Thursday, September 29, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 2)

2/ - Phá chấp: Tâm ở ngoài
Ông A Nan cúi đầu bạch Phật:
"Tôi nghe lời Phật, mới biết tâm thực ở ngoài thân. Vì sao? - Ví như đèn thắp trong nhà, trước hết sáng trong phòng, rồi mới chiếu qua cửa mở, sáng ra ngoài. Còn như đèn thắp ngoài sân, chỉ sáng ngoài sân chứ không soi sáng trong nhà. Tâm chúng sinh chỉ thấy ngoài thân, mà không thấy trong thân. Vậy giống như cái đèn ngoài sân. Tôi tưởng cái lý tâm ở ngoài thân có lẽ đúng, nhưng chưa biết có đúng với ý Phật không?"
Phật bảo ông A Nan: "Vừa rồi các Tỳ Kheo theo tôi đi khất thực trong thành Thất La Phiệt, nay đã về rừng Kỳ Đà. Tôi thọ trai trước. Ông thử coi: nếu trong đám Tỳ Kheo, có một người ăn, người khác có no được không?"
Ông A Nan đáp: "Thưa Thế Tôn! Không thể no được. Vì sao? Vì các vị Tỳ Kheo, tuy là A La Hán, song thân thể khác nhau. Có lẽ nào một người ăn mà người khác no."
Phật bảo ông A Nan: "Nếu cái tâm thấy biết của ông thực ở ngoài thân, thì thân với tâm riêng biệt với nhau, không liên lạc mật thiết. Vậy cái gì tâm biết, thân không thể biết. Cái gì thân biết, tâm không thể biết. Nay tôi giơ tay lên cho ông nhìn, trong khi mắt ông thấy tay tôi, tâm ông có biết là tay tôi không?"
Ông A Nan đáp: "Thưa Thế Tôn, có biết."
Phật bảo ông An Nan: "Nếu thân với tâm cùng biết một lượt, sao ông lại nói tâm ở ngoài thân? Vậy ông nói cái tâm thấy biết ở ngoài thân, chắc không phải lẽ."
3/ - Phá chấp: Tâm ở trong con mắt
Ông A Nan bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, như lời Phật dạy: Vì không thấy trong tâm nên tâm không ở trong. Vì thân tâm cùng biết, không thể rời nhau, nên tâm chẳng ở ngoài. Nay tôi suy nghĩ, chắc tâm ở một chỗ."
Phật nói: "Chỗ ấy ở đâu?"
Ông A Nan đáp: "Cái tâm hay biết đã không biết trong mà lại thấy ngoài, như tôi nghĩ, chắc nó ở trong con mắt (nhãn căn). Ví dụ có người lấy chén lưu ly úp hai con mắt. Tuy có vật úp ở ngoài, nhưng mắt không bị ngăn ngại. Con mắt cũng giống như chén lưu ly, không làm ngăn ngại. Nên hễ con mắt thấy là tâm phân biệt ngay.
Vậy tâm hay biết của tôi không thấy trong, vì ở nơi con mắt. Nó thấy rõ ràng bên ngoài, không bị ngăn ngại, vì núp trong con mắt (nhãn căn)."
Phật bảo ông A Nan: "Như ông nói, tâm núp trong con mắt, ví dụ như con mắt núp trong chén lưu ly. Thế khi người kia đương lấy chén lưu ly úp trên con mắt, nhìn thấy núi sông, vậy có nhìn thấy chén lưu ly không?"
"Bạch Thế Tôn, người ấy có thấy chén lưu ly."
Phật bảo ông A Nan: "Nếu tâm của ông núp sau con mắt, cũng như con mắt núp sau chén lưu ly, thế sao trong khi thấy núi sông, tâm ông không thấy con mắt? Nếu thấy con mắt, thì con mắt thành ra ngoại cảnh, làm sao mắt thấy thì tâm biết ngay được. Còn nếu tâm không thấy con mắt, thì ông không thể nói cái tâm rõ biết ấy núp ở trong con mắt, như con mắt núp ở sau chén lưu ly.
Vậy ông nói: cái tâm hay biết núp ở trong con mắt, như con mắt núp ở sau chén lưu ly, chắc không phải lẽ."
4/ - Phá chấp: Tâm ở cả trong lẫn ở ngoài thân
Ông A Nan bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, nay tôi lại nghĩ: thân thể của chúng sinh có tạng phủ(1) ở trong, khiếu huyệt(2) ở ngoài. Ở trong thân tối. Các lỗ mở ra ngoài thì sáng.
(1) Tạng, phủ: các cơ quan trong thân, như: tim, gan, ruột, v.v...
(2) Khiếu, huyệt: các lỗ ở thân tiếp xúc với ngoài, như: mắt, lỗ mũi, lỗ tai, miệng, v.v...

Nay tôi ở trước Phật, khi mở mắt thấy sáng, gọi là thấy ngoài. Nhắm mắt thấy tối, gọi là thấy trong. Nghĩa đó có vững không?"
Phật bảo ông A Nan: "Đương khi ông nhắm mắt thấy tối, cái cảnh tối ấy có ở trước mắt hay không ở trước mắt? Nếu ở trước mắt, thì cái tối ở trước mắt rồi, không ở trong thân được. Nếu cảnh tối trước mắt cũng cứ cho là ở trong thân, thì ông ở trong nhà tối, không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn, các vật trong nhà tối đều là phủ tạng của ông hay sao? Còn như nếu cái tối không đối với mắt ông, làm sao gọi là thấy tối?
Dù bỏ sự thấy vật ở ngoài, mà cho rằng con mắt đối vào trong mà thấy, thì khi nhắm mắt thấy tối gọi là thấy trong thân, đến khi mở mắt kia thấy sáng, sao con mắt đã nhìn vào trong thân kia lại không thấy mặt. Như không thấy mặt, thì không thành cái nghĩa: đối vào trong mà thấy. Còn như thấy được mặt, thì tâm rõ biết với con mắt đều phải ở giữa hư không, chứ không còn ở trong thân được nữa. Nếu thực ở giữa hư không, thì không phải là ở thân ông nữa. Vì nếu là ở thân của ông, thì nay Phật thấy mặt ông, Phật cũng là thân ông sao?
Con mắt đã ở ngoài thân, thì cái gì con mắt biết, cái thân không thể biết được. Dù ông chấp rằng: thân với con mắt, mỗi cái đều có một tính biết, thì ông lại có hai tính biết. Rồi chỉ một thân ông, lại thành ra hai vị Phật hay sao?
Vậy biết rằng: ông nói thấy tối là thấy trong thân, chắc không đúng lẽ."
5/ - Phá chấp: Tuỳ hợp
Ông A Nan bạch: "Tôi thường nghe Phật dạy tứ chúng(1): "Vì tâm sinh nên các pháp mới sinh. Vì các pháp sinh nên các tâm mới sinh". Nay tôi suy nghĩ, thì cái suy nghĩ đó thực là tâm tôi. Hễ nó hợp với chỗ nào, tâm tôi liền có nơi đó. Chẳng phải ở ba chỗ: trong, ngoài và chặng giữa."
(1) Nghĩa là bốn chúng: Sa Di, Sa Di Ni, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni. Tóm lại là những người xuất gia, ngồi nghe Phật.
Phật bảo ông A Nan: "Nay ông nói: Do pháp sinh nên các tâm mới sinh. Hễ nó hợp với chỗ nào, tâm có nơi đó. Nếu tâm đó không có thực thể, chắc là không tùy hợp được.
Nếu không có thể, mà vẫn hợp được, thì giới thứ 19(2) cũng hợp được với trần thứ 7(3). Như thế là vô lý.
(2) Chỉ có 18 giới. Giới thứ 19 là vật không có.
(3) Chỉ có 6 trần. Trần thứ 7 là không có.

Nếu có thể, thì khi ông lấy tay gãi mình, cái tâm biết gãi của ông ở trong thân ra, hay từ ngoài vào? Nếu ở trong thân, đã thấy trong. Nếu từ ngoài vào, đã thấy mặt trước."
Ông A Nan đáp: "Mắt nhìn thấy, còn tâm rõ biết. Chữ "nhìn thấy" dùng không đúng với tâm."
Phật đáp: "Nếu con mắt thấy, còn tâm không thấy. Nay ví dụ con mắt là cái cửa, còn tâm là ông, đương ở trong nhà. Ông không nhìn ra ngoài, cái cửa có thấy được không?
Kìa mấy người đã chết, con mắt vẫn còn, sao không thấy được? Nếu thấy được, sao gọi là chết?
Ông A Nan! Lại như cái tâm hay biết của ông, nếu có thể, vậy có một thể hay nhiều thể?
Nay ở thân ông, cái thể ấy khắp cả mình hay không khắp cả mình?
Nếu là một thể, khi ta lấy tay gãi một chỗ, cả tứ chi tất phải biết. Nay ông có biết có chỗ gãi, thì cái nghĩa "một thể" không vững.
Nếu có nhiều thể, lại thành nhiều người. Biết cái thể nào là của ông?
Nếu cho là khắp cả mình, thì lại không vững, vì biết có chỗ gãi như trên.
Còn như nói: chẳng khắp cả mình. Khi ông sờ đầu và sờ chân cùng một lúc. Nếu đầu biết thì chân đáng lẽ không biết. Nay cả đầu lẫn chân đều biết. Vậy lý: chẳng khắp cả mình không vững.
Vậy lẽ: "tuỳ hợp chỗ nào, tâm liền có chỗ đó" không đứng vững."
6/ - Phá chấp: Tâm ở chặng giữa
Ông A Nan bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Trong khi Phật giảng tướng chân thực cho ông Văn Thù và các vị Pháp Vương Tử nghe, tôi nghe Thế Tôn nói: "Tâm không ở trong, cũng không ở ngoài".
Theo ý tôi nghĩ: ở trong, sao lại không thấy trong. Ở ngoài, thì thân tâm xa cách, sao lại cùng biết đồng thời.
Tâm không biết trong, nên không thể nói ở trong. Thân tâm cùng biết, nên không thể nói ở ngoài.
Nay tâm tôi cùng biết với thân một lần và không thấy trong thân, chắc nó ở "chặng giữa".
Phật nói: Ông đã nói "chặng giữa", thì cái "giữa" chắc có chỗ nhất định, rõ ràng.
Nay ông định cho cái "chặng giữa" ấy ở chỗ nào?
Nó ở "cảnh" hay ở "thân".
Nếu ở thân thì là một bên, không phải ở "giữa".
Nếu ở giữa thân, thì đồng với cái nghĩa ở trong thân khi trước.
Nếu ở cảnh, thì có nêu chỗ ấy được, hay không thể nêu được?
Nếu không nêu được, thì cũng như không có chỗ.
Còn như nêu được, thì không thể nêu nhất định chỗ nào là chặng giữa.
Vì sao? Ví như có người cắm cây làm nêu (đích), nêu một chỗ làm giữa. Đứng phía Đông, nhìn cái nêu, thấy là Tây. Đứng phía Nam nhìn cái nêu, thành Bắc. Tính cách của nêu rất là tương đối, thì tâm cũng lộn xộn, làm sao biết được là ở "chặng giữa".
Ông A Nan đáp: "Cái giữa" mà tôi nói, không phải ở cảnh hay thân. Tôi nói đây là theo lời Thế Tôn dạy: "con mắt duyên với sắc trần, sinh ra tính biết thấy là nhãn thức. Con mắt biết phân biệt. Sắc trần là vật vô tri. Cái thức sinh ra ở giữa căn và trần, tức là tâm ở đó".
Phật bảo: "Như tâm ông ở giữa căn và trần thì tâm đó gồm cả hai hay không gồm?
Như gồm cả hai thì thể (tâm) với vật (cảnh) xen lộn, còn biết tâm ở chỗ nào nữa. Vật không có tính biết, thân thể có tính biết, hai thứ khác nhau, làm sao có được cái giữa. Không gồm cả hai cũng không được: không phải có biết, lại không phải không biết, tức là không có thể tính chi cả. Biết lấy gì làm giữa.
Vậy biết ông nói: "tâm ở giữa", là không đúng lẽ.
7/ - Phá chấp: Tâm không dính mắc
Ông A Nan bạch Phật: "Thưa Thế Tôn, khi trước tôi thấy Phật cùng bốn vị đại đệ tử là các ông Đại Mục Liên, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na, Xá Lợi Phất, cùng giảng Chính pháp, thường nói: Cái tâm hay biết phân biệt không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa, không ở chỗ nào cả. Hoàn toàn không dính mắc vào đâu, cái đó gọi là tâm.
Vậy cái không dính mắc đó, tôi gọi là tâm có được không?"
Phật bảo ông A Nan: "Ông nói: cái tâm hay biết phân biệt không ở đâu cả.
Vậy các sự vật ở thế gian như các loài ở trên đất, dưới nước, trên không, chúng có hay không có?
Nếu không có như lông rùa, rừng thỏ, thì còn nương vào đâu mà gọi là không mắc?
Đã có cái không mắc, thì không thể nói rằng các sự vật không có được.
Hễ không có tướng thì là không có, còn không phải không có thì là có tướng. Có tướng thì có chỗ ở. Sao lại không mắc vào đâu?
Vậy ông nói: "Cái không dính mắc vào đâu là tâm hay biết", như thế không đúng.

ĐẠI Ý VÀ BÌNH LUẬN
2/ - Phá chấp: Tâm ở ngoài
Ông A Nan thấy Phật bác lý lẽ cho rằng: Tâm ở trong thân. Ông liền cho là: tâm ở ngoài thân.
Lý lẽ: chúng sinh chỉ thấy ngoài thân. Tâm chúng sinh ví như cái đèn thắp ngoài sân, không soi sáng trong nhà, chỉ soi sáng ngoài sân.
Phật bẻ: "Một người ăn, người khác không no. Nếu tâm ở ngoài thân, thân tâm sẽ riêng biệt. Nay tôi giơ tay, mắt ông thấy, tâm liền biết. Vậy không thể nói tâm ở ngoài thân."

3/ - Phá chấp: Tâm ở trong con mắt
Ông A Nan lại cho là: tâm ở trong con mắt. Ông ví dụ có người đeo kính thật tốt, nhìn rõ cảnh vật.
Phật bẻ: "Người đeo kính nhìn thấy kính. Tâm ông không thấy con mắt. Vậy con mắt không ví được như cặp kính, và tâm không núp sau con mắt."

4/ - Phá chấp: Tâm ở cả trong lẫn ở ngoài thân.
Ông A Nan lại cho là: tâm ở cả trong và ngoài thân. Lý lẽ: trong thân tối, nên khi nhắm mắt, ông thấy tối..
Ở ngoài thân sáng, nên khi mở mắt, thấy sáng.
Phật bẻ: "Khi ông nhắm mắt, thấy tối, cái tối ở trước mắt ông. Vậy không ở trong thân được. Khi ông ở nhà tối, cũng thấy tối. Vậy các đồ vật trong nhà tối cũng là gan ruột ông sao? Vậy nhắm mắt thấy tối không phải là thấy trong thân".

5/ - Phá chấp: Tùy hợp.
Ông A Nan lại cho là: Cái suy nghĩ hợp với chỗ nào, tâm liền có nơi đó.
Phật bẻ: nếu tâm có thể, mới tùy hợp được. Khi ông gãi người, cái tâm biết gãi ở trong thân ra hay từ ngoài vào? Nếu trong thân, đã thấy trong. Nếu từ ngoài vào, đã thấy mặt. Sao tâm đều không thấy?...
Vậy lẽ: "tùy hợp" không đúng.

6/ - Phá chấp: Tâm ở chặng giữa
Ông A Nan lại cho là: tâm ở chặng giữa.
Phật lại bẻ... (xem ở kinh)

7/ - Phá chấp: Tâm không dính mắc.
Ông A Nan lại cho là: cái không dính líu phân biệt, cái đó gọi là tâm.
Phật bẻ: đã có sự vật, thì tâm ông không ở chỗ này, chắc ở chỗ khác. Sao gọi là không dính mắc.

Theo dõi cuộc tranh luận giữa Phật và ông A Nan, ta thấy rõ: Ý Phật muốn dùng biện luận để giúp ông A Nan phát minh ra điều này: không tìm thấy chỗ nương của tâm.
Những lý lẽ của Phật đưa ra chỉ là phương tiện. Phật tùy trình độ hiểu biết của ông A Nan, và của người thời đó, ở Ấn Độ, mà biện luận, đưa ông A Nan dần dần đến chỗ hiểu rõ nguyên lý của tu chứng, của Chân Lý.

Kinh Lăng Nghiêm - Chính Tôn (phần 1)

B - CHÍNH TÔN

Phần này lại chia ra hai phần lớn:
i - Phật dạy tu Diệu Định.
ii - Phật dạy tránh những lầm lẫn, tu lạc sang đường tà.

i - Phật dạy tu Diệu Định:

Lại chia làm 3 phần:
a - Ông A Nan cầu Phật dạy Pháp Diệu Định.
b - Phật cặn kẽ chỉ phương pháp Diệu Định.
c - Ông A Nan ngộ.

a - Ông A Nan cầu Phật dạy Pháp Diệu Định:

Ông A Nan về thấy Phật, liền khóc lóc đảnh lễ. Nghĩ giận mình từ bao lâu nay, một bề nghe rộng nhớ nhiều, mà chưa toàn đạo lực. Ông ân cần xin dạy những pháp Sa Ma Tha (Samatha), Tam Ma (Samadhi), Thuyền Na (Dhyana), là pháp tu đầu tiên để tiến đến quả Bồ Đề của đức Như Lai.
Lúc đó, vô số Bồ Tát cùng đại A La Hán, Bích Chi Phật từ mười phương đến, thảy đều mong cầu Phật thuyết pháp, lui về chỗ, ngồi yên lặng, chờ Phật dạy.

b - Phật cặn kẽ chỉ phương pháp Diệu Định:

2 phần:
1 - Chính nói kinh.
2 - Tên của kinh.

1 - Chính nói kinh:

3 phần:
A) - Dạy tu pháp Sa Ma Tha
B) - Dạy tu pháp Tam Ma
C) - Dạy tu pháp Thuyền Na
A) - Dạy tu pháp Sa Ma Tha
2 phần:
i) - Trước hết, nói "không Như Lai Tạng".
ii) - Nói hai Như Lai Tạng sau.
i) - Nói "Không Như Lai Tạng"
2 phần:
a) - Như Lai phá vọng hiển chân
b) - A Nan giác ngộ, lễ tạ và phát tâm.
a) - Phật phá vọng hiển chân
2 phần:
1) - Phá chỗ chấp vọng tâm.
2) - Chỉ rõ Như Lai Tạng.
1) - Phá chỗ chấp vọng tâm
3 phần:
A/ - Chúng sinh nhận lầm ý thức của mình là tâm.
B/ - Phật phá những điều nhận lầm đó.
C/ - Kết luận.
A/ - Chúng sinh nhận lầm ý thức của mình là tâm.
i/ - Tại sao phát tâm?
Phật bảo ông A Nan: "Tôi với ông đồng một phái, tình như anh em ruột. Lúc mới phát tâm, thì ở trong pháp tôi, ông thấy những tướng tốt gì mà bỏ ngay được những ân ái sâu nặng ở thế gian".
Ông A Nan đáp: "Tôi thấy đức Như Lai có đủ 32 tướng tốt, người trong sáng như ngọc lưu ly, tốt đẹp lạ thường.
Tôi thường nghĩ: Tướng ấy không thể do dục ái sinh ra được. Vì sao? Vì sự dâm dục nhơ nhớp tanh hôi, máu mủ xen lộn, không thể sinh ra cái thân sạch sáng chói như vàng lóng lánh ấy được.
Vì vậy tôi quý trọng Phật, cắt tóc theo học Phật."
ii/ - Phật bảo chúng sinh nhận lầm.
Phật bảo: "Hay thay, A Nan! Các ông nên biết: hết thảy chúng sinh, từ bao xưa đến giờ, sống chết nối luôn, bởi vì chẳng biết chân tâm(1) thường còn mãi mãi, rất trong rất sáng, cứ theo các vọng tưởng(2). Vọng tưởng không phải là chân lý, nên bị luân chuyển.
(1) Chân tâm: cảnh giới Phật, mà Phật đã tu chứng đến. Đó mới là chân lý, vì thường còn mãi mãi.
(2) Vọng tưởng: tư tưởng sai lầm, tức là trí biết hẹp hòi, nông cạn của chúng sinh.

B/ - Phật phá những điều nhận lầm đó.
i/ - Mật chỉ vọng thức không có chỗ ở.
ii/ - Chỉ rõ vọng thức không phải tâm.
iii/ - Suy phá: vọng thức không có thực.
i/ - Mật chỉ vọng thức không chỗ ở:
2 phần:
a/ - Án định.
b/ - Phá chấp.
a/ - Án định: Phật án định, gạn hỏi chỗ ở của vọng thức:
Nay ông muốn hiểu Bồ Đề vô thượng(3) để phát minh chân tính, ông phải đem tâm ngay thẳng đáp lời hỏi của tôi. Mười phương các Như Lai, đều do một đường ra khỏi sinh tử, đó là nhờ trực tâm. Tâm ngay thẳng là từ đầu đến cuối thẳng tắp, không chút quanh co.
(3) Bồ Đề vô thượng: cảnh giới Phật cao nhất, không còn ai cao hơn.
A Nan! Nay tôi hỏi ông: khi ông phát tâm vì mến 32 tướng tốt của Như Lai, ông lấy cái gì mà thấy, và cái gì ưa mến?"
Ông A Nan bạch Phật: "Thưa Thế Tôn, ưa mến như vậy, là dùng tâm và con mắt của tôi. Bởi mắt nhìn thấy tướng tốt của Phật, tâm sinh ưa mến, nên tôi phát tâm, nguyện bỏ sinh tử."
Phật bảo ông A Nan: "Như lời ông nói: thật ông vì tâm và con mắt mà có ưa mến. Nếu chẳng biết tâm và con mắt ở đâu, thì ông không thể dẹp được lòng ưa muốn và các trần lao(4). Ví như một vị Quốc Vương bị giặc xâm lấn, phát binh đánh dẹp, thì binh vua cần phải biết chỗ ở của quân giặc rồi mới dẹp được. Khiến ông trôi lăn trong đường sinh tử, chính là tại tâm và con mắt của ông. Nay tôi hỏi ông: Tâm và con mắt hiện ở chỗ nào?"
(4) Trần lao: trần là bụi, lao là lay động nhọc mỏi. Tâm hồn và cảnh của chúng sinh ví như bụi bẩn, lay động, làm đau khổ.
b/ - Phá chấp: Phật theo chỗ chấp mà phá:
7 phần:
1/ - Phá chấp: tâm ở trong.
2/ - Phá chấp: tâm ở ngoài.
3/ - Phá chấp: tâm ở trong căn.
4/ - Phá chấp: tâm ở cả trong lẫn ngoài thân.
5/ - Phá chấp: tùy hợp.
6/ - Phá chấp: tâm ở giữa.
7/ - Phá chấp: tâm không dính mắc.
1/ - Phá chấp: Tâm ở trong
2 phần:
A# - A Nan chấp tâm ở trong
Ông A Nan bạch Phật: "Thưa Thế Tôn, tất cả trong thế gian, mười loại chúng sinh đều cho tâm hay biết ở trong thân. Con mắt giống như hoa sen của Phật cũng ở nơi mặt Phật. Con mắt phàm của tôi, cũng ở trên mặt tôi. Như vậy tâm hay biết thực ở trong thân."
B# - Phật phá
3 phần:
i# - Ví dụ: thấy thứ lớp
Phật bảo ông A Nan: "Hiện nay ông ngồi trong giảng đường của Như Lai, ông thấy rừng Kỳ Đà ở đâu chăng?"
- Thưa Thế Tôn, cái nhà giảng đường cao lớn thanh tịnh này ở trong vườn Cấp Cô Độc. Còn rừng Kỳ Đà ở ngoài giảng đường.
- A Nan, nay ông ở trong giảng đường, thấy cái gì trước?
- Thưa Thế Tôn, tôi ở trong giảng đường, trước hết thấy Như Lai, sau thấy đại chúng, rồi nhìn ra ngoài mới thấy vườn rừng.
- A Nan, ông nhờ chi mà thấy vườn rừng.
- Thưa Thế Tôn, nhân vì các cửa giảng đường mở rộng, nên tôi ở trong thấy suốt ra ngoài.
ii# - Phật chỉ cái tên của Chính định
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong đại chúng đưa tay màu vàng xoa đầu ông A Nan, bảo ông A Nan và đại chúng:
"Có pháp Tam Ma Đề(5) (Samadhi) tên là Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm (Sulamgama) vương, gồm đủ muôn hạnh. Mười phương các đức Như Lai đều do môn pháp ấy thẳng đến quả Phật. Các ông hãy lắng tai nghe."
(5) Chính định: Tam Ma Đề.
Ông A Nan đỉnh lễ, nghe lời Phật dạy.
iii# - Phật phá
Phật bảo ông A Nan: "Như ông đã nói, ông ở trong giảng đường, nhờ cửa mở rộng nên thấy vườn, rừng.
Có chúng sinh nào ở trong giảng đường mà lại không thấy Như Lai, chỉ thấy rừng ở ngoài giảng đường hay không?"
Ông A Nan đáp: "Thưa Thế Tôn, không có ai ở trong giảng đường mà lại không thấy Như Lai, chỉ thấy vườn rừng ở ngoài. Thật là vô lý."
- "A Nan, chính ông cũng thế. Cái tâm linh của ông là biết rõ hết thảy. Nếu nó thật ở trong thân, nó phải biết rõ trong thân. Vậy có chúng sinh nào trước thấy rõ trong thân mình, rồi sau mới thấy những vật ở ngoài, hay không? Dù cho không thấy tim, gan, tì vị đi nữa, đến như móng tay mọc, tóc dài, gân chuyển, mạch nhảy, tất cũng phải biết. Sao lại không biết? Đã không biết rõ trong thân, sao lại biết rõ ngoài thân. Vậy ông nói cái tâm rõ biết ở trong thân ông, chắc không có lẽ như vậy."

BÌNH LUẬN
B - Phần Chính Tôn
Đây là phần chính của bộ Kinh Lăng Nghiêm.
Vì cớ ông A Nan bị nạn, ông ta mới cầu Phật dạy tu pháp Chính Định, để không còn bị lay chuyển nữa.
Phần này lại chia làm hai phần lớn:
i - Phần đầu, gồm hầu hết bộ kinh, Phật dạy cách tu Chính Định.
ii - Phần sau, sau khi cặn kẽ chỉ dạy lối tu, từ lý thuyết đến thực hành, Phật lại căn dặn người tu nên tránh những cạm bẫy trên đường tu chứng. Biết bao người không thầy chỉ dạy, đã tu lạc, chịu bao khổ sở, không biết kiếp nào mới trở lại đường ngay, để thẳng tới quả Phật.
Ta hãy nghiên cứu phần đầu:
i - Phật dạy tu Diệu Định:
Phần này lại chia làm 3 phần:
a - Vào đề: Ông A Nan cầu Phật dạy.
b - Phật cặn kẽ chỉ phương pháp Diệu Định, tức là phần chính.
c - Ông A Nan ngộ, tức là kết quả (kết luận).
Trong phần: b - PHẬT CHỈ PHƯƠNG PHÁP DIỆU ĐỊNH, lại chia làm 3 phần:
A) - Dạy tu phép Sa Ma Tha
B) - Dạy tu phép Tam Ma
C) - Dạy tu phép Thuyền Na
Ta thấy rõ, Phật chỉ dạy rất có phương pháp, dạy xong lớp này, mới sang lớp khác.
Ta hãy nghiên cứu phần:
A) - Dạy tu pháp Sa Ma Tha:
i) - Trước hết, Phật nói về "Không Như Lai Tạng".
ii) - Sau, mới nói "Hai Như Lai Tạng sau".
Ngay trong phần:
i) - Nói "Không Như Lai Tạng":
a) - Phật trước hết phá chỗ chấp nặng nề của chúng sinh, cứ bám lấy trí biết hẹp hòi của mình.
b) - Sau khi chúng sinh tỉnh ngộ, không bám lấy cái vọng nữa, Phật mới chỉ rõ Như Lai Tạng.
Ta hãy nghiên cứu phần:
1) - Phá chỗ chấp vọng tâm:

 Phần này lại chia làm 3 phần chính:
A/ - Chúng sinh nhận lầm ý thức của mình là tâm: Phật nhận thấy điều đó.
B/ - Phật phá những điều nhận lầm trên.
C/ - Kết luận phần này.
Nay ta nghiên cứu phần:
A/ - Chúng sinh nhận lầm ý thức của mình là tâm:
i/ - Trước hết, Phật hỏi ông A Nan tại sao phát tâm? Tại sao ông A Nan dám bỏ những điều mà ai cũng quý báu như danh lợi, vợ con, tiền của, mà theo Phật đi tu, chắc ông thấy ở Phật điều gì quý báu lắm.
Ông A Nan đáp: "Vì thân Phật đẹp đẽ, sáng chói, đủ cả 32 tướng tốt".
Phật thấy rõ: quan niệm như ông A Nan là sai lầm. Ông A Nan bỏ cả danh lợi, phú quý của cuộc đời, bỏ bao thứ mà người ta ham hích, để theo Phật. Đáng lẽ vì ông ngộ chân lý cao siêu. Trái lại, tại ông thấy thân Phật tốt đẹp. Như thế cũng không khác gì một người mê cô gái tuyệt sắc, bỏ mọi thứ để theo cô, có khi chết vì ái tình. Vì sắc đẹp của cô gái, và sắc đẹp của thân Phật cũng là hình tướng bề ngoài.
Bởi thấy thế, Phật mới than: "Chúng sinh cứ bị luân hồi sinh tử, vì bám chấp vào cái thấy, nghe, hay, biết của mình. Họ không được biết Chân lý, biết cảnh giới thường còn bao la của Phật, nên không nương theo đó để lo giải thoát".
Phật muốn chỉ cho ông A Nan hiểu rõ căn bản đó, nhưng Phật biết ông ta còn chấp quá nặng, nên Phật đưa dần từ chỗ thấp đến chỗ cao.
Trước hết, Phật muốn gián tiếp chỉ cho ông A Nan biết là: trí biết của ông không có chỗ ở.
Phật đặt những câu hỏi và biện luận để ông A Nan tự phát minh ra là trí biết, tức vọng thức của ông không có chỗ ở.
Tiến lên một tầng nữa, Phật chỉ rõ: vọng thức đó không phải là tâm của ông A Nan.
Tiến lên tầng nữa: Phật chứng minh là vọng thức đó không có thực.
Khi ông A Nan hiểu rồi, Phật mới chỉ chân lý.
Bởi thế, ta thấy trong phần:
B/ - Phật phá những điều nhận lầm trên:
Có 3 tầng biện luận:
i/ - Mật chỉ vọng thức không có chỗ ở.
ii/ - Quở trách: vọng thức không phải tâm.
iii/ - Suy phá: vọng thức không có thực.
Nay ta nghiên cứu phần:
i/ Mật chỉ vọng thức không có chỗ ở.
Mật chỉ: nghĩa là chỉ một cách gián tiếp, Phật giúp ông A Nan tự phát minh ra là vọng thức không có chỗ ở.
Phần này lại chia làm 2 phần:
a/ - Án định: tức là đặt vấn đề: Hỏi ông A Nan tâm và con mắt ở đâu?
b/ - Phá chấp: tức là Phật tùy theo chỗ chấp của ông A Nan mà phá.
a/ - Đặt vấn đề:
Phật sắp đặt một câu hỏi cho ông A Nan trả lời.
Trước khi hỏi, Phật khuyên ông A Nan phải tâm cho ngay thẳng. Phải thành tâm, trọng sự thực, mới thấy được Chân lý.
Phật hỏi ông A Nan: "Khi ông phát tâm, thấy thân Phật đẹp, rồi sinh ưa mến. Vậy ông lấy gì mà thấy, lấy gì mà ưa mến?".

 Ông A Nan đáp: "Tôi dùng con mắt thấy, và tâm tôi sinh ưa mến".
Phật hỏi: "Tâm và con mắt ông ở đâu?"
Vậy ta thấy vấn đề đã đặt rõ ràng.
Trước khi theo dõi cuộc tranh luận giữa Phật và ông A Nan, ta hãy bàn về tâm ngay thẳng.
TÂM NGAY THẲNG
Một đức tính quan trọng của người muốn học Phật pháp, muốn hiểu chân lý, muốn tu thành Phật, đó là "tâm ngay thẳng".
Tâm ngay thẳng là trực tâm.
Đó là lòng thành thực, ngay thực, thẳng thắn, thành tâm, từ đầu, giữa, cuối thẳng tắp.
Đây là đức tính đầu tiên, cần thiết cho ai muốn tiến xa về đường Chân lý.
Ở thế gian, đức tính này cũng quan trọng lắm.
Một nhà bác học muốn nhìn rõ sự thật, cũng phải hết sức khách quan, đứng ngoài cái "tôi" của mình, phải bỏ hết những thành kiến, cố chấp, ra ngoài tình yêu ghét để nhìn rõ sự thật.
Một nhà đạo đức cũng phải tu đức đầu tiên là thành thực, ngay thực. Khổng Tử cũng nói: "Chí thành là bậc thánh".
Người thanh niên nên sớm nuôi lòng thành thực, ngay thẳng, cho thành thói quen.
Người Phật tử lại càng nên trọng sự thực. Có thế mới hiểu được chính pháp. Đừng bị mờ mắt vì danh lợi bề ngoài, vì những chức lớn, danh to, vì phong trào, vì óc bè phái, vì tình yêu ghét.
Hư danh làm nhiều kẻ không bao giờ biết được Chân lý. Hại hơn nữa là tâm đảo điên, mánh lới, lại xui nhiều kẻ làm sai lạc chính pháp, làm người đời lầm lẫn chính tà. Người giỏi là người dám thú thực là "không biết". Người hèn là kẻ manh tâm dìm người giỏi hơn mình. Hèn hạ nữa là dìm Chính pháp...
Ta hãy nghiên cứu phần:
b/ - Phá chấp
Tức là phần biện luận giữa Phật và ông A Nan để tìm chỗ ở của tâm.
Phần này lại chia làm 7 phần:
1/ - Phá chấp: tâm ở trong.
2/ - Phá chấp: tâm ở ngoài.
3/ - Phá chấp: tâm ở trong căn.
4/ - Phá chấp: tâm ở cả trong lẫn ngoài thân.
5/ - Phá chấp: tùy hợp.
6/ - Phá chấp: tâm ở giữa.
7/ - Phá chấp: tâm không dính mắc.
Ông Nan cố gắng tìm chỗ ở của Tâm.
Những lý lẽ của ông đưa ra đều bị Phật bẻ.
Ta thử theo dõi cuộc tranh luận
1/ - Phá chấp: tâm ở trong
Ông A Nan cho là: tâm ở trong thân.
Phật bẻ ông A Nan bằng ví dụ lấy thứ lớp: như ông A Nan ở trong giảng đường, trông thấy Phật, rồi đại chúng, rồi nhìn qua cửa mới thấy vườn, rồi xa nữa là rừng.
Vậy nếu tâm ở trong thân, phải thấy rõ gan, ruột ở trong thân đã, mới thấy ngoài thân.
Đây là Phật tùy theo cái chấp của ông A Nan mà bẻ. Phật tùy trình độ hiểu biết của ông A Nan và của thời đó mà biện luận, cốt sao đưa được đại chúng tới chỗ hiểu Chân lý.

Sunday, September 25, 2016

Kinh Lăng Nghiêm - Duyên Khởi

KINH LĂNG NGHIÊM

ĐẠI PHẬT ĐỈNH
NHƯ LAI MẬT NHÂN
TU CHỨNG LIỄU NGHĨA
CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH
THỦ LĂNG NGHIÊM KINH
Đời Đường, Sa Môn Bát Lặc Mật Đế dịch ra Hán văn


(Quyển thứ nhất)

A - DUYÊN KHỞI

I. Chung:

Chính tôi được thân nghe: một thủa Phật ở thành Thất La Phiệt (Sravasti), trong tinh xá(1) Kỳ Hoàn (Jetavana), cùng với chúng Đại Tỳ Kheo(2) một nghìn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc vô lậu(3) A La Hán (Arhat). Các vị Phật tử(4) giữ gìn chính pháp; ở cõi đời mà thường giải thoát(5); lại hay ở nơi quốc độ, thành tựu các uy nghi(6); theo Phật chuyển bánh xe chính pháp(7), nhận lĩnh(8) di chúc nhiệm mầu của Phật; nghiêm giữ giới luật thanh tịnh, làm khuôn phép cho ba cõi(9), thị hiện(10) ra vô số thân để cứu thoát chúng sinh, làm mọi chúng sinh ở đời vị lai khỏi bị ràng buộc bởi trần cảnh.
(1) Tinh xá: nhà của Phật và tăng chúng ở, để giảng kinh.
(2) Tỳ Kheo: theo tiếng Phạn là Bikhou, tức là người tu xuất gia.
(3) Vô lậu: không còn mê lầm, tức là đã chứng quả A La Hán, vượt ba cõi dục, sắc và vô sắc.
(4) Phật tử: con Phật, có tâm Bồ Tát, nhờ Phật dạy, tu hạnh Bồ Tát, sẽ thành Phật.
(5) Giải thoát: không bị ràng buộc.
(6) Cách đi đứng đúng phép của thầy tu.
(7) Bánh xe chính pháp: Chính pháp của Phật hoàn toàn, tròn như bánh xe. Chuyển bánh xe chính pháp tức là truyền bá chính pháp.
(8) Di chúc: lời dặn cuối cùng
(9) Ba cõi: là cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc. Sau Phật sẽ giảng kỹ.
(10) Thị hiện: hóa ra thân này thân khác để độ các loài.

Các vị tên là: Đại trí Xá Lợi Phất (Sariputra), Ma Ha Mục Kiền Liên (Maha Maudgalyayana), Ma Ha Câu Si La (Mahakausthila), Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử (Purna Maitreyaniputra), Tu Bồ Đề (Subbuti), Ưu Ba Ni Sa Đà (Upanisad), đều là bậc thượng thủ.
Lại có vô số bậc Bích Chi(11) (Pratyckabuddha) vô học(12), với những hàng sơ tâm(13), cùng đến chỗ Phật.
(11) Bích Chi: đã chứng Duyên Giác.
(12) Vô học: Đã chứng quả, không học về tiểu thừa nữa.
(13) Sơ tâm: mới phát tâm.

Nhằm ngày tự tứ(14) của các thầy Tỳ Kheo ra hạ(15), các vị Bồ Tát từ mười phương đến xin cắt nghĩa mấy chỗ còn nghi, kính hầu Đức Từ Nghiêm(16), để cầu nghĩa sâu xa.
(14) Tự tứ: ngày các thầy Tỳ Kheo ra hạ.
(15) Hạ: thời kỳ ở yên tu hành lúc mùa hạ, từ 16-4 đến 15-7
(16) Từ nghiêm: cha lành

Đức Như Lai trải tọa cụ, ngồi khoan thai, vì mọi người trong hội tỏ bày nghĩa sâu nhiệm. Các người trong hội thanh tịnh được nghe điều chưa từng có. Giọng nói của Phật thanh tao như tiếng chim Ca Lăng Tần Già(17) (Karavinka) vang khắp mười phương. Các Bồ Tát nhiều như số cát sông Hằng (Gange), đều đến nơi đạo trường(18), có ông Văn Thù Sư Lợi (Manjusri) làm thượng thủ.
(17) Chim Ca Lăng Tần Già: giống chim ở Ấn Độ hót rất hay.
(18) Đạo trường: nơi tu học và giảng pháp.

II. Riêng:

Khi ấy vua Ba Tư Nặc(19) (Pasanajit) nhân ngày kỵ Phụ Vương, mời Phật dùng cơm chay trong cung, có sắm đủ các món ăn chay quý báu; đích thân vua đến rước Phật và mời các vị Đại Bồ Tát.
(19) Ba Tư Nặc: Vua thành Thất La Phiệt.
Lại có các vị trưởng giả, cư sĩ trong thành cũng đồng thời trai tăng, mong Phật đến chứng.
Phật cử ông Văn Thù phân lĩnh các Bồ Tát và A La Hán đến các trai chủ.
Chỉ có ông A Nan (Ananda) trước đã được một người mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng trai chứng. Ông đi về giữa đường chỉ có một mình, không có vị thượng tọa(20) và vị A Xà Lê(21) (Acaryat).
(20) Thượng tọa: vị Tỳ Kheo tu nhiều hạ.
(21) A Xà Lê: thầy làm khuôn phép cho chúng. Ông Tỳ Kheo đi xa, theo luật phải có hai ông này đi cùng, để giữ cho mình.

Nhằm bữa không có ai cúng, ông cầm bình bát vào thành phố, đi từng nhà theo thứ lớp mà khất thực.
Ý ông cầu gặp một thí chủ chưa từng bố thí, bất luận người sang hay hèn, dòng Sát Đế Lợi(22) (Ksatriya) hay Chiên Đà La(23) (Candala). Ông đương thực hành từ tâm bình đẳng, chẳng lựa giàu nghèo, phát tâm làm cho mọi chúng sinh đều được hoàn toàn vô lượng công đức.
(22) Sát Đế Lợi: dòng quý tộc.
(23) Chiên Đà La: dòng hèn hạ.

Ông đã biết Phật quở ông Tu Bồ Đề và ông Đại Ca Diếp (Maha Kasyapa) làm A La Hán mà tâm chẳng quân bình(24). Ông kính vâng lời dạy vô giá(25) của Phật, tránh các sự chê bai, nghi hoặc(26). Ông đến bên thành, thong thả vào cửa, uy nghi nghiêm chỉnh, kính giữ phép hóa trai(27).
(24) Chẳng quân bình: thiên về người giàu hay người nghèo.
(25) Vô giá: không ngăn ngại.
(26) Chê bai, nghi hoặc: Vì sự thiên lệch
(27) Phép hóa trai: khuôn phép phải giữ trong khi đi khất thực.

Trong khi khất thực, ông A Nan đi ngang qua nhà dâm nữ Ma Đăng Già (Matanga), bị phép huyễn thuật. Nàng ấy dùng tà chú Tiên Phạm Thiên của đạo Ta Tì Ca La, bắt vào phòng dâm vuốt ve, làm cho ông A Nan gần phá giới thể(28).
(28) gần phá giới thể: suýt phá giới.
Đức Như Lai biết ông A Nan mắc nạn, dùng trai xong về ngay. Vua cùng đại thần, trưởng giả, cư sĩ đều đi theo Phật, cầu nghe pháp màu.
Khi ấy trên đỉnh đức Thế Tôn phóng hào quang sáng rực, đủ trăm thứ báu, rất tự tại, không e sợ. Trong hào quang có hoa sen nghìn cánh, có hóa thân Phật(29) ngồi kiết già trên đài hoa, đọc bài thần chú, khiến ông Văn Thù Sư Lợi mang chú ấy đến mà dẹp trừ tà chú, đem ông A Nan cùng nàng Ma Đăng Già đến chỗ Phật.
(29) hóa thân Phật: vị Phật do đức Thích Ca hóa ra, y hệt Phật.

BÌNH LUẬN(30)

(30) Phần giải thích và bình luận của Tuệ Quang.
Tên của kinh
Đại Phật đỉnh: cái tướng quý trên đỉnh đầu Phật.
Như Lai mật nhân: cái nguyên nhân sâu kín của Phật.
Tu chứng liễu nghĩa: Liễu nghĩa là nghĩa hoàn toàn, đúng chân lý.
Tu chứng liễu nghĩa là tu chứng đúng với chân lý, đúng với cảnh giới Phật.
Chư Bồ Tát vạn hạnh: muôn hạnh tu tốt đẹp của mọi Bồ Tát.
Thủ lăng nghiêm: có nghĩa là bền vững, không bị cảnh đời lôi cuốn, không bị thoái chuyển.
Nghĩa cả câu tên của kinh này:
"Đại Phật đỉnh, Như Lai mật nhân, tu chứng liễu nghĩa, chư Bồ Tát vạn hạnh, Thủ Lăng Nghiêm Kinh" nghĩa là: "Kinh này dạy phép tu vào chính định. Chính định này rất kiên cố, bền vững, giúp người tu thẳng đến chân lý, đến quả Phật. Mọi Bồ Tát muốn tu tới chân lý, đều phải tu qua phép Định này. Đó là nguyên nhân sâu kín đã giúp Phật thành Phật. Kinh này rất cao, rất quý, nên ví với cái đỉnh đầu Phật".
Ta hay gọi tắt kinh này là Thủ Lăng Nghiêm hay "Lăng Nghiêm".
Bộ kinh Lăng Nghiêm có 10 quyển.
Ta bắt đầu nghiên cứu quyển thứ nhất.
A - DUYÊN KHỞI
Bộ kinh nào do Phật dạy cũng đều rất mạch lạc, bao giờ cũng có vào đề, phần chính và kết luận.
Riêng bộ kinh Lăng Nghiêm này, Phật giảng cho những người thông minh, thích lý luận, mà tiêu biểu là ông A Nan.
Vì thế, Phật áp dụng "nhân minh học" là cả một khoa học và nghệ thuật về lý luận, để biện minh chân lý, và để giảng cho những tâm hồn hay thắc mắc, băn khoăn, muốn tìm hiểu nguyên lý của cuộc đời.
Phật khéo chỉ dần từ nông đến sâu, thấp đến cao, để người học tự biện luận, tự phá cái chấp của mình, mà khám phá ra sự thật.
Cả bộ kinh rất mạch lạc, tinh vi, có mở có đóng, có chuyển từ vấn đề nọ sang vấn đề kia.
Chúng tôi theo dõi lối biện luận của Phật, phân tích cặn kẽ từng đoạn từng phần, ví như vẽ tấm bản đồ cho một khu rừng rậm rạp, quanh co, để người học biết đường, biết lối mà băng qua, không đến nỗi bị lạc trong đám cây tưởng là vô tận.
Nếu người đọc mất công theo dõi, dựa theo từng phần từng đoạn, sẽ hiểu rất sâu bộ kinh này, và đồng thời đã có một căn bản vững chắc về Phật học.
Chúng tôi cũng nhân bộ kinh này, nói rộng về Phật pháp, mong giúp người học bớt nhiều băn khoăn, đỡ nhiều công tìm tòi.
Nhiều người học Phật, bị ảnh hưởng của đạo Nho, đạo Lão, quy đạo Phật trong mấy chữ Tâm, Tính, Thể, Dụng, Chân Tâm… làm chết đạo Phật. Vị đó lấy mấy giọt nước đục, làm thiên hạ tưởng rằng đó là đại dương mênh mông, trong suốt.
Tôi cố gắng tránh những lầm đó, mang lại chân giá trị cho Phật pháp, cho một nền giáo lý bao giờ cũng đứng đầu nhân loại, giúp nhân loại tiến mãi, ngày càng cao thượng, vĩ đại, đẹp đẽ hơn.
Bộ Kinh Lăng Nghiêm cũng chia làm 3 phần chính:
A - "Vào đề" hay "Duyên khởi"
B - "Phần chính" hay "Chính tôn"
C - "Kết luận" hay "Lưu thông"
Nay ta hãy xét phần duyên khởi.
Phần vào đề này đặt vấn đề cho bộ kinh.
Trước hết là phần "vào đề chung": kinh nào cũng vào đề như thế. Ông A Nan thuật lại ông được nghe kinh đó vào lúc nào, ở đâu, những ai nghe, quang cảnh lúc Phật giảng kinh như thế nào.
Rồi đến phần "vào đề riêng": tức là nguyên nhân nào đã khiến Phật giảng kinh này. Mỗi kinh đều có duyên cớ riêng. Ở đây, duyên cớ vì ông A Nan mắc nạn, được Phật cứu cho. Vì thế, ông A Nan cầu Phật dạy cho phép chính định kiên cố, không còn bị lay chuyển nữa.

Kinh Lăng Nghiêm - Tựa

PHẬT LỊCH 2536

KINH LĂNG NGHIÊM

LỜI GIỚI THIỆU

của Thượng Tọa THÍCH TÂM CHÂU
Kinh Lăng Nghiêm rất có danh tiếng ở Việt Nam.
Kinh này đã độ nhiều trí thức và Phật tử, giúp họ có một căn bản vững chắc, đi sâu vào đạo.
Nay giáo sư Tuệ Quang áp dụng một phương pháp mới để nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm, phân đoạn rất tinh vi, tỷ mỷ. Nhờ đó, chúng ta thấy phương pháp giảng dạy của Phật rất tài tình, mạch lạc.
Phật dùng nhân-minh để giảng dạy bộ Kinh này.
Dịch giả dùng lối văn giản dị, rõ ràng, trình bày rất sáng sủa, mà vẫn dịch đúng nguyên văn.
Cuối mỗi đoạn lại có phần bình luận, hướng dẫn người đọc và giảng rộng những chỗ cần giảng.
Nhờ đó, người đọc có thể thông suốt bộ kinh, và hiểu sâu triết lý đạo Phật.
Tôi ân cần giới thiệu bộ Kinh rất có giá trị, bộ "Phương pháp mới nghiêm cứu kinh Lăng Nghiêm" với các trí thức và Phật tử gần xa.
Công đức tụng kinh cũng rất lớn lao. Mong nhiều Phật tử sẽ ra công trì tụng và truyền bá kinh này.
Trân trọng
THÍCH TÂM CHÂU
Saigon ngày 1-5-1964
Phật lịch 2507




Khi đã có căn bản ở kinh này, người tu có thể học lên cảnh giới Hoa Nghiêm, hiểu các tầng bậc tu chứng của các Bồ Tát, cho đến quả Phật.
Có thể nghiên cứu kinh Viên Giác, là kinh tối cao của đạo Phật, chuyên chỉ cảnh giới Phật.
Có thể nghiên cứu kinh Duy Ma Cật, chuyên chú về thực hành, chỉ rõ các hạnh phải làm của Bồ Tát tu Viên và tu Biệt.
Chúng tôi muốn giúp các Phật tử, các trí thức muốn hiểu rõ đạo Phật, nên phát tâm dịch và giảng bộ kinh này.
Phần lớn các tài liệu là của cụ Trí Độ, một nhà học Phật uyên thâm, trọn một đời tu học chính pháp, chuyên nghiên cứu và giảng kinh Lăng Nghiêm. Cụ đã đào tạo một số đệ tử như Trí Quang, Trí Tịnh, Thiện Siêu, Thiện Minh, Huyền Trang… những vị đã góp một phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng đạo Phật ở Trung-Việt.
Năm 1948, cụ Trí Độ đã phát tâm dạy tôi bộ kinh này. Cụ mang hết kinh nghiệm trong một đời tu học để truyền cho tôi. Nhờ cụ, tôi mới có căn bản về đạo Phật, và có thể tìm học, tiến mãi lên cao.
Cụ có dịch với tôi kinh Lăng Nghiêm và bộ Thành Duy Thức của Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Cụ Trí Độ có căn dặn tôi, và tôi có hứa với cụ là sẽ phổ biến hai bộ trên cho thế hệ tương lai.
Tôi đã giảng kinh này ở Hà Nội, Sài Gòn vào các năm 1950, 1951 trước giới Phật tử và trí thức.
Nay tôi trả nghĩa cụ, mang công bố bản dịch kinh Lăng Nghiêm này.
Nhưng chỗ cao siêu, uyên áo của kinh này, và chỗ thực hành tu chứng vào Càn Tuệ Địa, là nhờ cụ Huyền Cơ chỉ dạy.
Chỗ nói về nguyên nhân của vũ trụ, chỗ nêu vấn đề tại sao chân lại sinh ra vọng, và chỗ thực hành vào Càn Tuệ Địa, là những vấn đề làm hầu hết các nhà học Phật ở Việt Nam và thế giới bối rối, trừ những vị Tam tạng Pháp sư xuất chúng như ngài Huyền Trang, ngài Khuy Cơ mới hiểu và giảng được.
Tôi may mắn được cụ Huyền Cơ gỡ rối cho, và từ trình độ kinh Lăng Nghiêm, mở cho tôi những chân trời bao la của chính pháp. Cụ Huyền Cơ là một vị Bồ Tát lớn, đã nhiều kiếp tu chứng, giỏi cả về Mật Tôn, Thuyền Tôn, Nhân Minh, Duy Thức, Luật Tôn, thông suốt năm đại tạng ở trường Viễn Đông bác cổ Hà Nội.
Cụ Huyền Cơ mở cho tôi chỗ cao tột của kinh này, và từ đó, dắt tôi lên cảnh giới Hoa Nghiêm, Viên Giác.
Đạo Phật từ xưa tới nay, ở Việt Nam và thế giới, phần nhiều chỉ loanh quanh trong vòng văn tự, sách vở, lý thuyết xuông.
Nhờ cụ Huyền Cơ, đạo Phật trở thành một đạo sống, đầy sinh khí, chỉ chân lý rõ ràng như ban ngày.
Phật pháp có cơ tiếp tục sứ mệnh của mình, đó là: "Đi trước nhân loại, đi trước chúng sanh, cứu thoát chúng sinh tới chân lý tuyệt đối".
Tôi có áp dụng một số chìa khóa của kinh này, đó là bí quyết mở màn bí mật, giúp người học hiểu được nguyên lý của sự vật.
Trong khi dịch và giảng bộ kinh Lăng Nghiêm, tôi có tham khảo tài liệu của cụ Tâm Minh.
Cụ Tâm Minh là một nhà học Phật uyên bác, lỗi lạc. Một số đệ tử của cụ như Minh Châu, Võ Đình Cường… đã cố gắng nối chí cụ.
Cụ có dịch kinh Lăng Nghiêm được nửa bộ, do hội Phật học Trung-Việt xuất bản.
Tôi cũng tham khảo bản dịch của Đại Đức Thích Chân Giám, do hội Phật học Linh Sơn xuất bản.
Chúng tôi cố gắng trình bày bằng một lối văn sáng sủa, rõ ràng, theo một phương pháp mới, thích hợp với tâm hồn, trí thức đời nay, để thế hệ tương lai có thể hiểu được đạo Phật.
Ước mong kinh này sẽ giúp nhiều người hiểu đạo.
Chúc các Phật tử một tương lai sáng lạn.
TUỆ QUANG
Viện Phật học Huyền Cơ
Xuân Giáp Thìn (1964)

Kinh Lăng Nghiêm