lấy một đồng tiền. Hoặc có xe và trâu bò bị xa chỗ bùn lầy, tôi có thần lực, xô, kéo chúng ra khỏi khổ não.
Trong lúc vị Quốc Vương mời Phật đến ăn cơm chay, tôi lại sửa đường, chờ Phật. Đức Tỳ Xá Như Lai xoa đầu tôi và bảo: "Nên bình tâm địa, thì thế giới địa, tất cả đều bình".
Tâm tôi liền khai ngộ, thấy vi trần trong thân và tạo ra thế giới đều không sai khác. Tự tính của vi trần không chạm lẫn nhau, cho đến đao binh không hề đụng chạm.
Tôi nơi pháp tính(1) ngộ vô sinh nhẫn, thành A La Hán.
(1) Chân lý.
Nay tôi hồi tâm vào trong vị Bồ Tát, nghe các Như Lai nói pháp Diệu Liên Hoa để chỉ chỗ tri kiến của Phật. Tôi được chứng minh trước, làm vị thượng thủ.
Phật hỏi viên thông, tôi do kỹ càng quán sát thân và giới, hai thứ vi trần đều không sai khác, gốc Như Lai tạng, hư vọng phát trần. Trần tiêu, trí viên mãn, thành đạo vô thượng. Ấy là thứ nhất.
C# - Nguyệt Quang nói thủy đại:
Nguyệt Quang đồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch:
Tôi nhớ thuở trước, từ kiếp số hằng sa, có Phật xuất thế tên là Thủy Thiên, dạy các vị Bồ Tát tu tập phép quán nước, vào tam ma địa. Tôi quán sát trong thân, thủy tính dung thông. Bắt đầu từ đờm, nước mắt, đến những mồ hôi, tinh huyết, đại tiện, tiểu tiện, qua lại trong thân, vẫn đồng một tính nước. Thấy nước trong thân và nước ngoài thế giới, các bể Hương thủy trong cõi Phù Tràng Vương, đều không sai khác. Lúc đó tôi mới tập, chỉ thấy nước, chưa được thân vô ngại.
Đương lúc tôi làm Tỳ Kheo, tọa thiền trong nhà. Đệ tử tôi từ cửa sổ nhòm vào, chỉ thấy nước trong đầy khắp nhà, không thấy vật gì khác. Đồng tử không biết, lấy một viên ngói ném xuống nước có tiếng bõm. Xem rồi bỏ đi. Khi xuất định, tôi thấy đau bụng, như ông Xá Lợi Phất bị quỷ hại. Tôi ngẫm nghĩ, nay đã được A La Hán, khỏi bệnh duyên đã lâu, sao nay lại sinh đau bụng, hoặc là thoái thất chăng?
Khi đó đồng tử liền kể lại việc trước. Tôi dặn:
"Khi người thấy nước nữa, nên mở cửa vào trong nước đó, lấy viên ngói đi". Đồng tử vâng lời. Khi tôi nhập định, hắn lại thấy nước, viên ngói còn nguyên. Hắn mở cửa vào lấy viên đó ra. Sau tôi xuất định, thân thể an lành như trước.
Gặp vô lượng Phật, cho đến lúc gặp đức Sơn Hải Tư Tại Thông Vương Như Lai, mới được không thân(1). Với mười phương thế giới, các bể hương thủy, tính hợp chân không, không hai không khác. Nay ở chỗ Phật, được cái tên đồng chân(2), dự Bồ Tát hội.
(1) Giải thoát cái thân.
(2) Đức lớn, chân thuần như đứa trẻ.

Phật hỏi viên thông, tôi do thủy tính, một vị lưu thông, được vô sinh nhẫn, viên mãn Bồ Đề. Ấy là thứ nhất.
D# - Lưu Ly nói phong đại:
Ông Lưu Ly Quang Pháp vương tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi nhớ thuở trước, trải qua hằng sa kiếp, có Phật xuất thế tên là Vô Lượng Thanh, khai thị Bồ Tát về bản giác diệu minh(1), quán sát thế giới và chúng sinh thân, đều bị vọng duyên là sức gió chuyển. Lúc đó, tôi quán thế giới an lập, thời gian biến chuyển, quán thân đi đứng, quán tâm động niệm, các cái động không hai, đều không sai khác. Lúc đó tôi hiểu biết các động tính đến không biết từ đâu, đi không biết đến đâu. Mười phương vi trần điên đảo chúng sinh, đồng một hư vọng, như vậy cho đến tam thiên đại thiên thế giới, có những chúng sinh như trong một cái đồ đựng trăm nghìn loài mòng muỗi, loạn kêu vo vo, ở trong phân tấc phát động náo cuồng. Gặp Phật chưa bao lâu, chứng vô sinh nhẫn.
(1) Chân như.
Khi ấy tâm khai ngộ, bèn thấy quốc độ của đức Phật Bất Động ở Đông phương, được làm Pháp vương tử, thờ mười phương Phật, thân tâm phát sáng chói, thông suốt không ngại. Phật hỏi viên thông, tôi do quán sát sức gió không chỗ nương, ngộ Bồ Đề tâm, và tam ma địa, hợp mười phương Phật, truyền một diệu tâm. Ấy là thứ nhất.
E# - Không Tạng nói không đại:
Hư Không Tạng Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật và bạch:
Tôi với đức Như Lai, ở nơi Định Quang Phật, được vô biên thân(1).
(1) Hư không thân.
Khi ấy tay cầm bốn đại bảo châu, soi sáng mười phương vi trần cõi Phật, hóa thành hư không. Lại nơi tự tâm, hiện cái gương tròn lớn, trong đó phóng mười thứ ánh sáng vi diệu quý báu, tỏa khắp mười phương cùng cõi hư không. Các cõi Tràng Vương đến vào trong gương, xen vào thân tôi. Thân đồng hư không, chẳng cùng chướng ngại. Thân có thể khéo vào các cõi nước nhiều như vi trần, rộng làm việc Phật, được đại tùy thuận, có thần lực lớn lao.
Bời tôi kỹ càng quán sát bốn đại không chỗ nương, vọng tưởng sinh diệt, hư không không hai, Phật quốc vẫn đồng, nơi đồng phát minh, được vô sinh nhẫn.
Phật hỏi viên thông, tôi do quán sát hư không vô biên, vào tam ma địa, diệu lực viên minh. Ấy là thứ nhất.
F# - Di Lạc Bồ Tát nói thức đại:
Di Lặc Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Tôi nhớ thuở trước, trải qua kiếp nhiều như vi trần, có Phật xuất thế tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Tôi theo xuất gia, tâm trọng danh trong đời, ưa đi đến nhà sang. Khi đó đức Phật dạy tôi tu tập "duy tâm thức định", vào tam ma địa. Nhiều kiếp đến nay, do cái phép tam muội ấy, thờ các đức Phật nhiều như cát sông Hằng. Cái tâm háo danh dứt hết, không có nữa.
Đến khi đức Phật Nhiên Đăng xuất hiện ra đời, mới được thành "vô thượng diệu viên thức tâm tam muội". Thấy cùng tận hư không Như Lai quốc độ, uế, tịnh, có, không, đều là tâm tôi biến hóa hiện ra.
Bạch Thế Tôn, tôi hiểu biết "duy tâm thức" như vậy, từ thức tính xuất hiện vô lượng Như Lai. Nay được thọ ký bổ xứ(1) làm Phật.
(1) Sẽ thay đức Phật Thích Ca làm giáo chủ cõi Ta Bà.
Phật hỏi viên thông, tôi do kỹ càng quán sát mười phương duy thức, thức tâm viên minh, vào viên thành thật(1), xa lìa y tha(2) và biến kế chấp(3), được vô sinh nhẫn. Ấy là thứ nhất.
(1) Chân.
(2) Dựa vào các duyên mà khởi ra.
(3) Phân biệt, so sánh, mà chấp cái này cái kia.

G# - Bồ Tát Đại Thế Chí nói kiến đại:
Đại Thế Chí Pháp vương tử cùng 52 vị Bồ Tát đồng bạn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, và bạch:
Chúng tôi nhớ thuở trước, hằng sa kiếp, có đức Phật ra đời tên là Vô Lượng Quang. Mười hai vị Như Lai nối nhau trong một kiếp, chót sau là đức Phật tên là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Đức Phật ấy dạy tôi pháp "niệm Phật tam muội"(4). Ví như có hai người, một đằng chuyên nhớ, một đằng chuyên quên, dù có gặp nhau, hay không gặp, hoặc có thấy, hay chẳng thấy nhau.
(4) Do niệm Phật, được vào định.
Nếu cả hai cùng nhớ nhau, hai cái nhớ niệm càng sâu, như vậy cho đến từ đời này đến đời kia, như hình với bóng, chẳng trái khác nhau. Mười phương Như Lai thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con, nếu con trốn đi, dù nhớ cũng không ích gì. Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, mẹ con nhiều đời chẳng trái xa nhau.
Nếu chúng sinh tâm nhớ Phật, niệm Phật, hiện đời này hoặc đời sau, chắc chắn thấy Phật. Cách Phật chẳng xa, chẳng mượn phương tiện, tự được tâm khai ngộ. Cũng như người nhiễm mùi hương, thân có mùi thơm, như thế gọi là trang nghiêm bằng hương quang.
Chỗ bản thân của tôi lấy niệm Phật tâm, chứng vô sinh nhẫn. Nay ở cõi ngày nhiếp người niệm Phật về cõi Tịnh Độ.
Phật hỏi viên thông, tôi không lựa chọn, đều nhiếp sáu căn, tịnh niệm nối luôn, được tam ma địa. Ấy là thứ nhất.


BÌNH LUẬN
Ta đã được chứng kiến 24 vị vừa A La Hán, vừa Bồ Tát nói kinh nghiệm bản thân của mình, đã dùng phương pháp gì để tu chứng tới quả A La Hán, và từ đó tới những cảnh giới cao hơn của Bồ Tát.
Ta thấy 24 vị là tiêu biểu cho 24 lối tu, mỗi lối tu lại tiêu biểu cho 1 trong số 17 giới và 7 đại. Tóm lại, 18 giới là 6 căn, 6 trần, 6 thức, cùng 7 đại là tóm gồm hết những sự vật hữu vi và vô vi ở các thế giới trong pháp giới bao la. Đối với chúng sinh, gồm các hình tướng bên trong và bên ngoài, gồm các sự vật về vật chất và về tinh thần giới. Sau khi ta chứng kiến sự trình bày về lối tu của 24 vị trên, ta thấy là: "Mọi sự vật đều có thể là phương tiện để ta tu chứng. Các phương pháp tu có rất nhiều, tùy trình độ và ý thích của chúng sinh mà chọn một lối tu thích hợp cho mình.
Ta có thể nương theo 1 căn, 1 trần, 1 thức hay 1 đại mà tu chứng."
Nhưng ta sẽ thấy lối tu chứng của Bồ Tát Quán Thế Âm là thích hợp hơn hết cho chúng ta.
Sau khi Bồ Tát Quán Thế Âm trình bày cặn kẽ lối tu chứng của ngài, đức Bồ Tát Văn Thù là bậc trí tuệ nhất trong các hàng Bồ Tát sẽ chọn lựa trong các lối tu, và chứng minh lối tu của ngài Quán Thế Âm là thích hợp nhất cho chúng sinh ở cõi Ta Bà này. Vậy ta nên nghiên cứu kỹ càng phương pháp tu của ngài Quán Thế Âm, sắp trình bày sau đây. Chỗ này là chỗ quan hệ nhất của bộ kinh. Cũng là chỗ khó nhất. Phải là một vị Bồ Tát đã tu chứng cao mới giảng được rõ ràng phương pháp tu chứng này. May mắn cho nước Việt Nam ta, mới xuất hiện một vị Bồ Tát tu chứng rất cao.
Đó là ngài Huyền Cơ.
Đây là tài liệu của ngài Huyền Cơ, chỉ dạy rất rõ ràng phương pháp tu theo "nhĩ căn viên thông" của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Ta nên nghiền ngẫm kỹ càng, bỏ hết thành kiến, tự ái, ngã chấp. Ta sẽ có một tài liệu quý báu giúp ta tu chứng vào Càn Tuệ Địa.
Quả Càn Tuệ Địa là quả đầu tiên mà người tu phải tới. Khi chứng quả đó, ta đã thoát khỏi luân hồi sinh tử. Ta đã "vào nhà". Đã lọt vào trong nhà, không còn loanh quanh ngoài cửa. Không còn hiểu đạo Phật qua văn tự. Không còn bị thoái chuyển nữa. Chỉ còn thủng thẳng tu chứng tới những cảnh giới trên, cho tới quả Phật.
Mục đích của kinh Lăng Nghiêm này là dạy người tu chứng quả Càn Tuệ Địa. Khi đã được quả đó, người tu đã đạt được một kết quả vô cùng quan trọng, đã chắc chắn tiến tu trên con đường thành Phật, không sợ bị thoái chuyển nữa.

Chưa tu chứng vào Càn Tuệ Địa người tu dù bác học đến đâu, dù đã giải ngộ, cũng chỉ là hiểu đạo qua văn tự. Mình chết đi, sang kiếp sau lại quên hết, lại phải học lại. Nếu không gặp đủ duyên tốt, lại lưu lạc lang thang. Nhưng nếu có dịp học đạo, sẽ chóng hiểu hơn người chưa từng học.
Ta sắp sửa nghiên cứu sang phần quan trọng, đó là phương pháp tu của Bồ Tát Quán Thế Âm để chứng Càn Tuệ Địa.
Ta nên kỹ càng nghiên cứu, hết sức chú ý. Tuy nhiên, ta cũng nên nghiền ngẫm kỹ các phương pháp tu của 24 vị vừa trình bày trên đây. Ta sẽ được lợi lạc rất nhiều.

No comments:

Post a Comment